Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Trạch Pháp

01 Tháng Hai 201400:00(Xem: 12176)
Trạch Pháp

sakya-muni-2aTừ Trạch Pháp này rất quen thuộc trong Phật Giáo, nhưng đã có mấy người Phật tử chịu tìm hiểu tận tường. Do vậy, trong khóa tu Gieo Duyên cuối năm 2013 tại Tự Viện Pháp Bảo, Sydney, chúng tôi trong Ban Giáo Thọ phụ trách giảng giải chủ đề này trong ba buổi học để học viên nắm vững được đầy đủ hơn, ngõ hầu vui thích học pháp và như vậy mới dễ dàng cho việc ứng dụng giáo pháp vào đời sống thường nhật. Trạch pháp - chọn pháp – nói đủ là trạch pháp giác phần hay pháp giác ý. Dùng trí tuệ lựa chọn, phân biệt đúng sai, thật giả của các pháp để chọn chân bỏ giả thẳng hướng tới Bồ Đề, là một trong bảy pháp giác chi như lời Phật dạy.

Còn ở đời người ta đa phần dựa vào quyền lực của kẻ mạnh để chọn chức tước, địa vị, dựa thân thế trong việc thăng quan tiến chức, dùng mưu kế sắp đặt, toan tính việc gì có lợi cho bản thân, nghĩ ra nhiều mánh mung vặt vãnh để mong thủ lợi cho mình. Đem tiền bạc làm mồi cho thiên hạ muốn lợi dụng, theo hùa về số đông đe dọa hoặc hiếp đáp kẻ yếu kém, thế cô… đều là những sự chọn lựa bất xứng, trước sau gì rồi cũng bị lộ diện trước ánh sáng của công lý. Cũng như mọi người, cuộc sống chúng ta cần phải có một nhu cầu tối thiểu như ăn uống, là cả một vấn đề không đơn giản chút nào cả. Thế giới đã trải qua hai cuộc đại chiến thứ nhất và thứ hai chung qui cũng chỉ vì con người tranh giành nhau về nguồn lợi kinh tế; đồ mặc cũng không phải không phức tạp do nhu cầu của ta muốn đẹp không chưa đủ mà còn muốn sang trọng nữa mới hài lòng. Nội việc làm thoả mãn cái đẹp, cái sang này mà chúng ta đã đoạt mất sự sống của loài vật khác không thương tiếc, có nhiều khi trực tiếp phá hoại môi trường thiên nhiên trong việc cung cấp nhu liệu sản phẩm qua đơn đặt hàng hàng loạt. Về chỗ ở cũng là điều đáng quan tâm hàng đầu, một khi nhu cầu càng cao thì chi tiêu càng lớn; và cứ như thế ta lo chạy đua hụt hơi mà vẫn chưa chịu dừng lại. Cho tới một lúc nào đó mệt mỏi rã rời bất chợt nhận ra việc đã quá trớn ta không còn hãm đà được nữa, và rồi mọi ảnh hưởng liên đới vô cùng tệ hại không tìm ra lối thoát. Còn về phương tiện của cuộc sống cũng phải biết cân nhắc cẩn thận, tính toán đủ cách mới phần nào tránh bớt phương hại cho mọi người và mọi loài. Nói chung sống trên đời ta phải chọn đúng ngành nghề để theo đuổi cho tay nghề được điêu luyện tinh vi. Ngay từ khi còn học trung học, ta cũng đã chọn ngành học thích hợp ở bậc đại học mới kịp chuẩn bị hành trang vào tương lai, hầu khỏi ngỡ ngàng và lúng túng khó giải quyết. Cũng như về sở thích không ai giống ai, đó đều do mỗi người chọn lựa theo đuổi tới cùng mới thoả mãn được hoài mong. Và phần năng khiếu tức là tài chuyên môn về một khía cạnh đặc biệt nào đó cũng làm cho ta xứng đáng góp mặt với đời, nếu biết triển khai đúng mức.

Nói về pháp để chọn có rất nhiều không thể tính hết được, miễn sao chọn pháp hợp với căn cơ trình độ, hoàn cảnh vai trò trong xã hội v.v… cũng như ta chọn thức ăn rồi mua về chế biến sao cho thích hợp khẩu vị để mình thưởng thức hay đãi khách khứa, bạn bè. Chọn đề cập ở đây khác với lựa, vì chưa thấy rõ hoặc hình dung cụ thể, trong khi lựa chọn món đồ vừa ý, mắt ta đã nhìn thấy tận tường nên chăm chú cố nhặt lấy món mình thích. Chẳng hạn chọn ngành học, chọn nghề nghiệp là những gì chưa rõ ràng cụ thể, nhưng khi đã cương quyết ta phải dốc lòng theo đuổi cho tới lúc đạt đến thành công. Muốn được vậy, ta cần phải gia tâm bền chí và nỗ lực tinh tấn không ngừng để cho thấy việc mình làm đúng. Xin đơn cử một việc nhỏ như chuyến du lịch, ta biết tấm vé thuộc hạng nào và số chỗ ngồi đã qui định. Nên một cách tự nhiên hành khách đặt mình vào đúng vị trí để không tạo bất ổn, làm mất trật tựphiền lòng người khác. Trong trường hợp này, ta cũng biết lường trước khả năng có thể mua vé hạng nhất, business hay hạng economy… đó cũng là cách chọn thích hợp hoàn cảnhđiều kiện.

Trong đạo cần phải chọn đúng pháp môn tu như Thiền, Tịnh Độ, Mật Tông, Kim cang v.v… hầu chuyên tâm sâu vào mỗi pháp mới đạt đến kết quả mong muốn. Nói rộng hơn như chọn Thầy, chọn bạn, chọn vị trí thích hợp hạ lạp, chọn người trụ trì, thế hệ kế thừa ngôi chùa, giảng sư, bài giảng, học viện, địa danh v.v… như chuyên về pháp môn Thiền phải nhắm tới thiền chỉ hay thiền quán. Thiền chỉ là pháp quán theo dõi hơi thở ra vào để dừng dứt tâm dao động, bất an phần nhiều của người mới nhập môn; thiền quán tức là tĩnh tâm tư duy, quán chiếu chân lý. Lục Tổ Huệ Năng giải thích thiền đinh như sau: “Ngoài lìa tướng là thiền, trong không loạn là định” (Từ điển Thiền Tông Hán Việt do Hân Mẫn và Thông Thiền dịch). Cốt tủy của Thiền như sơ tổ Thiền Tông Trung Hoa, Ngài Bồ Đề Đạt Ma có lưu xuất bài kệ:

Bất lập văn tự

Giáo ngoại biệt truyền

Trực chỉ nhân tâm

Kiến tánh thành Phật.

Dịch

Không lập văn tự (chữ nghĩa)

Truyền ngoài giáo pháp

Chỉ thẳng tâm người

Thấy tánh thành Phật.

Nói chung hành giả biết thích nghi với hoàn cảnh mà ứng xử để được lợi mình và người. Chẳng hạn, đến tham dự một cuộc đại lễ có mời số đông chư Tăng, ta nên tự biết mình bao nhiêu tuổi hạ để nhường chỗ cho vị có tuổi hạ cao hơn ngồi hay đi trước mình. Việc này không có tính cách bắt buộc mà do tự giác theo qui cách thiền môn, vị Tăng phải có đức tự trọng để được người khác nể trọng. Đây là một hình ảnh đẹp vô cùng mà chỉ có hàng xuất gia chân chánh của Đức Phật mới giữ được mà thôi. Nói xuất gia chân chánh là người tu có bậc Thầy đức độ dẫn dắt, cùng chúng tu học giữ đúng pháp hòa kính, như nước với sữa hòa hợp với nhau, không tranh cải lớn tiếng, không tụ tập bàn luận việc vô ích. Ở trong chúng cùng nhau chia xẻ sự học hỏi cũng như hiểu biết và cao trọng hơn cả là cùng giữ gìn giới luật, dù không cùng cha mẹ, nhưng chung Thầy và cùng tôn thờ một lý tưởng nên dễ thông cảm nhau chẳng khác gì anh em ruột thịt một nhà. Ngày xưa, hồi Phật còn tại thế, nếp sống Tăng đoàn rất đẹp và hòa hợp nhờ ân đức của đức Từ Phụ qua sự giáo huấn ân cần của Ngài. Sự giáo dục của Đức Phật cảm hóa đệ tử qua ba khía cạnh thân, khẩu, ý. Thân tướng Phật trang nghiêm, giới đức thanh tịnh, đi khất thực mỗi ngày, đi chân trần ngày ăn một bửa… là những hình ảnh rất thực, gần gũi, thân thương dễ cảm hóa người khác nên chúng xuất gia được nhiều lợi lạc. Lời nói nhu hòa, nói lời từ ái, lời nói chân thật, lời nói lợi lạc của Phật cảm hóa được nhiều người trong đó có hàng Vua quan như Vua Tần Bà Sa La, A Xà Thế, hoàng hậu Vi Đề Hy, ông trưởng giả Cấp Cô Độc… quy y theo Phật để trở thành đệ tử của Tam Bảo hết lòng hộ trì chánh pháp.

Còn về ý giáo chỉ những đệ tửcơ duyên được Phật ấn chứng, nối truyền chánh pháp Như Lai qua câu chuyện ấn tâm cho Ngài Ma ha Ca Diếp, như chúng ta đã biết nơi pháp hội Linh Sơn với số chúng đông vầy, Phật giơ cành hoa sen ra giữa mọi người mà không ai hiểu ý gì cả. Trong khi đó, Ngài Ca Diếp mĩm cười do lãnh hội được ý của Phật, nên được đức Phật truyền tâm ấn qua bài kệ:

Ta có chánh pháp nhãn tạng

Niết Bàn diệu tâm: thật tướng vô tướng

Nay phó chúc cho ngươi

Ngươi khéo gia tâm gìn giữ lưu truyền.

Qua lịch sử truyền bá đạo Phật, sự chọn pháp đúng người, giao đúng việc chỉ đức Phật có đầy đủ cái nhìn trạch pháp như ta đã biết qua các vị Tổ như Ma ha Ca Diếp sơ Tổ Thiền Tông, là bậc tu hạnh đầu đà (khổ hạnh) đệ nhất, Tổ đệ nhị Ngài A Nan, đa văn đệ nhất, Tổ Thương Na Hòa Tu… mỗi vị đều có một hạnh đặc biệt. Ngay cả trong số 10 đệ tử lớn của Phật như các Ngài Ưu Ba Ly, Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, A Na Luật, Phú Lâu Na, Ca Chiên Diên, Tu Bồ Đề, A NanLa Hầu La là những vị trực tiếp lãnh trách vụ tuyên dương giáo pháp của Phật theo sở trường và chỗ tu chứng, nên công việc truyền giáo vô cùng thuận duyên, lợi lạc đối với nhân sinh xã hội từ Ấn Độ sang các nước Đông Nam Á. Vào thế kỷ thứ 20, đạo Phật đã truyền bá sang các nước Tây Phương, nên ngày nay toàn thể nhân loại đều biết qua Phật Giáo hay nghiên cứu giáo lý đạo Phật. Đó cũng nhờ chư Tổ, những nhà học giả Phật Giáo đã đặt địa bàn đúng hướng và tầm nhìn nhất quán với con mắt trạch pháp tinh tế như vậy.

Trong thời đại văn minh khoa học vật chất của thế kỷ 21 này, có thể nói do con người sai lầm tạo nên đã và sẽ đưa nhân loại vào vòng thống khổ như sự ô nhiễm môi sinh, bầu khí quyển nên xảy ra nhiều biến cố thiên tai như bão lụt, sóng thần, động đất, núi lửa… cướp đi hàng triệu mạng người tại Phi Luật Tân, Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ trong những tháng cuối năm 2013 vừa qua, là những hình ảnh kinh hoàng đáng nhớ. Những cuộc chiến ủy nhiệm do Hoa Kỳ chủ trương tại Iran, Afghanistan và quân đội các nước đồng minh tham chiến, đang bị sa lầy không lối thoát, đều do sách lược sai lầm, chủ quan và không tự chế, nên đã hy sinh không biết bao nhiêu mạng sống, tài nguyên và tiền của cho tham vọng của các nước tư bản. Theo đà tiến bộ nhanh đến độ chóng mặt hôm nay, chúng ta đang chờ xem một ngày kia nhân loại càng lầm than, khổ sở hơn lên gấp bội. Những thiên tai, hoạn họa, chiến tranh, dịch bệnh, ung thư… ngày càng lan tràn với sức tàn phá mãnh liệt những con người trên mặt đất này. Hậu quả của những tác hại kinh khủng đó không từ trên trời rơi xuống, cũng không do ai khác xúi sử mà một phần lớn mỗi người chúng ta phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. Vấn đềcon người hôm nay mãi chạy đua theo mode thời trang, làm giàu trên sức cần lao của kẻ khác nên đã trực tiếp làm hỏng môi trường sinh thái. Vậy đã đến lúc chúng ta phải gióng lên hồi chuông báo động để ngăn chặn, sửa sai sự lạm dụng phương tiện sống dồi dào, rồi đi quá đà không kềm hãm lại được mà làm cạn kiệt tài nguyên, bào mòn sự sống của mọi loài không biết thương tiếc.

Thế giới đang chủ trương hòa bình trong khi tự thân mỗi người lại nuôi mầm thù hận, âm mưu chiếm đoạt của kẻ khác, nên mầm chiến tranh cứ mãi âm ỉ khó mong chấm dứt tận gốc.

Kinh Lục Độ Tập quyển 1, bài số 10 nêu dẫn câu chuyện xưa: Bồ Tát làm vị quốc vương tên là Trường Thọ, thái tử tên là Trường Sanh. Nhà vua nhân từ, luôn thương xót chúng sanh và luôn tinh tấn hành thiện. Dao gậy không dùng đến, nhân dân mến mộ, thời tiết điều hòa, lúa thóc được mùa.

Tiểu vương nước láng giềng rất bạo ngược, tham tàn nên dân nghèo, nước yếu kém. Nhà vua nước ấy bảo quần thần:

Ta nghe vua Trường Thọ giàu có, lại có lòng nhân không giết hại, không có quân đội phòng thủ, lại không xa, ta muốn chiếm lấy nước đó, được chăng?

- Quần thần tâu: Được.

Vua liền khởi binh kéo đến biên giới nước lớn. Quan giữ cửa thành vội tâu rõ tình trạng xin gấp rút tìm cách phòng thủ. Vua Trường Thọ họp quần thần, bảo rằng:

- Vua kia đến đây chỉ vì tham nước ta dân đông, nhiều của báu. Nếu giao tranh với họ ắt hẳn sát hại nhiều người. Vì lợi mình mà tàn hại dân, tham lam mà bất nhân, việc ấy ta không làm.

Quần thần đều tâu: - Chúng thần từ lâu đã học tập quân mưu, binh pháp, xin được đem binh đánh diệt bọn chúng, không nhọc thánh quân lo nghĩ.

Vua Trường Thọ nói:

- Ta thắng thì chúng chết, còn ta thua thời ta tiêu tan. Dù binh lính của họ hay

nhân dân của ta đều do trời sinh dưỡng. Trọng thân tiếc mạng, ai mà chẳng vậy. Nhưng để toàn thân mình, mà hại muôn dân thì người hiền không làm.

Quần thần đồng thanh đứng dậy cùng nói:

- Đây là bậc vua trời nhân đức, không thể để mất nước, phải cùng chung nhau kiểm điểm binh mã đem ra chống giặc.

Vua Trường Thọ biết rõ việc ấy nên gọi Thái Tử bảo:

- Vua kia tham nước ta muốn tới chiếm lấy, quần thần vì thân ta chỉ một người mà muốn hại mạng muôn dân. Nên ta giao nước để bảo toàn mạng sống cho dân trời, việc ấy nên chăng?

Thái Tử tâu: xin vâng theo phụ vương!

Thế rồi cha con vượt thành ra đi, thay tên đổi họ, ẩn cư nơi non sâu rừng vắng.

Vua tham kia tự do vào thành, rồi treo giải thưởng là 1000 lạng vàng cho ai bắt được vua cũ. Còn về vua Trường Thọ ra đi, ngồi thiền định dưới gốc cây nơi hoang vắng nghĩ thương chúng sanh lăn lộn cực khổ theo dòng sống chết, không thấy vô thường, khổ, không, vô ngã, vì bị tham dục mê hoặc, khổ càng tăng lên gấp bội.

Có người Phạm Chí từ xa, nghe vua Trường Thọ thích bố thí, cứu giúp kẻ nghèo, cứu mạng sống của chúng sinh, ông tìm đến cũng dừng nghỉ bên gốc cây

này. Đôi bên hỏi thăm nhau, mỗi người kể rõ hoàn cảnh của mình. Vị Phạm Chí kinh ngạc nói:

Thiên Vương làm sao ra nông nỗi này? Rồi rơi nước mắt tự than thở:

- Nhưng năm tàn của đời tôi không còn bao lâu nữa, nên tôi định đến xin Ngài tiếp sức cho cái mạng thừa này. Nhưng đại vương đã mất nước thời mạng tôi cũng tàn rồi! Vừa nói ông vừa than khóc.

Vua nói:

- Ông nghèo khó, từ xa tìm đến, lại gặp lúc ta mất nước, không có gì giúp ông được, thật ta vô cùng đau xót; Và nói tiếp:

- Ta nghe vua mới đang treo giá bắt ta rất hậu, vậy ông hãy lấy đầu ta đem đến đó để được trọng thưởng.

Phạm Chí không dám nhận lời đề nghị. Nhà vua phân tích: thân này là đồ mục nát, không giữ được lâu. Có sinh ắt có tử, không ai trường tồn được đâu. Nếu ông không lấy rốt cuộc nó cũng thành tro bụi mà thôi. Thế rồi Phạm Chí dắt vua đi… Đến cửa thành cũ, vua bảo Phạm Chí trói mình lại nạp cho vua tham kia. Người trong nước thấy vua như vậy, thương xót, kêu gào thảm thiết. Người Phạm Chí nhận thưởng. Vua mới ra lịnh đem vua Trường Thọ đến ngã tư đường thiêu sống. Biết được tin ấy dân chúng thương xót kéo nhau tới hiện trường vật vả kêu cầu gào khóc. Thái Tử Trường

Sanh giả làm người bán củi tới đứng trước mặt cha. Vua thấy con liền ngửa mặt lên trời nói:

- Nếu trái lời cha dặn, chất chứa hung độc, lòng mang oán hận thời chuốc họa muôn đời, không phải là người con hiếu. Ta vì theo đạo mà tự giết thân mình để cứu giúp chúng sanh, còn sợ là không tròn chút hạnh của đạo hiếu, huống lại làm chuyện ngỗ ngược báo thù sao? Vâng lời ta dạy mới là hiếu vậy.

Thái Tử đau lòng không nở nhìn cha chết nên liền trở về núi sâu. Nhà vua mạng chung, Thái Tử khóc thương vật vả nói:

- Vua cha của ta tuy lúc lâm chung đã có lời dạy hết mực nhân từ, nhưng chắc ta phải trái lời dạy đó, phải diệt trừ loài thú dữ độc hại kia,

Sau khi rời núi Thái Tử tìm chỗ thuê mướn mình làm người trồng rau cho một vị quan. Công việc vườn tược rất tốt. Một hôm vị quan gọi người làm vườn đến hỏi:

- Người còn có khả năng gì nữa? Người kia đáp:

- Khéo cả trăm nghề, tôi đều đứng đầu.

Vị quan mời vua tham kia đến và bảo anh ta nấu ăn dâng lên vua thưởng thức. Vua phát hiện được tài năng của anh, liền hỏi vị quan. Vị quan đem hoàn cảnh hiện tại của anh thưa lên. Vua bèn nhận anh về làm quan ngự thiện (coi việc bếp

núc) rất được tin tưởng. Dần dần Thái Tử Trường Sanh được vua tham cất nhắc lên chức quan cận thần, bảo:

- Con của vua Trường Thọ là kẻ trọng thù với ta, nay ta dùng ngươi làm quan cận vệ.

Thái tử chấp thuận ngay. Một hôm, vua cùng Thái Tử đi săn, Vì rượt đuổi theo con mồi, vua lạc đường chỉ còn lại Trường Sanh bên cạnh. Họ ở trong núi đến ba ngày đói khát, khốn khổ vua bèn tháo kiếm trao cho Trường Sanh, rồi gối đầu lên đùi Thái Tử mà ngủ. Trường Sanh nói:

- Nay ta đã được người mà không giết ư?

Liền rút kiếm muốn chém đầu vua tham, song chợt nhớ lại lời cha dặn: “Trái lời dạy của ta là bất hiếu”, nên dừng lại tra kiếm vào võ. Vua tham tỉnh giấc nói:

- Ta vừa mơ thấy Trường Sanh muốn chém đầu ta. Phải làm sao đây?

Thái Tử đáp: - Núi có quỹ dữ, vui thích việc nung nấu, nhưng có thần bên cạnh, còn lo sợ gì nữa.

Thế là vua ngủ tiếp. Sự việc như trên lại tái diễn đến lần thứ ba, Thái tử liền ném kiếm, nói:

- Ta vì cha ta nhân từtha mạng cho người đó ! Vua tỉnh dậy nói:

Ta mơ thấy Thái tử Trường Sanh đã tha mạng cho ta rồi.

Thái Tử nói rằng, Trường Sanh chính

là tôi đây! Nhớ cha nên đã theo đuổi kẻ thù đến hôm nay! Cha tôi đến lúc chết mà miệng vẫn còn dạy tôi lời nhân từ, tôi tuân theo đạo lý nhẫn nhục, đem thiện trả ác của chư Phật. Nhưng tâm tánh tôi ngu muội, muốn đem hai thứ độc ấy để lẫn vào nhau, ba lần nghĩ tới lời dạy của Cha thì ba lần đều buông kiếm. Vậy xin đại vương hãy giết tôi đi để trừ hậu hoạn. Thân chết, hồn lìa thời ý ác không còn nữa.

Quá đổi xúc động, vua tham hối lỗi, nói:

- Ta làm việc bạo ngược không phân biệt thiện ác, tiên vương của ngươi hạnh cao khiết, thà mất nước chứ không mất hạnh, đáng gọi là bậc thượng Thánh. Ngẫm lại mình, ta là giống sài lang, tàn hại sinh linh để đuợc thỏa mãn lòng tham. Nay mạng sống của ta ở trong tay ngươi, mà ngươi tha không giết, sau này há dám làm trái đạo nữa sao! Tỉnh thần, vua muốn tìm đường trở về nước.

Lúc đó, Trường Sanh mới cho hay, việc lạc đường này đều do mình sắp đặt. Rồi Thái Tử đưa vua ra khỏi rừng, gặp lại các quan tùy tùng. Vua hỏi:

Các ông có biết Thái Tử Trường Sanh không? Họ đáp: Không. Vua chỉ người này là Thái tử Trường Sanh, nay sẽ trở về nước, còn ta sẽ trở lại nước cũ. Từ nay kết làm anh em, họa phúc có nhau.

Ngày Thái Tử Trường Sanh lên làm vua, cả nước vừa vui vừa buồn, mọi người đều hết lời chúc tụng. Vua tham trở về nước mình, nối lại việc triều cống

như xưa, nên đất nước được thái hòa, nhân dân an lạc. (Kinh Bản Duyên tập 10, Linh Sơn Pháp Bảo Đài Bắc ấn hành năm 2000 dịch từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh).

Xem như thế để thấy do đâu mà trận chiến đẫm máu không xảy ra giữa hai nước? Mối thù truyền kiếp giữa hai nhân vật hàng đầu lãnh đạo đất nước được mở trói không oán kết?

Sự quyết định tối hậu do đức vua nhân từ đức độ chọn giao đất nước cho kẻ xâm lăng, không làm tổn hại một mảy may vật lực, tài sản quốc gia, lại cứu sống được cho hàng vạn dân lành khỏi lâm cảnh máu đổ đầu rơi trong cuộc chinh chiến, dù được che đậy dưới bất cứ chiêu bài, nhãn hiệu hay sách lược nào của kẻ thắng cuộc. Thật quả, khuôn nào đúc ra mẫu đó, vua Trường Thọ chết đi mà gương lành vẫn còn sáng ngời soi rạng cổ kim; Thái tử Trường Sanh xứng đáng là người con hiếu thảo, vâng lờihiểu biết. Nếu không nhờ ảnh hưởng đức hiếu sinh và độ lượng của cha, làm sao thái tử có đủ tâm từ tha cho kẻ thù đã lọt vào tay mình, vẫn đủ sáng suốt chọn cách tốt nhất để dứt mối họa không còn di hại về sau, bằng cách tha mạng cho kẻ thế cô, lực cùng. Nhờ đức độ của nhà vua và Thái Tửcảm hóa được vị vua tham theo về chánh đạo. Ôi, cao đẹp biết bao! Thánh Thiện dường nào! Văn chương, ngôn từ hay bút mực nào có đủ diễn đạt cho được hạnh đức của tiền nhân.

Đệ tử của Phật, tại giaxuất gia nguyện tinh tấn tu tập, phát Bồ Đề Tâm, hành Bồ Tát đạo nhiệt thành chọn pháp thích hợp, lợi lạc, không chọn pháp chỉ có lợi cho mình mà làm phương hại cho người khác và mọi loài chúng sanh. Chỉ như thế, ta mới chứng tỏ thực hành đúng như pháp.

Sydney, ngày 7 tháng 1 năm 2014

Sa môn Thích Bảo Lạc

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3711)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4037)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3572)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 4931)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6517)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 3897)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4001)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5226)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3691)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4407)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3450)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3829)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4290)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5291)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3749)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3831)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3778)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4701)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4435)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4161)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3739)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4493)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4084)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 5967)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4504)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4857)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4083)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4734)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5576)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3541)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 3954)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4507)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5183)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3063)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4659)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4448)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4201)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4658)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4400)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4502)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7097)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5109)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 4909)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4493)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5521)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5177)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4065)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 5886)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4596)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4787)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5372)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5481)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5692)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
(Xem: 4906)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4265)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4577)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4616)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5767)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3240)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5169)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant