Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tìm Niết bàn trong sinh tử

18 Tháng Hai 201400:00(Xem: 7688)
Tìm Niết bàn trong sinh tử

TÌM NIẾT BÀN TRONG SINH TỬ
 
Thích Nhất Hạnh

Sinh Phật bất nhị

Những người Cơ đốc giáo thường đặt vấn đề: Thượng đế có phải là một con người hay không? Nếu Thượng đế không phải là một con người thì làm sao chúng ta có thể cầu nguyện? Đây là một vấn đề rất lớn trong Cơ đốc giáo. (God is a person or is not a person?)

Vào hạ bán thế kỷ thứ 20, những nhà thần học cho rằng: Tuy Thượng đế không phải là một con người nhưng Ngài cũng không ít hơn một con người. God is not a person but is not less than a person. Người ta đi tới quan niệm: Thượng đế không phải chỉ là một con người. Đó là một bước tiến rất lớn!

nietbantrongsinhtu_thichnhathanhTrong đạo Bụt chúng taquan niệm chúng sinh và Bụt. Chúng sinh là những người mê mờ đang đau khổ và Bụt là một người giác ngộ không còn đau khổ. Chúng ta thường phân biệt chúng sinh khác với Bụt. Ta thường có khuynh hướng nghĩ rằng khi đã thành Bụt thì không còn là chúng sinh nữa. Nhưng quan niệm đó không đúng với cái thấy của Phật giáo đại thừa. Theo cái thấy của Phật giáo đại thừa, nếu khôngchúng sinh thì không có Bụt. Đó là lý thuyết: Sinh Phật bất nhị 生 佛 不 二, tức Bụt và chúng sinh không phải là hai cái riêng biệt. Cái này không thể có ngoài cái kia. Chúng sinh và Bụt không phải là hai thực thể riêng biệt. Sở dĩ có Bụt là nhờ có chúng sinh, không có chúng sinh thì không bao giờ có Bụt. Bụt và chúng sinh là một cặp, tuy bề ngoài có vẻ như đối lập nhau nhưng phải nương nhau mà thành. Cũng như bùn và sen, không có bùn thì ta không thể có sen.

Theo giáo lý duyên khởi thì tất cả đều là duyên sinh. Nhìn vào con người ta thấy những yếu tố không phải con người như đất đá, cây cỏ, cầm thú. Những yếu tố như đất, nước, lửa, gió lâu ngày có đủ điều kiện thì sinh ra cây cỏ và những loài chúng sinh, rồi từ những loài chúng sinh phát sinh ra con người. Nếu lấy những loài khoáng chất, cây cỏ và cầm thú ra khỏi con người thì con người không còn nữa. Vì vậy con người cũng là đất đá, cây cỏ và cầm thú. Ta không thể cho rằng khi trở thành con người rồi thì ta không còn là đất đá, cây cỏ và cầm thú nữa. Ta vẫn tiếp tục làm đất đá, cây cỏ và cầm thú tại vì những yếu tố không phải con người vẫn còn trong ta. Tuy đã là Bụt rồi nhưng những yếu tố không phải Bụt vẫn còn trong Bụt. Trong Bụt có những yếu tố như: chúng sinh và những khổ đau, những phiền não, những si mê đã được chuyển hóa. Nhìn vào sen ta thấy những yếu tố không phải sen như là bùn. Nếu muốn tiếp tục làm bông sen thì sen phải sử dụng chất bùn để làm ra sen. Ta đã là con người, nhưng nếu không có đất đá, cây cỏ và cầm thú thì ta không thể tiếp tục làm con người. Vì vậy con người và cái gọi là sinh môi không phải là hai cái khác nhau, hai cái phải dựa trên nhau mà có. Chừng nào không còn chúng sinh thì cũng không còn Bụt. Chừng nào không còn đất đá, thảo mộc, cầm thú thì không còn con người. Vì vậy ta đừng nên hy vọng hão huyền là khi thành Bụt rồi thì ta vĩnh biệt chúng sinh. Sinh Phật bất nhị là cái thấy bất nhị (non dualistic) và cái thấy này phải được áp dụng cho tất cả mọi trường hợp như tay trái và tay phải, chừng nào có tay phải thì có tay trái. Tay phải không thể có mặt một mình mà không cần tay trái. Phật và chúng sinh hay con người và đất đá, cỏ cây, cầm thú cũng như vậy: không có cái này thì không có cái kia. Đó gọi là duyên sinh, là tương đãi.

Thành Bụt rồi có còn thực tập nữa không?

Trong Bụt có hạnh phúc, có tuệ giác, có bồ đề. Bồ đề ngược lại với phiền não, tuệ giác ngược lại với si mêhạnh phúc ngược lại với khổ đau. Nhưng theo tuệ giác mà ta có được do sự quán chiếu thì tất cả đều vô thường. Không phải chỉ có khổ đau là vô thườnghạnh phúc cũng vô thường. Không phải chỉ có phiền nãovô thườngbồ đề cũng vô thường. Tuy có bồ đề nhưng nếu ta không tiếp tục tu thì bồ đề của ta cũng hao mòn. Ta đừng tưởng một khi có bồ đề rồi thì ta sẽ có nó mãi mãi, tại vì bồ đề cũng vô thường. Có khi ta có giác ngộ nhưng vì ta không biết nuôi nấng nên giác ngộ đó lu mờ và ta không sử dụng được. Điều này ta thấy rất rõ: Có nhiều cái ta đã biết rồi nhưng ta không đem ra sử dụng, ta hành xử giống như ta không có tuệ giác.

Bụt cũng vô thường, vô ngã. Nếu muốn tiếp tục làm Bụt thì ta phải tiếp tục sử dụng chất liệu khổ đau, phiền nãosi mê để chế tác hạnh phúc, bồ đềtuệ giác. Chúng ta thường đặt câu hỏi: “Thành Bụt rồi có còn thực tập nữa không?” Câu hỏi này rất đơn sơ nhưng cũng rất quan trọng. Phần lớn trong chúng ta, có thể nói là 99% thường nghĩ rằng: Khi đã thành Bụt rồi thì ta khỏi tu nữa, tại vì thành Bụt là có bồ đề, có tuệ giác, có hỷ lạc. Sự thậtĐức Thế Tôn vẫn đi thiền hành, vẫn ngồi thiền, vẫn thực tập An ban thủ ý. Hạnh phúc, bồ đề, tuệ giác đều vô thường. Nếu muốn nuôi dưỡng nó thì Đức Thế Tôn phải tiếp tục thực tập và Ngài cũng sử dụng khổ đau, phiền não, si mê để tạo ra hạnh phúc, bồ đềtuệ giác. Bông sen, tuy đã thành bông sen nhưng vẫn không thể nhảy ra khỏi bùn. Muốn tiếp tục làm bông sen nó phải ở với bùn và tiếp tục sử dụng bùn.

Có thể nhận diện được Bụt qua những hình thái khác hay không?

Bụt Thích Cahình dáng của một con người. Ta biết rằng con ngườimột sinh vật sinh sau đẻ muộn, xuất hiện rất trễ trên địa cầu này, trễ hơn tất cả những chủng loại khác trên trái đất. Như vậy trước khi có Bụt thì không có tuệ giác, không có bồ đề, không có hạnh phúc hay sao? Trước khi có Bụt vẫn có tuệ giác, vẫn có bồ đề, vẫn có hạnh phúc, nhưng dưới hình thức khác. Bây giờ ta đặt một câu hỏi rất đơn sơ: "Có thể nhận diện được Bụt qua một hình thức khác, nghĩa là qua một hình thức không phải con người hay không?" Kinh Kim Cương nói rất rõ: "Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng." Nếu bị mắc kẹt vào tướng con người thì ta không thể thấy được Bụt. Bụt không phải chỉ là con người. Nếu đi tìm Bụt qua hình tướng, âm thanh thì sẽ không tìm ra được.

Nhược dĩ sắc kiến ngã 
âm thanh cầu ngã 
Thị nhân hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai

Ai đi tìm Bụt qua hình sắc, âm thanh thì người đó đang đi trên con đường tà và ít có cơ hội thấy được Như Lai. Vì vậy chúng ta đừng kẹt vào tướng Bụt là một con người. Bụt có thể là một hành tinh như trái đất. Trái đất của chúng ta là một vị Bụt. Trong trái đất có tuệ giác, có bồ đề, có hạnh phúc và nhiều đức tính khác. Vị Bụt này là một bà mẹ, Bụt không phải chỉ là đàn ông. Trong Cơ đốc giáo người ta thường nghĩ Thượng đế là đàn ông, Thượng đế không thể nào là đàn bà. Nhưng trong đạo Bụt thì có Phật bà. Trái đất là Phật bà, là một bà mẹ. Mẹ của ai? Mẹ của những vị Bụt dưới hình thái con người và mẹ của những vị Bụt dưới hình thái khác. Một cây thông hay một bông hoa hồng cũng là Bụt. Không những con người thành Bụt thuyết pháp mà cây thông cũng đang thuyết pháp, bông hoa cũng đang thuyết pháp. Nó thuyết pháp về cái gì? Nó thuyết về vô thường, vô ngã, Tứ diệu đế, Bát chánh đạo, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất bồ đề phần. Nhìn với con mắt của Phật giáo đại thừa ta thấy Bụt khắp nơi. Ta thấy Bụt nơi một đóa hồng, nơi một cây thông. Thấy được như vậy ta sẽ không có khó khăn để nhận diện trái đất là một vị Đại Bồ tát gọi là Bồ tát Thanh Lương Đại Địa, hay nhận diện mặt trời là một vị Bụt gọi là Bụt Đại Nhật Như Lai. Không bị kẹt vào cái tướng thì ta nhận diện được Bụt dễ dàng hơn.

Chúng ta hay có tính kỳ thị. Nói tới bùn và sen thì ta thích sen, không thích bùn, ta kỳ thị bùn. Nhưng nếu không có bùn thì sẽ không có sen. Vì vậy không những trong sen có Phật tánh mà trong bùn cũng có Phật tánh. Trong kinh Bát Nhã có nói Phật tánh đó không dơ cũng không sạch, không thêm cũng không bớt. Ta phải có con mắt vô tướng, (animitta) thì mới có thể nhận diện được sự có mặt của Bụt. Bụt không chỉ có hình thức của một con người. Bụt có thể là một hành tinh, một bông hoa hay một viên sỏi. Vì vậy trong kinh nói: Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh. Ta phải lấy đi cái ranh giới giữa Bụt và chúng sinh.

Bụt có trong ta, ta có trong Bụt

Trước khi lạy Bụt, ta được dạy phải quán chiếu tính duyên sinh của Bụt. Ta đọc bài "Năng lễ sở lễ tính không tịch." Đứng trước tượng Bụt ta nói:

Bạch Đức Thế Tôn, Ngài cũng duyên sinh như con vậy. Tự tánh của Ngài cũng là Không. Ngài được làm bằng những yếu tố không phải Ngài. Nhờ có phiền não, khổ đau mà Ngài có thể thành Bụt cũng như bông sen nhờ có bùn mới thành ra sen. Con thấy Ngài như vậy nên con thấy con trong Ngài.

Nhìn vào Bụt ta thấy tính Không (the nature of Emptiness) của Bụt. Ta thấy Bụt chứa đựng tất cả chứ không phải chỉ có trí tuệ, từ bi, bồ đề, hạnh phúc mà thôi. Nhìn lại mình, ta thấy mình không chỉ là chúng sinh, ta cũng có Phật tánh. Trong Bụt có ta và trong ta có Bụt. Thấy được như vậy rồi thì ta mới nên lạy xuống, lạy xuống như vậy mới có sự truyền thông. Nếu Bụt chỉ là Bụt và ta chỉ là ta thì không có sự truyền thông đích thực. Lấy đi ranh giới giữa ta và Bụt thì lạy Bụt mới có hiệu quả. Bụt không phải ở ngoài ta, Bụt ở trong ta, vì vậy khi lạy Bụt ta tiếp xúc được với Phật tánh trong mình. Nếu cho rằng Bụt khác với ta thì vĩnh viễn ta chỉ có thể là ta và Bụt chỉ là Bụt. Bụt không bao giờ trở thành ta và ta không bao giờ trở thành Bụt và không có sự thông cảm giữa Bụt và ta. Cảm ứng đạo giao nan tư nghì có nghĩa là sự cảm thông giữa Bụt và chúng sinh khó có thể diễn tả được, tại vì ta thoát khỏi cái thấy lưỡng nguyên phân biệt.

Trong kinh Kim Cương nói rất rõ: Ta có một ý niệm về ngã 我 , về nhân 人, về chúng sinh 眾 生, đó là ba ý niệm mà ta cần phải vượt thắng. Nhìn vào ngã ta phải thấy vô ngã, nhìn vào con người ta phải thấy những yếu tố không con người, nhìn vào chúng sinh ta phải thấy Bụt. Kinh Kim Cương dạy ta phải lấy đi bốn ý niệm là: ngã, nhân, chúng sinhthọ mạng. Thọ mạngđời sống của con người, lấy đi ý niệm về thọ mạng thì ta trở thành bất tử. Ta không chỉ có mặt ở đây trong 100 năm.

Không có ranh giới đích thực giữa hữu tình và vô tình

Ta cần phải thoát khỏi một ranh giới khác nữa, đó là ranh giới giữa hữu tình và vô tình. Hữu tìnhchúng sinh, vô tình là những cái không phải chúng sinh như đất, nước, lửa, gió, khoáng vật. Vô tình, tiếng Anh là inanimate things). Một thi sĩ người Pháp đã hỏi: Objets inanimés, avez vous donc une âme? Hỡi các vật vô tri kia, chúng bây có một linh hồn hay không? Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng có một câu tương tựLàm sao em biết bia đá không đau? Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau. Những vật vô tri đều có tình trong nó nên không thể gọi chúng là vô tình. Học về lịch sử của trái đất, ta thấy lúc bắt đầu chỉ có các loại vô tình. Trong nước cháo thời nguyên thỉ (primordial soup) từ từ sinh ra các loại hữu tình đơn tế bào. Những sinh vật đơn tế bào sinh ra những sinh vật đa tế bào. Những sinh vật này từ dưới nước bò lên trên đất và trở thành rong rêu, cây cỏ, các loại cầm thú và thành con người. Vì vậy không có ranh giới giữa các vật vô tình và hữu tình.

Hiện nay khoa học khám phá ra những vật mà ta cho là vô tình như những quang tử, những điện tử rất là thông minh. Nó có cái biết ở trong, ví dụ như nhìn vào một hột bắp ta không thể nói hột bắp là vô tình. Trong hột bắp có thức, có tài năng, có cái biết trong đó. Ta chỉ cần gieo hột bắp xuống đất thì nội trong bảy ngày nó biết nẩy mầm thành cây bắp con rồi tiếp tục làm lá, làm hoa và làm trái bắp. Hột bắp không vô tình, nó cũng là hữu tình.

Chúng ta được làm bằng những chất liệu vô tình. Giữa vô tình và hữu tình không có ranh giới đích thực. Vì vậy cho nên đất đá cũng có Phật tánh. Trong Thiền người ta thường hỏi: “Con chó có Phật tánh hay không?”. Không những con chó có Phật tánh mà cục đá kia cũng có Phật tánh.

Chúng ta phải tìm cách vượt thoát ý niệm: Bụt chỉ là một con người. Chúng ta có một bài thiền hướng dẫn: Mời Bụt thở, mời Bụt ngồi. Bài tập rất hay và tôi đã thực tập rất nhiều. Khi ngồi xuống ta nói:

Mời Bụt thở nhẹ, 
mời Bụt ngồi yên

Bụt ở đây không phải là một thực tại ở ngoài mình. Ta nói: “Lạy Đức Thế Tôn, xin Ngài hãy dùng lưng của con để ngồi, xin Ngài hãy dùng phổi của con để thở”. Bụt không phải là một cái ngã. Mỗi khi thở có an lạc, hạnh phúc, bình an là có Bụt. Mỗi khi ngồi có vững chãi, thảnh thơi là có Bụt. Bụt không phải chỉ là người, đồng nhất Bụt với con người là sai. Hễ có vững chãi, an lạc, thảnh thơi là có Bụt. Ta biết rằng Bụt không ngồi thì thôi, nếu ngồi thì Ngài ngồi rất thẳng và thoải mái; Bụt không thở thì thôi, nếu thở thì Ngài thở nhẹ và có ý thức. “Mời Bụt thở, mời Bụt ngồi”, ta đưa hai lá phổi cho Bụt thở, ta đưa lưng cho Bụt ngồi. Khi đó ta bắt đầu vượt thoát ý niệm: Bụt là một thực thể ở ngoài mình. Nếu Bụt thở bằng phổi của mình và ngồi bằng lưng của mình thì Bụt và mình rất là gần.

Bụt đang thở nhẹ, Bụt đang ngồi yên
Mình được thở nhẹ, mình được ngồi yên

Bụt đang dùng phổi của mình để thở, đang dùng sống lưng của mình để ngồi. Nếu Ngài đang thở nhẹ và đang ngồi yên thì mình cũng được thở nhẹ và cũng được ngồi yên. Ta không còn thấy Bụt là một cái gì ngoài mình nữa. Nếu ta thấy nhẹ và yên thì cứ như vậy mà thở. Bài tập này đưa tới thoải mái, hạnh phúc rất nhiều. Ta tiến thêm một bước nữa với bài tập thứ ba:

Bụt là thở nhẹ, Bụt là ngồi yên
Mình là thở nhẹ, mình là ngồi yên

Ta không thể tìm một vị Bụt ở ngoài “thở nhẹ và ngồi yên”. Là Bụt thì phải biết thở nhẹ và ngồi yên. Không biết thở nhẹ và ngồi yên thì không phải là Bụt. Bụt không phải là một hình hài, Bụt là sự có mặt của hơi thở nhẹ nhàng và dáng ngồi bình yên. Ta đi tìm Bụt ở đâu nữa? Ta thấy hơi thở đang nhẹ và dáng ngồi bình yên tức là đã có Bụt ngay trong giây phút hiện tại. Đó là cái nhìn vô tướng về Bụt. Mình cũng vậy, mình không có cái ngã riêng biệt. Mình là thở nhẹ, mình là ngồi yên. Vì vậy cái ranh giới giữa mình và Bụt được xóa liền lập tức.

Bụt là hơi thở nhẹ, Bụt là thế ngồi yên. Mình là hơi thở nhẹ, mình là thế ngồi yên. Như vậy ta và Bụt là một, ta vượt thoát cái nhị nguyên. Đi tới một bước nữa ta đốn ngã cái cây ngã chấp với bài tập thứ tư:

Chỉ có thở nhẹ, chỉ có ngồi yên
Không ai thở nhẹ, không ai ngồi yên

Đó là vô ngã. Có Bụt và có ta, nhưng ta và Bụt đều là hơi thở nhẹ, đều là dáng ngồi yên. Không cần phải có một chủ thể, một cái ngã. Với bài tập thứ tư ta vượt thoát ý niệm về một cái ta đang thở nhẹ và đang ngồi yên. Chỉ có sự thở nhẹ và sự ngồi yên đang xảy ra, mà không cần có một cái ta đang thở nhẹ hay đang ngồi yên.

Chúng ta thường nói: "Gió thổi" hay "Mây bay" hay “Mưa rơi”. Gió đã là thổi rồi, là gió thì không cần phải thổi nữa, nếu không thổi thì không phải là gió. Mưa mà không rơi thì không phải là mưa. Nhìn kỹ ta không thấy có một cái ngã chủ trương thổi hay chủ trương rơi. There is no blower, no rainer, there is only the wind and the rain. Không có Bụt và không có ta như những cái ngã, chỉ có thở nhẹ, chỉ có ngồi yên.

Nhìn về địa cầu của chúng ta, ta thấy địa cầu cũng đang thở nhẹ, cũng đang ngồi yên. Ta không cần phải tưởng tượng Bụt dưới hình dáng một con người. Khi có sự yên tĩnh và an lạc thì có Bụt. Bụt không phải là một chủ thể. Đi tới bài tập thứ năm ta thấy rất rõ:

An khi thở nhẹ, lạc khi ngồi yên
An là thở nhẹ, lạc là ngồi yên

Có an và lạc là tại vì có thở nhẹ và ngồi yên. Không cần phải có người an và người lạc mà vẫn có thể có an lạc. Không cần phải có cái ngã rồi mới có an lạc.

Nói tóm lại chỉ có thở nhẹ, ngồi yên và nhờ vậy có an và có lạc. Không cần có Bụt, không cần có ta mà an lạc vẫn có. Muốn tìm Bụt ta không cần phải trở về Ấn Độ của 2600 năm trước. Ta cũng không cần phải đi vô chùa, tại vì vô chùa ta chỉ thấy tượng Bụt bằng cẩm thạch hay bằng đồng. Nếu thấy Bụt bắt buộc phải là một con người có 80 vẻ đẹp và 32 tướng tốt là ta bị kẹt vì ta đi tìm Bụt qua hình tướngâm thanh. Nếu ta ngồi yên, thở nhẹ, chế tác hỷ lạcgiải thoát thì ta thấy được Bụt thật mà không phải là Bụt bằng đồng hay bằng đá.

Xử lý phiền não là chế tác hạnh phúc

Chính nhờ những phiền não, bất an, lăng xăng, rối loạn nên ta mới có khuynh hướng đi tìm Bụt. Từ những bức xúc, khổ đau, buồn tủi đó ta chế tác ra chất thảnh thơi, an lạc cũng như nhờ bùn mà ta làm ra được bông sen. Vì vậy ta đừng nên chạy trốn phiền não, khổ đau. Nếu biết cách thì ta có thể sử dụng những phiền não, khổ đau để chế tác ra hạnh phúc, bồ đềtuệ giác.

Câu hỏi “Thành Bụt rồi có cần tu nữa hay không?” rất là hay. Thành Bụt là có hạnh phúc, bồ đề, tuệ giác. Nhưng dù có rồi mà nếu ta không thực tập thì hạnh phúc, bồ đề, tuệ giác cũng đi mất từ từ. Vì vậy ta phải nuôi dưỡng nó bằng sự thực tập. Ta phải sử dụng khổ đau, phiền nãosi mê để chế tác hạnh phúc, bồ đềtuệ giác.

Trong Phật giáo đại thừa nói rất rõ: Phiền não tức bồ đề, Niết bànsinh tử. Niết bànsinh tử là một cặp bài trùng, không có cái này thì không có cái kia, cũng như mặt tráimặt phải là một cặp bài trùng, không có trái thì không có phải. Nghĩ rằng khi có Niết bàn rồi thì không còn sinh tử nữa là ta bị kẹt vào cái thấy lưỡng nguyên. Một người đệ tử hỏi một vị thiền sư:

Con phải đi tìm Niết bàn ở đâu?
Thiền sư trả lời:
Con đi tìm nó ngay trong sinh tử!

Nó là sinh tử, nhưng nhìn cho sâu thì nó cũng chính là Niết bàn. Sự thực tập hàng ngày của chúng ta phải thực tế. Với những bước chân, những hơi thở, những lời nói, ta phải tạo ra bình an, hỷ và lạc từ những chất liệu không bình an, không hỷ và không lạc. Ta phải luôn luôn sử dụng bùn để làm thành sen, sử dụng phiền não để chế tác bồ đề. Đó là công việc của chúng ta. Công việc chế tác hạnh phúcliên hệ tới công việc xử lý phiền não. Xử lý được phiền não là chế tác được hạnh phúc. Hai công việc đó tuy hai nhưng thật ra là một. Ta đừng nên chạy trốn khổ đau, ta phải nắm lấy khổ đau và tìm cách chuyển nó thành ra hạnh phúc. Ta ngã ở đâu thì chống ở chỗ đó mà đứng dậy.

Pháp thoại ngày 01.12.2013 tại Xóm Thượng trong khóa An Cư Kiết Đông 2013-2014
(Làng Mai)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 216)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 409)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 310)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 338)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 623)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 679)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 639)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 686)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 600)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 541)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 686)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 492)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 574)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 670)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 588)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 711)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 703)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 769)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 795)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 770)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 962)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 829)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1388)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 913)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1080)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1063)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 993)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 981)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1122)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1400)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1749)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1161)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 972)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 827)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 950)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 973)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1395)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1145)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1175)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 925)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1069)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1520)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1398)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1392)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 981)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1375)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1289)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant