Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Các Đế Vương Với Phật Giáo

20 Tháng Hai 201400:00(Xem: 12250)
Các Đế Vương Với Phật Giáo


NHÀ XUẤT BẢN VĂN HOÁ THÔNG TIN - 2002

CÁC ĐẾ VƯƠNG VỚI PHẬT GIÁO

VƯƠNG CHÍ BÌNH

Đào Nam Thắng dịch
Đức Niệm hiệu dịch


81cacdevuong


LỜI NÓI ĐẦU


Phật giáo ra đời vào quãng thế kỷ VI đến thế kỷ thứ V trước công nguyên ở vùng Ấn Độ cổ đại. Người sáng lậpThái Tử Kiều Đạt Ma -Tất Đạt Đa, con trai Tịnh Phạm Vương của nước Ca-tỳ-la-vệ vùng Ấn Độ cổ đại ( Ngày nay thuộc nước nêpan). Sau khi thái tử Tất Đạt Đa sáng lập nên đạo Phật, Thái tử liền được mọi người gọi là Thích Ca Mâu Ni ( tức là vị thánh của dòng họ Thích Ca). Sau khi Phật giáo ra đời, trong một thời gian dài đạo Phật chỉ lưu truyền ở vùng Ấn Độ cổ đại, hơn thế nữa ảnh hưởng của nó không lớn lắm, lại trải qua nhiều thăng trầm. Ngay trong nội bộ Phật giáo cũng dần dần phân hoá, hình thành rất nhiều hệ phái. Vào thế kỷ thứ III trước công nguyên. A Dục Vương, thế hệ thứ 3 của Quốc Vương thời Khổng Tước Vương đã thống nhất toàn bộ Ấn Độ. Tương Truyền khi mới lên ngôi, A Dục Vương vô cùng tàn bạo, sau đó ngài liền tôn thờ Phật giáo,” vứt bỏ gươm đao, lên ngôi thành Phật”. A Dục Vương đã từng cho xây dựng hàng vạn ngôi chùa có Xá lợi Phật ở vùng Ấn Độ cổ đại; đồng thời cũng cúng dàng cho tăng đoàn Phật giáo một khối lượng lớn của cải và đất đai hơn thế nữa ngài còn cử các cao tăng đi khắp nơi trong toàn quốc và ra cả nước ngoài để truyền bá Phật Giáo. Điều này đã giúp cho sự phát triển và truyền bá Phật giáo được nâng lên một bậc cao hơn. Đến thế kỷ thứ II trước Công nguyên, Vua Ca Nhị Sắc Ca, Vương triều Quý Sương của vùng bắc Ấn Độ cổ đại, một lần nữa lại tôn vinh Phật Giáo. Ngài cho xây dựng nhiều ngôi chùa thờ Phật, cúng dàng chư tăng, quí trọng các cao tăng, cử các tăng sĩ đi khắp nơi để truyền bá Phật Pháp; điều đó đã giúp cho Phật giáo đã được truyền xuống vùng nam và vùng Tây Bắc Ấn Độ. Việc hộ pháptruyền bá chánh pháp của lần này của Ca Nhị Sắc Ca Vương đã đặt nền móng cho việc Phật Giáo vẫn tiếp tục được truyền bá. Phật giáo được du nhập vào Trung Quốc vào thời kỳ lưỡng hán( vào đầu kỷ nguyên). Con đường truyền nhập là từ Tây bắc Ấn Độ truyền đến cùng Trung Á, sau đó lại du nhập vào vùng Tây Thành (ở vùng Tân Cương ngày nay và các nước ở vùng phía Tây núi Thông Sơn), sau đó dần dần được du nhập vào vùng Trung Nguyên. Vào thời kỳ Tam Quốc Đông Hán, khi Phật giáo vừa mới truyền vào Trung Quốc, từ các bậc phong kiến thống trị đất nước đến các thần dân trăm họ về cơ bản đều coi Phật giáo là một thứ thần tiênphép mầu nhiệm, do đó ảnh hưởng của Phật giáo và qui mô phát triển của Phật giáo đều rất hạn chế. Bản thân Phật giáo trong thời kỳ này chỉ chú trọng các hoạt động như biên dịch kinh sách và giải thíchmục đích cùng với giáo nghĩa của Phật giáo. Đến thời kỳ Nguỵ Tấn nam Bắc Triều, Phật giáo lại một lần nữa phát triển và hưng thịnh, do đó đã nảy sinh những mâu thuẫnxung khắc gay gắt với nền văn hoá truyền thống của Trung Quốc. Về mặt lý luận, sự xung khắc này chủ yếu tập trung vào sự bất đồng của nhận thức và tranh cãi về vấn đề như báo ứng nhân quả, luân hồi sinh tử, và” trung với vua, hiếu với cha mẹ”. Sự xung khắc gay gắt giữa Phật giáo và văn hoá truyền thống của Trung Quốc ở mức độ nhất định nào đó đã kích thích sự thay đổi, sự chuyển hoá của bản thân Phật giáo từ Phật Giáo Ấn Độ sang một nền Phật Giáo phù hợp với những nhu cầu về tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống của xã hội Trung Quốc. Chính trong thời kỳ này, về cơ bản Phật giáo đã hoàn thành qúa trình Trung Quốc hoá, và cũng cơ bản đặt nền móng cho sự phát triển mạnh mẽ của Phật GiáoTrung Quốc. Thời kỳ Tuỳ Đường, theo sự phát triển của xã hội chính trị, Phật giáo cũng bước vào thời kỳ phát triển mang tính cao trào. Theo đà dần dần hoàn thiện của Phật giáo, các Tông giáo của Phật giáo thời kỳ Đường cũng nhờ đó mà đưa nhau ra đời. Các tông giáo chủ yếu gồm có: Thiên Thai Tông, Tam Luận Tông, Từ Ấn Tông, Hoa Nghiêm Tông, Luật Tông, Tịnh Độ Tông, Thiền Tông, Mật Tông. Trong đó, Thiền Tông vào sau thời kỳ Trung Đường đã phân thành năm phái như Vi Ngưỡng, Lâm Tế, tào Động, Vân Ngôn, Pháp Nhãn. Thiền Tông cùng với năm phái ra đời sau đó đã từng ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài đối với lịch sử và phát triển của Trung Quốc. Cùng với sự giao lưu giữa Vương triều Đường và dân tộc Thổ Phiên ( một dân tộc thiểu số sống ở tỉnh Thanh Hải và vùng Tây Tạng) Phật giáo từ thời Trung Đường chuyển vào vùng Tây Tạng, sau đó dần dần hình thành giáo phái Lạt Ma( Phật giáo tạng truyền hoặc Phật giáo Tạng ngữ hệ). Cùng với sự phát triển rộng rãi ra ngoài lãnh thổ ở thời kỳ Tuỳ Đường, các tông phái Phật giáo thời kỳ Tuỳ Đường lập tức cũng được truyền bá rộng rãi ra bên ngoài lãnh thổ. Phật giáo thời kỳ Tuỳ Đường về cơ bản đã trở thành một bộ phận vô cùng quan trọng cấu thành nền văn hoá truyền thống của Trung Quốc. Thời kỳ Lưỡng Tống, Phật giáo được tiếp tục duy trì, nhưng Phật giáo cũng dần dần kém phát triển sau thời kỳ Phát triển cao trào, hưng thịnh. Đặc biệtthời kỳ Nam Tống, Phật giáo vẫn giữ được sự hưng thịnh nhất định, nhưng nền trính trị thời kỳ Nam Tống có biến động, do đó ngoài Thiền TôngTịnh độ ra, các tông phái khác cũng dần dần suy yếu so với thời trước. Song sự lưu hành của Phật giáo thời kỳ này cho ta thấy rõ những đặc trưng chứng tỏ của Phật giáo đã ăn sâu vào văn hoá truyền thống của Trung Quốc. Học thuyết Tống Nho đã hấp thụ được một phần tư tưởng của Phật giáo, từ đó làm phong phú thêm nội dung lý luận của học thuyết đó; Tín ngưỡng Phật giáo dân gian càng ngày càng đi sâu vào lòng người, một số quan niệm của tôn giáo đã biến thành phong tục tập quán của nhân dân. thời kỳ Nguyên, Minh, Thanh sự phát triển của Phật giáo tiếp tục suy thoái. Triều Nguyên thì vô cùng tôn sùng giáo phái Lạt Ma, Phật giáo ở đất Hán chỉ có một vài Tông phái đặc biệt được tiếp tục lưu hành và phát triển, nhưng ảnh hưởng của nó thì rất nhỏ, phạm vi hẹp. Vào thời Minh, phật giáo tiếp tục suy thoái nhưng do sự hoà hợp và liến kết giữa các giáo phái ngay trong chính bản thân Phật giáo và do sự giao lưu bên ngoài với Nho giáo, Đạo Giáo, Phật giáo đã nhận được sự hoan nghênh của đông đảo các sĩ phu và sự tôn sùng đông đảo của nhân dân; điều đó đã kích thích sự phát triển của Phật giáo. Sự phát triển của Phật giáo thời Thanh về cơ bản là sự tiếp nối sự phát triển Phật giáo thời Minh, nhưng vẫn có chiều hướng kém đi.

Trong lịch sử phát triển lâu dài của Phật giáo sau khi du nhập vào Trung Quốc, có một sự thật chính như sau: tức là Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương. Nói chung, các vị Đế Vương ở các triều đại phong kiến của Trung Quốc đều là những vị mong muốn hộ pháp. Các vị Đế Vương muốn bảo vệ và phát triển Phật giáo là vì Phật giáo khuyên chúng sinh hãy giữ tâm thanh tịnh và diệt đi mọi ham muốn, cố gắng giữ tâm thanh tịnh và làm điều thiện. Điều đó rất có lợi cho các vị giữ địa vị thống trị trong các tập đoàn phong kiến, họ lấy đó làm phương sách để trị quốc, giữ gìn hoà thuận trong nhân dân giữ bình an cho đất nước. Xét từ bản thân Phật giáo, sau khi du nhập vào Trung Quốc không được bao lâu thì Phật giáo cũng nhận ra mối quan hệ giữa sự phát triển của chính mình và nền thống trị của giai cấp phong kiến. Ngay từ thời Đông Tấn, một vị cao tăng nổi tiếng tên là Thích Đạo An đã từng công khai nói rằng: Không dựa vào vua thì không thể dựng nên phép tắc nhà nước. Một số các vị Đế Vương của giai cấp phong kiến về cơ bản cũng nhận thấy rằng: Phật giáo cũng có thể giúp ích cho công việc cai quản đất nước của mình. Hán Văn Đế thời bắc Nguỵ đã từng ca ngợi Phật giáo như sau” Luật nhà nước giúp Vua cai quản đất nước, làm tăng thêm tính thiện cho nhân và từ, bài trừ được cái xấu của xã hội, mở rộng sự hiểu biết chân chính”. Từ đó có thể tình hình mối quan hệ tương hỗ giữa Phật giáogiai cấp thống trị của Trung Quốc, sau khi các tôn giáo được du nhập vào. Do đó về mặt lịch sử mối quan hệ qua lại nương tựa lẫn nhau giữa các bậc Đế Vương của giai cấp phong kiến và các vị cao tăng của Phật giáo đã được ghi lại trong sử sách. Như sau thời kỳ 16 nước có mối quan hệ giữa Triệu Thạch Thị và Phật Đỗ Trừng, mối quan hệ giữa Lưu Tống Văn Đế thời Nam Triều với Thích Tuệ Lâm, mối quan hệ giữa Nguyên Minh Đế thời Bắc Nguỵ với Tăng Pháp Quả mối liên hệ giữa Văn Thành Đế thời Bắc Nguỵ với Thích Đàm Diệm, mối liên hệ giữa Văn Hiếu Đế thời Bắc Nguỵ với Thích Đạo Đăng, mối liên hệ giữa Tuỳ Văn Đế với Thích Đàm Thiên, mối liên hệ giữa Đường Thái Tông và Đường Huyền Trang,...vv. Đó đều là những ví dụ rõ ràng về mối liên hệ chặt chẽ, thân tình giữa các vị cao tăng của Phật giáo với những người đứng đầu giai cấp thống trị phong kiến, nó đã tỏ rõ mối quan hệ nương nhờ giữa Phật giáoquyền lực tối cao của giai cấp phong kiến.

Mối quan hệ giữa Phật giáo và các vị Đế Vương Trung Quốc là một vấn đề vô cùng thú vị, nhưng đó cũng là một vấn đề vô cùng phức tạp. Bởi vì về mặt lịch sử, các mối quan hệ giữa các bậc Đế Vương và Phật giáo vừa là mối quan hệ về mặt trính trị, vừa là mối quan hệ về mặt tín ngưỡng; vừa có các nhân tố mang tính chất nhà nước vừa có các nhân tố mang tính chất tất nhiên, vừa có các nhân tố mang tính chất ngẫu nhiên. Đa số các vị Đế Vương Trung Quốc cổ đại đều có một nguyên tắc chung như sau: đó là quyền lực của giáo phái không được cao hơn quyền lực của Vua, các sinh hoạt trong đời sống tôn giáo không được phép quấy nhiễu hoặc phá hoại đời sống trính trị quốc gia. Đường Thái Tông – Lý Thế Dân - người xưng đạo thế hệ sau những năm Trịnh Quán hưng thịnh – ông ta quan hệ khá thân thiết với nhiều vị đại đức cao tăng Phật giáo, nhưng về mặt trính trị ông lại dùng quyền lực của Vua để giữ gìn hoà thuận giữa ba tôn giáoNho Giáo, Thích Ca Giáo (1)Đạo Giáo, điều đó giúp cho ba tôn giáo này đồng tâm hiệp lực cùng nhau phục vụ công việc cai quản đất nước của giai cấp phong kiến. Cùng thời gian này, ông ta đặc biệt cảnh giác cao với hai tôn giáo Thích Ca Giáo và Đạo giáo, khiến cho sự phát triển của hai tôn giáo này không lấn át, không uy hiếp quyền lực của Vua. Có một vị hoà thượng tên là Pháp Lâm, do trong một tác phẩm của mình có đoạn có ý nói xấu vương triều Lý Đường, suýt nữa bị Lý Thế Dân xử tội chém đầu, cuối cùng bị đưa đi đầy ải. Về sau, Chu Thế Tông Sài Vinh tại thế, là thời kỳ nạn đao binh nổ ra triền miên, việc quản lý các tăng ni có phần lỏng lẻo, do đó các chùa triền được xây dựng tràn lan, gây ảnh hưởng trực tiếp đến thuế khoá và việc sai dịch. Do đó ông ta liền hạ chiếu chỉnh đốnquản lý chặt chẽ các chùa chiền, tăng ni, dùng quyền lực của nhà Vua công khai cấm Phật giáo hoạt động, từ đó gây ảnh hưởng phá hoại Phật giáo một cách nghiêm trọng. trong lịch sử Trung Quốc có rất nhiều vị Đế Vương tôn sùng Phật giáo, thực sự mong muốn qui y cửa Phật, chuyện này nói chung bị quần thần phản đối và con cháu thế hệ sau chê cười. Lương Vũ Đế thời Nam Triều đã thành kính tôn thờ Phật pháp, đã từng bốn lần xả thân vào chùa chiền, không muốn làm Thánh Chúa mà muốn làm Pháp vương, bị các thuộc hạ phản đối gay gắt. Đường Hiến Tông thường xuyên đến tế lễ ở các chùa có xá lợi Phật và tạo thành một không khí sôi nổi chưa từng thấy, hồi đó nhà thơ Hàn Dũ đã có “ Gián Nghênh Phật Cốt Biểu”( Biểu khuyên can về việc nghênh đón cốt Phật) lấy đó làm lời can ngăn. Có một số vị Đế Vương thời kỳ phong kiến lúc đầu vô cùng tôn sùng Phật Pháp, về sau tín ngưỡng của họ đối với tôn giáo có sự thay đổi, họ lại hạ lệnh công khai cấm Phật giáo hoạt động. Như Thái Vũ Đế thời bắc Nguỵ và Đường Vũ Tông lúc đầu vô cùng tôn sùng Phật Giáo, về sau chuyển sang tôn thờ Đạo Giáo. Họ công khai đả kích Phật Giáo, từ đó làm ảnh hưởng to lớn đến nguyên khí của Phật Giáo ( bản chấtdanh dự của Phật Giáo). Trong lịch sử Trung Quốc có một số vị Đế Vương do những lý do cá nhân và những nhu cầu trính trị của Quốc gia, họ dành rất nhiều công sức vào việc hộ pháp. Tuỳ Văn Đế Dương Kiên ra đời ở một Am ni cô, đồng thời được các ni cô nuôi nấng khôn lớn, Võ Tắc Thiên đã từng đội tóc tu hành ở chùa Cảm Nghiệp, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương xuất hiện là một hoà thượng...Từ sớm họ đã có liên hệ với Phật giáo; điều này đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến thái độ của họ đối với Phật giáo sau khi họ đăng quang.

Phật giáo là một tôn giáo không bắt nguồn từ trung Quốc, sau khi du nhập vào Trung Quốc trải qua quá trình giao lưu và đấu tranh với nền văn hoá truyền thống của Trung Quốc, dần dần Phật giáo hoà nhập vào nền văn hóa của Trung Quốc. Vì vậy, bị nền văn hoá Trung Quốc đồng hoá. Do đó Phật giáo đã gây ảnh hưởng đến tất cả các phương diện đời sống sinh hoạt của xã hội Trung Quốc Thời cổ đại. Sự hiểu biết của mọi người về Phật Giáo ngày nay tất nhiên là không thể tách rời với sự hiểu biết về quá trình Phát triển của lịch sử Phật giáo, và cũng tất nhiên là không thể tách rời với sự hiểu biết về quá trình giao lưu đấu tranh, hoà hợp giữa Phật giáo và nền văn hoá truyền thống của Trung Quốc. Sự liên hệ giữa các Đế Vương trong nền Phong kiến Trung Quốc cổ đại với Phật giáo, ở một mức độ nào đó chắc chắn sẽ làm ảnh hưởng đến sự phát triển của Phật giáotrung Quốc. Do đó vấn đề quan hệ của Phật giáo với các Đế Vương qua các thời đại của Trung Quốc cổ đại là một vấn đề đáng được nghiên cứuthảo luận một cách nghiêm túc.

Quyển sách này muốn lấy sự phát triển của lịch sử, đặc biệt là sự phát triển mang tính chất lịch sử của Phật giáo trong xã hội cổ đại Trung Quốc làm hệ thống cơ bản, lấy mối quan hệ giữa các Đế Vương trong thời đại với Phật giáo làm căn cứ tài liệu, bằng cách phân tích và thuyết minh rõ đối với mỗi quan hệ giữa các Đế Vương và Phật giáo, đại để nêu ra sự gắn bó chặt chẽ giữa các quá trình phát triển của Phật giáo với quá trình phát triển của xã hội cổ đại Trung Quốc. Do chúng tôi không thể nêu rõ tất cả các mối quan hệ của các Đế Vương với Phật giáo ngay từ khi Phật giáo mới du nhập vào Trung Quốc, nên chúng tôi chỉ tiến hành phân tích và thuyết minh rõ mối quan hệ của một số vị Đế Vương với Phật giáo, nhưng mối quan hệ của các Đế Vương này với Phật giáoảnh hưởng to lớn đối với sự phát triển của Phật giáo trong quá trình phát triển của xã hội cổ đại Trung Quốc; hoặc là mối quan hệ này cũng đã từng có những ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của phật giáo trong quá trình phát triển của Trung Quốc cổ đại. Ngoài ra, chúng tôi còn chú ý đến mối quan hệ của sự phát triển lịch sử Trung Quốc cổ đại và lịch sử Phát Triển Phật giáoTrung Quốc. Chúng tôi đều chiếu cố đến các triều đại lịch sử kể từ khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc sau thời kỳ Lưỡng Hán, ở mỗi triều đại chúng tôi đều chọn ra một vị đế vương, phân tích đồng thời nói rõ mối quan hệ giữa họ với Phật giáo để cung cấp cho người đọc một quá trình lịch sử tương đối rõ ràng của Phật giáo Trung Quốc. Cách biên soạn quyển sách này đều chú ý đến việc nói rõ những sự kiện xảy ra có tính câu chuyện, các kiến thức mang nội dung tôn giáo, các vấn đề mang tính học thuật dùng để nghiên cứu chuyên đề, chúng tôi đã cố dung hoà các sự việc mang tính câu chuyện, các vấn đề mang tính kiến thức, các vấn đề mang tính học thuật là một hệ thống nhất để mang đến cho mọi người một cảm giác dễ hiểu.

Quá trình biên soạn quyển sách này đã tham khảo rất nhiều tác phẩm luận văn có liên quan đến lịch sử phát triển của Phật giáo Trung Quốc. Do yêu cầu về đề tài và lượng chữ qui định trong mỗi chuyện nên chúng tôi không thể kể ra tất cả đầu đuôi, chúng tôi đã cố gắng liệt kê mục lụctác phẩm chúng tôi dùng biên soạn quyển sách này ở đằng sau quyển sách, với ý tỏ lòng cảm ơn các tác giả của các tác phẩm và luận văn này.

Tháng 10 năm 1996

Vương Chí Bình

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4483)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4520)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7246)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2932)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12146)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3960)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3778)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4165)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3653)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5007)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6613)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 3967)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4081)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5302)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3758)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4489)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3520)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3894)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4363)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5359)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3817)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3896)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3828)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4786)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4484)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4216)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3801)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4603)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4162)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6057)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4562)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4915)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4127)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4789)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5635)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3593)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 3996)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4561)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5237)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3109)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4719)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4510)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4254)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4707)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4456)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4574)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7177)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5172)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 4975)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4563)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5584)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5235)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4122)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 5973)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4684)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4834)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5449)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5577)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5773)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
(Xem: 4964)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant