Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Biện Chứng Bát NhãLong Thọ

06 Tháng Ba 201400:00(Xem: 7915)
Biện Chứng Bát Nhã và Long Thọ

BIỆN CHỨNG BÁT NHÃLONG THỌ


Vũ Thế Ngọc

Khi nghiên cứu về kinh Kim Cương năng đoạn bát nhã ba la mật (Vajracchedika-prajnaparamita) với so sánh cả năm bản Hán dịch từ La Thập đến Huyền Trang với tồn bản Sanskrit[1], tôi có viết một chương về "Biện chứng bát nhã", trong có đề cập đến Long Thọ. Sau đó lại hướng dẫn đại đức J.J Lai viết luận án so sánh về hai chú giải Trung Luận (Mulamadhyamakakarika) của Nguyệt Xứng (theo tồn bản Tây Tạng) và của Thanh Mục (qua bản Hán dịch của La Thập), tôi nghĩ mình phải viết thêm về Long Thọ. Vì vậy, tiểu luận nhỏ Biện chứng pháp bát nhãLong Thọ này thành hìnhdự định sẽ xuất bản cùng với Nghiên cứu về Trung Luận khi có cơ duyên. Phần sau đây là phần giới thiệu về biện chứng bát nhã, các phần sau về Long Thọ sẽ xin được giới thiệu lần lượt trên Suối nguồn.

Biện chứng bát nhã

Trong kinh Kim cương bát nhã có loại ngôn ngữ khác thường mà người mới học thấy rất khó hiểu: Như thế giải thoát cho vô số vô biên chúng sinh, nhưng thực ra không có chúng sinh nào được giải thoát (đoạn 3). Không thể lấy thân tướngnhận ra Như Lai. Vì tại sao? Như Lai nói thân tướng không phải là thân tướng (đoạn 5). Những vi trần ấy, Như Lai nói chẳng phải là vi trần, nên gọi là vi trần (đoạn 13). Như Lai nói thế giới cũng chẳng phải là thế giới, nên gọi là thế giới (đoạn 13). Như Lai nói ba mươi hai tướng không phải là ba mươi hai tướng, nên gọi là ba mươi hai tướng (đoạn 13). Như lai nói bát nhã ba la mật tức không phải là bát nhã ba la mật, nên gọi là bát nhã ba la mật (đoạn 17). Này Tu Bồ Đề! Nói tất cả pháp, tức không phải tất cả pháp, nên gọi là tất cả pháp (đoạn 17). Vì Như Lai nói trang nghiêm cõi Phật tức chẳng phải trang nghiêm, nên gọi là trang nghiêm (đoạn 17) v.v.

Vì phương thức diễn đạt này lặp đi lặp lại, chúng ta có thể gọi là "lý luận ba câu" (theo bản dịch của La Thập) theo mô thức như sau:

(1) Sở ngôn (2) Tức phi (3) Thị danh

Thị phúc đức, tức phi phúc đức tính, thị cố Như Lai thuyết phúc đức đa (đoạn 8)

Trang nghiêm Phật độ giả, tức phi trang nghiêm, thị danh trang nghiêm (đoạn 10)

Phật thuyết bát nhã ba la mật, tức phi bát nhã ba la mật, thị danh bát nhã ba la mật (đoạn 13)

Chư vi trần, Như Lai thuyết phi vi trần, thị danh vi trần (đoạn 13)

Như Lai thuyết tam thập nhị tướng, tức thị phi tướng, thị danh tam thập nhị tướng (đoạn 13)

Thị thật tướng giả, tức phi thị tướng, thị cố Như Lai thuyết danh thật tướng (đoạn 14)

Như Lai thuyết đệ nhất ba la mật, tức phi đệ nhất ba la mật, thị danh đệ nhất ba la mật (đoạn 14)

Nhẫn nhục ba la mật, Như Lai thuyết phi nhẫn nhục ba la mật, thị danh nhẫn nhục ba la mật (đoạn 14)

Sở ngôn nhất thiết pháp giả, tức phi nhất thiết pháp, thị cố danh Nhất thiết pháp (đoạn 17)

Như Lai thuyết nhân thân trường đại, tắc vi phi đại thân, thị danh đại thân (đ 17)

Như Lai thuyết trang nghiêm Phật độ giả, tức phi trang nghiêm, thị danh trang nghiêm (đoạn 17)

Như Lai thuyết chư tướng cụ túc, tức phi cụ túc, thị danh chư tướng cụ túc (đoạn 20)

Chúng sinh giả, Như Lai thuyết phi chúng sinh, thị danh chúng sinh (đoạn 21)

Sở ngôn thiện pháp giả, Như Lai thuyết tức phi thiện pháp, thị danh thiện pháp (đoạn 23)

Phàm phu giả, Như Lai thuyết tức phi phàm phu, thị danh phàm phu (đoạn 25)

Phật thuyết vi trần chúng, tức phi vi trần chúng, thị danh vi trần chúng (đoạn 30)

Như Lai thuyết nhất hiệp tướng, tức phi nhất hiệp tướng, thị danh nhất hiệp tuớng (đoạn 30)

Sở ngôn pháp tướng giả, Như Lai thuyết tức phi pháp tướng giả, thị danh pháp tướng (đoạn 31)

Hoặc các câu cú chỉ có 2/3 mô thức trên:

Sở thuyết thân tướng, tức phi thân tướng (đoạn 5)

Sở vị Phật pháp giả, tức phi Phật pháp (đoạn 8)

Phật thuyết phi thân, thị danh đại thân (đoạn 10)

Như Lai thuyết nhất thiết chư tướng, tức thị phi tướng (đoạn 14)

Hựu thuyết nhất thiết chúng sanh, tức phi chúng sanh (đoạn 14)

Stcherbatsky của trường phái Phật học Leningrad có viết bộ Buddhist logic[2]danh tiếng, nhưng rất tiếc đã không nói gì nhiều về mô thức luận lý này, ngoài việc cung cấp cơ sở thảo luận cho lý luận phủ nhận ông gọi là negative syllogism. Danh từ "biện chứng" (dialectic) trong tựa đề Biện chứng bát nhã của tiêu đề tôi đặt ở đây đơn giản chỉ nói đến lối diễn tả ngôn ngữ phủ định của kinh Kim cương bát nhã như một cách diễn tả phủ định tiền đề (thesis) để tạo ra một nhận thức mới (mặc dù một "synthesis" không nhất thiết phải bao trùm cả chính đề và phản đề theo từ nghĩa syn) theo định nghĩa cơ bản tam đoạn luận cổ điển.

Trong kinh Kim cương bát nhã, đức Phật phải dùng loại lý luận phủ định chỉ vì giáo lý mà ngài dạy ở đây là tính không của ngã và vạn pháp. Đây là loại giáo pháp siêu thoát cho hàng bồ tát nên rất cao siêu vi diệu mà các bậc cổ đức thường gọi là không thể nghĩ bàn, không thể giải thích (bất khả tư nghị, bất khả ngôn thuyết). Người đọc kinh điển bát nhã cần chú ý theo những lời cảnh giác của Long Thọ "đức Phật biết rằng giáo pháp này rất cao sâu vi diệu, người thiếu căn cơ không thể hiểu đuợc, nên đã từng không muốn thuyết giáo"[3], cho thấy giáo lý này khó có thể dùng lý luận hay ngôn thuyết để giải thích một cách dễ dàng. Nên đức Phật thường phải dùng cách lý luận phủ định để có thể tạm chuyên chở ý nghĩa cao siêu này cho quần chúng. Đây cũng không phải là luận lý riêng của Phật giáo, truyền thống triết lý Ấn Độ thường có một phương pháp dùng phủ định để giải thích các ý tưởng siêu hình gọi là neti neti (không phải cái này mà cũng không phải cái kia).

Lý luận ba câu : Giải thích theo Long Thọ 

Thí dụ như câu "Như Lai nói trang nghiêm cõi Phật tức chẳng phải trang nghiêm, nên gọi là trang nghiêm", thì phần lớn các luận sư Trung Hoa thường giải thích theo luận cương của Long Thọ. Có nghĩa là ý thức được chân lý thực tướng của tuyệt đối (chân đế hay đệ nhất nghĩa đế) khác biệt với giá trị tổng quát giới hạn của thế giới tương đối (tục đế), nhưng vẫn phải nhờ tục đế để biểu hiện chân đế[4]. Có nghĩa rằng (1) cái mà thế giới tương đối gọi là trang nghiêm [Sở ngôn] → (2) theo nghĩa tuyệt đối không có gì là trang nghiêm cả vì trong chân lý vạn pháp vốn không tịch, thực tế trang nghiêm cõi Phật cũng chỉ là hư huyễn [Tức phi] → (3) Nhưng vì thuận theo chúng sanh, nói theo ngôn ngữ của thế giới tương đối nên tạm chấp nhận cũng gọi là trang nghiêm [Thị danh]. Đây là lý luậnLong Thọ gọi là dùng tục đế để giải thích chân đế (chư Phật y nhị đế, vị chúng sanh thuyết pháp). Các luận sư thường gọi đơn giản là "lý luận ba câu" là theo ý nghĩa này.

Tuy nhiên giải thích "Lý luận ba câu" (cái người ta gọi là A, Phật gọi là -A, và do đó Phật gọi là A) bằng lập trường "an lập nhị đế để thuyết minh chân lý" hay "chẳng hoại giả danh mà trình bày thật tướng" của Long Thọ cũng chưa nói lên được cái siêu việt của mệnh đề thứ ba trong kinh Kim cang bát nhã. Vì "cái A" của mệnh đề thứ ba không hoàn toàn còn là "cái A" của mệnh đề thứ nhất. Thiền sư Thanh Nguyên Duy Tín có thể giải thích giúp ta một phần: "Khi chưa tu tôi thấy núi là núi, sông là sông. Khi bắt đầu tu thì tôi thấy núi không còn là núi, sông không còn là sông. Nay ngộ ra thì núi lại là núi, sông là sông"[5].

Cũng cách đây 30 năm (1981) chính tác giả đã giải thích "Ở giai đoạn thứ nhất là thế giới đối đãi nhị nguyên. Lẽ dĩ nhiênthế giới này màu xanh là màu xanh, đỏ là màu đỏ, núi là núi, sông là sông … Ở giai đoạn thứ hai của thế giới bất phân biệt của hành giả trong quá trình tu học và thí nghiệm. Ở thế giới này tất cả chỉ là tương đối (A có vì B có, A không có vì B không có v.v.) và tạm thời (ví như nhà hóa học nhìn đâu cũng chỉ thấy các cấu trúc nguyên tử…). Đó là giai đoạn mà người hành giả vừa có vẻ rơi vào cảnh giới vô phân biệt, rồi có vẻ như ở trạng thái ngờ vực tất cả. Đó là lúc "dường như có dường như không" (Tuyệt quán luận)[6]… lúc này núi không còn là núi, sông không còn là sông (…) Người ngộ thì vượt qua giai đoạn này để trở lại trạng thái "núi là núi, sông là sông" nhưng bây giờ từng vật, từng việc hiện hữu một cách tự tại. Hành giả bây giờ đồng hóa với lý vô ngã, vô thường trong từng cử động, trong từng ý niệm… trong một trạng thái được diễn tả như tận cùng tự do, tự tại, thuần nhiên, tố phác"[7].

Bây giờ, ba mươi năm sau, tôi cũng không muốn viết gì thêm, chỉ chú thích ở đây là giai đoạn thứ nhất và thứ ba của công án Thanh Nguyên Duy Tín rất giống với mệnh đề thứ nhất và mệnh đề thứ ba của "lý luận ba câu", nhưng giai đoạn thứ hai của công án thì khác với mệnh đề thứ hai của "lý luận ba câu".

công án thì giai đoạn thứ hai như tôi đã viết ở trên là "dường như có dường như không" đúng là lời của Bồ Đề Đạt Ma trong Tuyệt quán luận, còn mệnh đề thứ hai của "lý luận ba câu" thì khác hơn.

Mệnh đề thứ hai "A là -A" của "lý luận ba câu" thì huyền diệu hơn. Trước hết, trên cơ bản lý luận toán học, mệnh đề thứ hai "A là -A" là một chứng định (verify) cho mệnh đề thứ nhất "A là A".

Theo lý luận này thì A không thể là A[8] nếu không có A là -A[9]. Thí dụ từ "trắng" thì "trắng" không thể diễn đạt cho cảm nghiệm về tất cả các hiện tượng và hiện vật trắng. Vì các hiện tượng và hiện vật trắng này vừa quá nhiều mà từ "trắng" cũng không thể diễn đạt được "sự trắng" (whiteness) của chúng. Nghĩa là "trắng" vừa không thể xác định cho số lượng trắng mà cũng không thể xác định cho cả phẩm lượng trắng.[10] Nhưng khi nói "không trắng" thì bây giờ tất cả những sự trắng đều biểu lộ. Cho nên tại sao tôi nói "A không thể là A nếu không có A là -A". Nói như Stcherbatsky trong Buddhist logic "The white is cognized through the non-white, and the non-white through the white"[11] hoặc "Without negatition they express nothing, they can express something only dialecticaly"[12]. Đó là về mặt lý luận toán học.

Nhìn sự vật dưới ánh sáng duyên khởi thì A không phải là A vì A chỉ là do các yếu tố -A mà hiện hữu (Hãy nhớ bài học duyên khởi căn bản chúng ta vừa học ở trên các pháp hiện hữu vì tựa vào nhau mà có "cái này có nên cái kia có, cái này sinh nên cái kia sinh"). Cho nên chúng ta mới nói A không phải là A, không phải để phủ nhận A mà làm cho A hiển lộ. Hiển lộ dưới một ánh sáng mới, không còn là vọng tưởng về A, mà là nhìn ra chân tướng của A. Tức là A trong mệnh đề thứ ba không chỉ là A của cái A trong mệnh đề thứ nhất mà là một cái A mới, A mới không loại trừ cái A cũ, mà cũng là xác định vị trígiới hạn cái A.

Bây giờ, chúng ta đọc lại đoạn 17 với câu "Tu Bồ Đề! Sở ngôn nhất thiết pháp giả tức phinhất thiết pháp giả, thị cố danh nhất thiết pháp" (Tu Bồ Đề! cái nói là "nhất thiết pháp" tức không "nhất thiết pháp" cho nên gọi là "nhất thiết pháp"). Ta sẽ thấy "cái gọi là A tức là các pháp" (thí dụ như cầu vồng) dưới ánh sáng của tuệ trí bát nhã thì chúng đều không có thực (-A) vì chúng không có tự ngã mà đều do các nhân duyên khác hợp lại mà thành (cầu vồng do ánh sáng chiếu qua màn hơi nước mà thành), chúng cũng không cố định lâu bền vì các nhân duyên đó luôn luôn thay đổi, mà bất cứ một nhân duyên nào biến chuyển thì chúng không còn tồn tại (hơi nước đang tan và sẽ tan rất nhanh và ánh sáng buổi chiều đang xuống và cũng xuống rất nhanh, và một khi một trong hai yếu tố chính đó biến động thì cầu vồng không còn tồn tại). Biết A là -A nhưng chúng ta không phủ nhận A (cho nên gọi là A) nhưng bây giờ cái thấy của chúng ta bao trùm toàn thực tướng của các pháp: xác định A nhờ có -A, nên thấy được toàn diện A (thấy cả A, những cái A, và những cái -A). Có nghĩa là chúng ta vẫn nhìn thấy cầu vồng, không phủ nhận không có cầu vồng, nhưng hiểu được toàn diện về cầu vồng, từ lý do của nó hiện hữu đến việc hiểu nó sẽ biến mất. Điều lý thú ở đây là không vì biết sự hiểu biết về cầu vồng mà chúng ta bớt thích thú cầu vồng. Giống như biết là vô ngã, biết sự thật ngắn ngủi vô thường của cái ngã thì không phải ta sẽ đau khổsợ hãi cái chết, hay tự tung tự tác cuống cuồng hưởng lạc làm bậy vô lối vì biết ta rồi cũng phải về với vô thường, hay rủ nhau đi tự tử (cái đoạn kiến hư vô đạo lý vô ngã lên án); mà trái lại, càng trân trọng sự sống của chính ta trong từng giây phút và tôn trọng sự sống mọi loài và cả thế giới thiên nhiên ngoài ta. Và vì vô ngã nên dù cho chúng ta đang đối diện với bất cứ nghịch cảnh nào, thì chúng ta cũng không còn quá lo âu sợ hãi hay hận thù như lúc trước.

 

VTN

 



[1]. Vũ Thế Ngọc, Trí tuệ giải thoát: Nghiên cứu kinh kim cuơng bát nhã, Nxb Thời Đại, Việt Nam 2012

[2]. Buddhist logic, Biliotheca Buddhica series volume xxvi [1930], New York: Dover 1962

[3]. "Thếtôn tri thịpháp, thậm thâm vi diệu tướng, phi đốn căn sởcập, thịcốbất dục thuyết" Trung Lun, XXIV-12.

[4]. "Nhược bất y tục đế, bất đắc đệ nhất nghĩa; bất đắc đệ nhất nghĩa, tắc bất đắc niết bàn" Trung Luận, XXIV-10.

[5]. Lão tăng tam thập niên tiền, vịtu thiền thời, kiến sơn thịsơn, kiến thủy thịthủy; cập chítu lai thịkiến thiện tri thức hữu cánhân xứkiến sơn bất thịsơn, kiến thủy bất thịthủy. Nhi kim đắc cáthểbiệt xứ, y nhiên, kiến sơn chi thịsơn, kiến thủy chi thịthủy. VũThếNgọc, Vômôn quan, [1983], Nxb. Tổng Hợp, Việt Nam tái bản 2006, tr. 63.

[6]. VũThếNgọc, Bồ Đề Đạt Ma Tuyt Quán Lun, [1983], Nxb Văn Nghệ, Việt Nam tái bản 2006.

[7]. VũthếNgọc, VôMôn Quan, Sđd, tr. 65-66.

[8]. Trong tác phẩm The Buddhist teaching of totality (Penn State University Press 1971) Garma Chang cố gắng thử chứng minh định đề A=A nhưng thất bại, và tự giải thích là luật đồng nhất không thể chứng minh được trong một nội hàm mà dùng chính nó để làm tiêu chuẩn chứng minh (Since the law of identity cannot be verified within a system that uses its own contents as a criterion for verify, to prove or disprove the Law of Identity) tr. 104

[9]. Ở đây không thể không nhớ lại lời dạy của Long Thọ trong Trung luận “Dĩ hữu không nghĩa cố, nhất thiết pháp đắc thành, nhược vô không nghĩa giả, nhất thiết pháp bất thành” (Bởi vì có nghĩa không, nên các pháp hình thành. Nếu khôngnghĩa không, thì mọi pháp chẳng thành)

[10]. Chang (Sđd, tr. 106) dùng thí dụ đơn giản và phi toán học nhưng dễ hiểu: “USA is USA” không thể đúng, nếu USA trước là USA 1880 và USA sau là USA 1968.

[11]. Stcherbatsky, Buddhist logic, Sđd, tr. 460. Đây chính là giá trị lý luận biện chứng Hegel mà Stcherbatsky gọi là"Negativity is the soul of the universe" (Tính phủ định làlinh hồn của vũtrụ)

[12]. Ibid, tr. 471

(Suối Nguồn-Trung Tâm Dịch Thuật Hán Nôm Huệ Quang)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14782)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
(Xem: 14758)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17790)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15472)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38470)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26570)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39503)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50614)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38590)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 34875)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18187)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16339)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42228)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39058)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35425)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17387)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46363)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17045)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28394)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 18904)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17491)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17019)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17450)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16431)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16774)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30671)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16853)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18395)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18336)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17291)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18033)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 16986)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23317)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 16874)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17368)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17540)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 16954)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15640)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 17929)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17291)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17102)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 29363)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27562)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18080)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16033)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15277)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 22898)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14716)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
(Xem: 54956)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 14061)
Phật giáo là “chân lý thực tại”, mà cốt lõi chính là đạo đứcgiới luật làm nền tảng. Khi Phật còn tại thế, ngài chế giới là để ngăn ngừa sự bại hoại của tăng đoàn.
(Xem: 13176)
Chân Như vừa huân tậphai mặt ‘bên trong’ và ‘bên ngoài’. ‘Bên trong’ là huân tập trong tâm hành giả. ‘Bên ngoài’ là huân tập từ bên ngoài, tức là từ chư Phật, Bồ-tát...
(Xem: 14065)
Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thứcchuyển hóa tâm linh...
(Xem: 15407)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13093)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19240)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24434)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15638)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37668)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13380)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13015)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant