Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Biện Chứng Bát NhãLong Thọ

06 Tháng Ba 201400:00(Xem: 7914)
Biện Chứng Bát Nhã và Long Thọ

BIỆN CHỨNG BÁT NHÃLONG THỌ


Vũ Thế Ngọc

Khi nghiên cứu về kinh Kim Cương năng đoạn bát nhã ba la mật (Vajracchedika-prajnaparamita) với so sánh cả năm bản Hán dịch từ La Thập đến Huyền Trang với tồn bản Sanskrit[1], tôi có viết một chương về "Biện chứng bát nhã", trong có đề cập đến Long Thọ. Sau đó lại hướng dẫn đại đức J.J Lai viết luận án so sánh về hai chú giải Trung Luận (Mulamadhyamakakarika) của Nguyệt Xứng (theo tồn bản Tây Tạng) và của Thanh Mục (qua bản Hán dịch của La Thập), tôi nghĩ mình phải viết thêm về Long Thọ. Vì vậy, tiểu luận nhỏ Biện chứng pháp bát nhãLong Thọ này thành hìnhdự định sẽ xuất bản cùng với Nghiên cứu về Trung Luận khi có cơ duyên. Phần sau đây là phần giới thiệu về biện chứng bát nhã, các phần sau về Long Thọ sẽ xin được giới thiệu lần lượt trên Suối nguồn.

Biện chứng bát nhã

Trong kinh Kim cương bát nhã có loại ngôn ngữ khác thường mà người mới học thấy rất khó hiểu: Như thế giải thoát cho vô số vô biên chúng sinh, nhưng thực ra không có chúng sinh nào được giải thoát (đoạn 3). Không thể lấy thân tướngnhận ra Như Lai. Vì tại sao? Như Lai nói thân tướng không phải là thân tướng (đoạn 5). Những vi trần ấy, Như Lai nói chẳng phải là vi trần, nên gọi là vi trần (đoạn 13). Như Lai nói thế giới cũng chẳng phải là thế giới, nên gọi là thế giới (đoạn 13). Như Lai nói ba mươi hai tướng không phải là ba mươi hai tướng, nên gọi là ba mươi hai tướng (đoạn 13). Như lai nói bát nhã ba la mật tức không phải là bát nhã ba la mật, nên gọi là bát nhã ba la mật (đoạn 17). Này Tu Bồ Đề! Nói tất cả pháp, tức không phải tất cả pháp, nên gọi là tất cả pháp (đoạn 17). Vì Như Lai nói trang nghiêm cõi Phật tức chẳng phải trang nghiêm, nên gọi là trang nghiêm (đoạn 17) v.v.

Vì phương thức diễn đạt này lặp đi lặp lại, chúng ta có thể gọi là "lý luận ba câu" (theo bản dịch của La Thập) theo mô thức như sau:

(1) Sở ngôn (2) Tức phi (3) Thị danh

Thị phúc đức, tức phi phúc đức tính, thị cố Như Lai thuyết phúc đức đa (đoạn 8)

Trang nghiêm Phật độ giả, tức phi trang nghiêm, thị danh trang nghiêm (đoạn 10)

Phật thuyết bát nhã ba la mật, tức phi bát nhã ba la mật, thị danh bát nhã ba la mật (đoạn 13)

Chư vi trần, Như Lai thuyết phi vi trần, thị danh vi trần (đoạn 13)

Như Lai thuyết tam thập nhị tướng, tức thị phi tướng, thị danh tam thập nhị tướng (đoạn 13)

Thị thật tướng giả, tức phi thị tướng, thị cố Như Lai thuyết danh thật tướng (đoạn 14)

Như Lai thuyết đệ nhất ba la mật, tức phi đệ nhất ba la mật, thị danh đệ nhất ba la mật (đoạn 14)

Nhẫn nhục ba la mật, Như Lai thuyết phi nhẫn nhục ba la mật, thị danh nhẫn nhục ba la mật (đoạn 14)

Sở ngôn nhất thiết pháp giả, tức phi nhất thiết pháp, thị cố danh Nhất thiết pháp (đoạn 17)

Như Lai thuyết nhân thân trường đại, tắc vi phi đại thân, thị danh đại thân (đ 17)

Như Lai thuyết trang nghiêm Phật độ giả, tức phi trang nghiêm, thị danh trang nghiêm (đoạn 17)

Như Lai thuyết chư tướng cụ túc, tức phi cụ túc, thị danh chư tướng cụ túc (đoạn 20)

Chúng sinh giả, Như Lai thuyết phi chúng sinh, thị danh chúng sinh (đoạn 21)

Sở ngôn thiện pháp giả, Như Lai thuyết tức phi thiện pháp, thị danh thiện pháp (đoạn 23)

Phàm phu giả, Như Lai thuyết tức phi phàm phu, thị danh phàm phu (đoạn 25)

Phật thuyết vi trần chúng, tức phi vi trần chúng, thị danh vi trần chúng (đoạn 30)

Như Lai thuyết nhất hiệp tướng, tức phi nhất hiệp tướng, thị danh nhất hiệp tuớng (đoạn 30)

Sở ngôn pháp tướng giả, Như Lai thuyết tức phi pháp tướng giả, thị danh pháp tướng (đoạn 31)

Hoặc các câu cú chỉ có 2/3 mô thức trên:

Sở thuyết thân tướng, tức phi thân tướng (đoạn 5)

Sở vị Phật pháp giả, tức phi Phật pháp (đoạn 8)

Phật thuyết phi thân, thị danh đại thân (đoạn 10)

Như Lai thuyết nhất thiết chư tướng, tức thị phi tướng (đoạn 14)

Hựu thuyết nhất thiết chúng sanh, tức phi chúng sanh (đoạn 14)

Stcherbatsky của trường phái Phật học Leningrad có viết bộ Buddhist logic[2]danh tiếng, nhưng rất tiếc đã không nói gì nhiều về mô thức luận lý này, ngoài việc cung cấp cơ sở thảo luận cho lý luận phủ nhận ông gọi là negative syllogism. Danh từ "biện chứng" (dialectic) trong tựa đề Biện chứng bát nhã của tiêu đề tôi đặt ở đây đơn giản chỉ nói đến lối diễn tả ngôn ngữ phủ định của kinh Kim cương bát nhã như một cách diễn tả phủ định tiền đề (thesis) để tạo ra một nhận thức mới (mặc dù một "synthesis" không nhất thiết phải bao trùm cả chính đề và phản đề theo từ nghĩa syn) theo định nghĩa cơ bản tam đoạn luận cổ điển.

Trong kinh Kim cương bát nhã, đức Phật phải dùng loại lý luận phủ định chỉ vì giáo lý mà ngài dạy ở đây là tính không của ngã và vạn pháp. Đây là loại giáo pháp siêu thoát cho hàng bồ tát nên rất cao siêu vi diệu mà các bậc cổ đức thường gọi là không thể nghĩ bàn, không thể giải thích (bất khả tư nghị, bất khả ngôn thuyết). Người đọc kinh điển bát nhã cần chú ý theo những lời cảnh giác của Long Thọ "đức Phật biết rằng giáo pháp này rất cao sâu vi diệu, người thiếu căn cơ không thể hiểu đuợc, nên đã từng không muốn thuyết giáo"[3], cho thấy giáo lý này khó có thể dùng lý luận hay ngôn thuyết để giải thích một cách dễ dàng. Nên đức Phật thường phải dùng cách lý luận phủ định để có thể tạm chuyên chở ý nghĩa cao siêu này cho quần chúng. Đây cũng không phải là luận lý riêng của Phật giáo, truyền thống triết lý Ấn Độ thường có một phương pháp dùng phủ định để giải thích các ý tưởng siêu hình gọi là neti neti (không phải cái này mà cũng không phải cái kia).

Lý luận ba câu : Giải thích theo Long Thọ 

Thí dụ như câu "Như Lai nói trang nghiêm cõi Phật tức chẳng phải trang nghiêm, nên gọi là trang nghiêm", thì phần lớn các luận sư Trung Hoa thường giải thích theo luận cương của Long Thọ. Có nghĩa là ý thức được chân lý thực tướng của tuyệt đối (chân đế hay đệ nhất nghĩa đế) khác biệt với giá trị tổng quát giới hạn của thế giới tương đối (tục đế), nhưng vẫn phải nhờ tục đế để biểu hiện chân đế[4]. Có nghĩa rằng (1) cái mà thế giới tương đối gọi là trang nghiêm [Sở ngôn] → (2) theo nghĩa tuyệt đối không có gì là trang nghiêm cả vì trong chân lý vạn pháp vốn không tịch, thực tế trang nghiêm cõi Phật cũng chỉ là hư huyễn [Tức phi] → (3) Nhưng vì thuận theo chúng sanh, nói theo ngôn ngữ của thế giới tương đối nên tạm chấp nhận cũng gọi là trang nghiêm [Thị danh]. Đây là lý luậnLong Thọ gọi là dùng tục đế để giải thích chân đế (chư Phật y nhị đế, vị chúng sanh thuyết pháp). Các luận sư thường gọi đơn giản là "lý luận ba câu" là theo ý nghĩa này.

Tuy nhiên giải thích "Lý luận ba câu" (cái người ta gọi là A, Phật gọi là -A, và do đó Phật gọi là A) bằng lập trường "an lập nhị đế để thuyết minh chân lý" hay "chẳng hoại giả danh mà trình bày thật tướng" của Long Thọ cũng chưa nói lên được cái siêu việt của mệnh đề thứ ba trong kinh Kim cang bát nhã. Vì "cái A" của mệnh đề thứ ba không hoàn toàn còn là "cái A" của mệnh đề thứ nhất. Thiền sư Thanh Nguyên Duy Tín có thể giải thích giúp ta một phần: "Khi chưa tu tôi thấy núi là núi, sông là sông. Khi bắt đầu tu thì tôi thấy núi không còn là núi, sông không còn là sông. Nay ngộ ra thì núi lại là núi, sông là sông"[5].

Cũng cách đây 30 năm (1981) chính tác giả đã giải thích "Ở giai đoạn thứ nhất là thế giới đối đãi nhị nguyên. Lẽ dĩ nhiênthế giới này màu xanh là màu xanh, đỏ là màu đỏ, núi là núi, sông là sông … Ở giai đoạn thứ hai của thế giới bất phân biệt của hành giả trong quá trình tu học và thí nghiệm. Ở thế giới này tất cả chỉ là tương đối (A có vì B có, A không có vì B không có v.v.) và tạm thời (ví như nhà hóa học nhìn đâu cũng chỉ thấy các cấu trúc nguyên tử…). Đó là giai đoạn mà người hành giả vừa có vẻ rơi vào cảnh giới vô phân biệt, rồi có vẻ như ở trạng thái ngờ vực tất cả. Đó là lúc "dường như có dường như không" (Tuyệt quán luận)[6]… lúc này núi không còn là núi, sông không còn là sông (…) Người ngộ thì vượt qua giai đoạn này để trở lại trạng thái "núi là núi, sông là sông" nhưng bây giờ từng vật, từng việc hiện hữu một cách tự tại. Hành giả bây giờ đồng hóa với lý vô ngã, vô thường trong từng cử động, trong từng ý niệm… trong một trạng thái được diễn tả như tận cùng tự do, tự tại, thuần nhiên, tố phác"[7].

Bây giờ, ba mươi năm sau, tôi cũng không muốn viết gì thêm, chỉ chú thích ở đây là giai đoạn thứ nhất và thứ ba của công án Thanh Nguyên Duy Tín rất giống với mệnh đề thứ nhất và mệnh đề thứ ba của "lý luận ba câu", nhưng giai đoạn thứ hai của công án thì khác với mệnh đề thứ hai của "lý luận ba câu".

công án thì giai đoạn thứ hai như tôi đã viết ở trên là "dường như có dường như không" đúng là lời của Bồ Đề Đạt Ma trong Tuyệt quán luận, còn mệnh đề thứ hai của "lý luận ba câu" thì khác hơn.

Mệnh đề thứ hai "A là -A" của "lý luận ba câu" thì huyền diệu hơn. Trước hết, trên cơ bản lý luận toán học, mệnh đề thứ hai "A là -A" là một chứng định (verify) cho mệnh đề thứ nhất "A là A".

Theo lý luận này thì A không thể là A[8] nếu không có A là -A[9]. Thí dụ từ "trắng" thì "trắng" không thể diễn đạt cho cảm nghiệm về tất cả các hiện tượng và hiện vật trắng. Vì các hiện tượng và hiện vật trắng này vừa quá nhiều mà từ "trắng" cũng không thể diễn đạt được "sự trắng" (whiteness) của chúng. Nghĩa là "trắng" vừa không thể xác định cho số lượng trắng mà cũng không thể xác định cho cả phẩm lượng trắng.[10] Nhưng khi nói "không trắng" thì bây giờ tất cả những sự trắng đều biểu lộ. Cho nên tại sao tôi nói "A không thể là A nếu không có A là -A". Nói như Stcherbatsky trong Buddhist logic "The white is cognized through the non-white, and the non-white through the white"[11] hoặc "Without negatition they express nothing, they can express something only dialecticaly"[12]. Đó là về mặt lý luận toán học.

Nhìn sự vật dưới ánh sáng duyên khởi thì A không phải là A vì A chỉ là do các yếu tố -A mà hiện hữu (Hãy nhớ bài học duyên khởi căn bản chúng ta vừa học ở trên các pháp hiện hữu vì tựa vào nhau mà có "cái này có nên cái kia có, cái này sinh nên cái kia sinh"). Cho nên chúng ta mới nói A không phải là A, không phải để phủ nhận A mà làm cho A hiển lộ. Hiển lộ dưới một ánh sáng mới, không còn là vọng tưởng về A, mà là nhìn ra chân tướng của A. Tức là A trong mệnh đề thứ ba không chỉ là A của cái A trong mệnh đề thứ nhất mà là một cái A mới, A mới không loại trừ cái A cũ, mà cũng là xác định vị trígiới hạn cái A.

Bây giờ, chúng ta đọc lại đoạn 17 với câu "Tu Bồ Đề! Sở ngôn nhất thiết pháp giả tức phinhất thiết pháp giả, thị cố danh nhất thiết pháp" (Tu Bồ Đề! cái nói là "nhất thiết pháp" tức không "nhất thiết pháp" cho nên gọi là "nhất thiết pháp"). Ta sẽ thấy "cái gọi là A tức là các pháp" (thí dụ như cầu vồng) dưới ánh sáng của tuệ trí bát nhã thì chúng đều không có thực (-A) vì chúng không có tự ngã mà đều do các nhân duyên khác hợp lại mà thành (cầu vồng do ánh sáng chiếu qua màn hơi nước mà thành), chúng cũng không cố định lâu bền vì các nhân duyên đó luôn luôn thay đổi, mà bất cứ một nhân duyên nào biến chuyển thì chúng không còn tồn tại (hơi nước đang tan và sẽ tan rất nhanh và ánh sáng buổi chiều đang xuống và cũng xuống rất nhanh, và một khi một trong hai yếu tố chính đó biến động thì cầu vồng không còn tồn tại). Biết A là -A nhưng chúng ta không phủ nhận A (cho nên gọi là A) nhưng bây giờ cái thấy của chúng ta bao trùm toàn thực tướng của các pháp: xác định A nhờ có -A, nên thấy được toàn diện A (thấy cả A, những cái A, và những cái -A). Có nghĩa là chúng ta vẫn nhìn thấy cầu vồng, không phủ nhận không có cầu vồng, nhưng hiểu được toàn diện về cầu vồng, từ lý do của nó hiện hữu đến việc hiểu nó sẽ biến mất. Điều lý thú ở đây là không vì biết sự hiểu biết về cầu vồng mà chúng ta bớt thích thú cầu vồng. Giống như biết là vô ngã, biết sự thật ngắn ngủi vô thường của cái ngã thì không phải ta sẽ đau khổsợ hãi cái chết, hay tự tung tự tác cuống cuồng hưởng lạc làm bậy vô lối vì biết ta rồi cũng phải về với vô thường, hay rủ nhau đi tự tử (cái đoạn kiến hư vô đạo lý vô ngã lên án); mà trái lại, càng trân trọng sự sống của chính ta trong từng giây phút và tôn trọng sự sống mọi loài và cả thế giới thiên nhiên ngoài ta. Và vì vô ngã nên dù cho chúng ta đang đối diện với bất cứ nghịch cảnh nào, thì chúng ta cũng không còn quá lo âu sợ hãi hay hận thù như lúc trước.

 

VTN

 



[1]. Vũ Thế Ngọc, Trí tuệ giải thoát: Nghiên cứu kinh kim cuơng bát nhã, Nxb Thời Đại, Việt Nam 2012

[2]. Buddhist logic, Biliotheca Buddhica series volume xxvi [1930], New York: Dover 1962

[3]. "Thếtôn tri thịpháp, thậm thâm vi diệu tướng, phi đốn căn sởcập, thịcốbất dục thuyết" Trung Lun, XXIV-12.

[4]. "Nhược bất y tục đế, bất đắc đệ nhất nghĩa; bất đắc đệ nhất nghĩa, tắc bất đắc niết bàn" Trung Luận, XXIV-10.

[5]. Lão tăng tam thập niên tiền, vịtu thiền thời, kiến sơn thịsơn, kiến thủy thịthủy; cập chítu lai thịkiến thiện tri thức hữu cánhân xứkiến sơn bất thịsơn, kiến thủy bất thịthủy. Nhi kim đắc cáthểbiệt xứ, y nhiên, kiến sơn chi thịsơn, kiến thủy chi thịthủy. VũThếNgọc, Vômôn quan, [1983], Nxb. Tổng Hợp, Việt Nam tái bản 2006, tr. 63.

[6]. VũThếNgọc, Bồ Đề Đạt Ma Tuyt Quán Lun, [1983], Nxb Văn Nghệ, Việt Nam tái bản 2006.

[7]. VũthếNgọc, VôMôn Quan, Sđd, tr. 65-66.

[8]. Trong tác phẩm The Buddhist teaching of totality (Penn State University Press 1971) Garma Chang cố gắng thử chứng minh định đề A=A nhưng thất bại, và tự giải thích là luật đồng nhất không thể chứng minh được trong một nội hàm mà dùng chính nó để làm tiêu chuẩn chứng minh (Since the law of identity cannot be verified within a system that uses its own contents as a criterion for verify, to prove or disprove the Law of Identity) tr. 104

[9]. Ở đây không thể không nhớ lại lời dạy của Long Thọ trong Trung luận “Dĩ hữu không nghĩa cố, nhất thiết pháp đắc thành, nhược vô không nghĩa giả, nhất thiết pháp bất thành” (Bởi vì có nghĩa không, nên các pháp hình thành. Nếu khôngnghĩa không, thì mọi pháp chẳng thành)

[10]. Chang (Sđd, tr. 106) dùng thí dụ đơn giản và phi toán học nhưng dễ hiểu: “USA is USA” không thể đúng, nếu USA trước là USA 1880 và USA sau là USA 1968.

[11]. Stcherbatsky, Buddhist logic, Sđd, tr. 460. Đây chính là giá trị lý luận biện chứng Hegel mà Stcherbatsky gọi là"Negativity is the soul of the universe" (Tính phủ định làlinh hồn của vũtrụ)

[12]. Ibid, tr. 471

(Suối Nguồn-Trung Tâm Dịch Thuật Hán Nôm Huệ Quang)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4485)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2678)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5094)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3739)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3788)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3147)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4022)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 4948)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3453)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6609)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3910)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3143)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3056)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2890)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5772)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4543)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3432)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2824)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3234)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4352)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5591)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6522)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3632)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4462)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4504)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3911)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3336)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4491)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 5928)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5749)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3565)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4595)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4387)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4444)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4196)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4507)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8094)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3860)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5641)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5090)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6721)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6102)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 5868)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5655)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6133)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6656)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4876)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5454)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6272)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3679)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5289)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10342)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 5976)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
(Xem: 9190)
Bốn cấp độ thiền định hay tứ thiền là bốn mức thiền khi hành giả thực hành thiền có thể đạt được.
(Xem: 6285)
Một bào thai sở dĩ có mặt trên cuộc đời này ngoài yếu tố chính là do cha mẹ sinh ra, còn là kết quả của một tiến trình không đơn giản.
(Xem: 5849)
Đạo Phật là nguồn sống và lẽ sống của con người, là cương lĩnh cho nhân thế. Với sứ mạng thiêng liêng cao đẹp ấy, đạo Phật không xa lìa thực thể khổ đau của con người.
(Xem: 7321)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc
(Xem: 7163)
Người ta thường nói đạo Phật là đạo của từ bitrí tuệ. Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu khôngtừ bi thì không có đạo Phật.
(Xem: 5067)
Các nhà khảo cổ đang nghiên cứu tại Nepal đã phát hiện bằng chứng về một kiến trúc tại nơi sinh ra Đức Phật có niên đại thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
(Xem: 7937)
Theo Đức Phật, tất cả những vật hiện hữu đều biến chuyển không ngừng. Sự biến chuyển này thì vô thuỷ vô chung. Nguồn gốc của vũ trụ không do một Đấng Sáng tạo (Creator God) tạo ra.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant