Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phương Pháp Dạy Phật Pháp Cho Trẻ Em

12 Tháng Ba 201400:00(Xem: 9188)
Phương Pháp Dạy Phật Pháp Cho Trẻ Em


Phương Pháp Dạy Phật Pháp Cho Trẻ Em


Dr. Helmuth Kalr; Thích Minh Diệu dịch Việt

 

phat_phap_cho_tre_emVẤN ĐỀ NAN GIẢI:

Vấn đề nan giải có ý nghĩa trong trường hợp đặc biệt: Làm thế nào để những cha mẹ Phật tử có thể dạy tốt lời dạy của Phật giáo cho con em của họ? Từ lúc họ sẽ rất hiếm khi có cơ hội dạy giáo lý cho những trẻ em khác, huống chi là những trẻ em không phải gia đình Phật tử. Vì tôi không muốn lý thuyết hóa, tôi chỉ nói kinh nghiệm thực tế trong khi dạy con cái chúng tôi và cũng như trẻ em Phương tây nói chung. Ðiều đáng chú ý hơn nữa đã được phơi bày đối với một tín đồ đạo Cơ đốc hoặc môi trường vật chất, và vì vậy một đứa trẻ phương đang ở trong một nhu cầu củạ một sự giáo dục Phật giáo được quan sát một cách cẩn thận. Trong một quốc gia Phật giáo, được thấm nhuần truyền thống Phật giáo qua nhiều thế kỷ, sự giáo dục của một trẻ em Phật giáo trong một nước như vầy có nhiều dễ dàng hơn. Trong một môi trường thích hợp như vầy một hệ thống giáo dục Phật giáo tốt và có hiệu quả có thể đã phát triển. Nhưng cho dù nó đã phát triển, nó sẽ có một sự sai lầm lớn cho chúng ta, khi những người Phương tây, để sao chụp phương cách giáo dục trẻ em mà không có sự quán sát kỹ lưỡng. Chúng ta hòan toàn sống trong những điều kiện khác nhau và vì vậy chúng ta không thể sử dụng một vấn đề quan trọng này như sự giáo dục Phật giáo quá ư nhẹ nhàng. Vị Thầy vĩ đại của chúng ta, Ðức Phật chính ngài đã dạy chúng ta nhìn vào chính chúng ta, kiểm tra và rút ra những nhận xét tự chính mình, và không tin một cách mù quáng vào những người khác. Chẳng hạn như mỗi người phải tự tu tập để tự giải thóat, cũng vậy chúng ta phải phát triển một hệ thống giáo dục Phật giáo thích hợp cho những điều kiện Phương tây. Ðương nhiên bất cứ những đề nghị hoặc góp ý của những quốc gia khác có thể cung cấp sẽ được chấp nhận với lòng biết ơn. Chúng ta hy vọng đón nhận nhiều lời đề nghị như vầy và lắng nghe những kinh nghiệm từ những người khác.

SỰ NOI GƯƠNG.

Chương trình giáo dục tùy thuộc vào lứa tuổi của trẻ em. Những cha mẹ gương mẫu là phần quan trọng nhất của bất kỳ sự giáo dục nào và nếu cha mẹ sống phù hợp với giáo pháp thì vấn đề này sẽ là sự hướng dẫn chuẩn xác nhất cho trẻ em, cho bất cứ độ tuổi nào. Trẻ em phát ttriển khả năng quán sát đến một cấp độ cao và sự bắt chước làm theo là một yếu tố quan trọng đối với chúng nó. Chúng ta không nên bỏ qua yếu tố này. Mọi thứ tùy thuộc vào khả năng cha mẹ am hiểu giáo phápứng dụng trong đời sống của họ, trong sự tạo ra một lối sống theo Phật giáo, và không chỉ theo lối nói ngoài môi mà không thực hành.

SỰ HỔ TRỢ BÊN NGOÀI.

Cùng với sự noi gương, những nhân tố bên ngoài đóng một vai trò rất quan trọng trong thời thơ trẻ của trẻ em. Vì vậy, không có một gia đình người Phật nào không có một hình tượng Ðức Phật, hoặc tối thiểu một Bức tranh của Một Bậc Giác ngộ. Một ý kiến tốt là mỗi trẻ em nên có một hình tượng Ðức Phật nho nhỏ, trước hình tượng này các em có thể dâng cúng hoa tươi, hương trầm và ánh sáng theo thông lệ (ở Ấn độ ánh sáng là những ngọn đèn bằng dầu dừa nhỏ, đôi khi bằng hình thức giấy màu, có khi ánh sáng của đèn cầy - đèn sáp). Nhưng vấn đề cốt yếu là chúng ta phải biết rằng trẻ em không phải chỉ biết thờ cúng hình tượng, nhưng để đảnh lễ tôn kính Ðức Phật như một Vị Thầy vĩ đại nhất của nhân loại. Vì vậy, mặc dù chúng ta không nên phát triển bất cứ hệ thống nào của những lễ nghi, chúng ta không nên quên đi một vấn đề rằng, chẳng hạn một buổi lễ kỷ niệm đơn giản sẽ mang đạo Phật đến gần hơn trong tâm khảm của trẻ em. Ðối với những nghi lễ cho Phật tử trưởng thành sẽ thêm trói buộc hơn là ích lợi, trong một chừng mực nào đó những lễ nghi có khuynh hướng làm cho chúng ta nghĩ rằng chúng ta đã thành tựu điều gì đó duy chỉ bằng sự hành trì của những lễ nghi. Mặc dù những yếu tố triết lý của Ðạo Phật cốt yếu cho người trưởng thành thì hầu như quá sâu sắc nên trẻ em không thể lãnh hội được. Nhưng khi những yếu tố bên ngoài trợ giúp cho trẻ em chúng ta hướng đến lối sống Phật giáo chúng ta có thể sử dụng một số nghi lễ đơn giản. Trẻ em thích cái đẹp bị nhãn quan kích thích và sự dâng cúng theo định kỳ về hoa tươi, hương trầm, đèn sáng, giúp trẻ em phát triển những thói quen tốt như sự tôn trọng và kính ngưởng.

SỰ SỬ DỤNG NHỮNG LỄ HỘI

Trẻ em luôn luôn vui thích những lễ hội, và từ trước cho đến bây giờ trẻ em ngoại đạo có rất nhiều lễ hội, trẻ em Phật giáo có thể được phép tham gia ngày lễ Uposatha (ngày tăng trưởng sự thanh tịnh, ngày chư tỳ kheo tụng giới bổn - Bố-tát) một lần hoặc hai lần mỗi tháng. Ngày trưởng tịnh này nên tạo ra khác hơn với những ngày thường, khác hơn ngay cả đối với ngày chủ nhật thông thường. Vì không thể luôn luôn sử dụng ngày đầu tháng (trăng non) hoặc này trăng tròn ở những quốc gia phương tây, các bậc cha mẹ có thể chọn ngày chủ nhật gần với ngày Uposatha nhất và sử dụng ngày đó như là một ngày lễ. Vào ngày này phải dừng lại mọi công việc bình thường để dành cho ngày lễ Uposatha này, và mỗi người phải nên nghiêm túc giữ giới. Các bậc cha mẹ nên dạy con em của họ Giáo lý hoặc sự suy tư của họ về giáo pháp. Ơû đây làm thế nào để vấn đề này có thể thực hiện một cách tốt đẹp?

Như đã chỉ ra trước đây, điều này tùy thuộc vào lứa tuổi của trẻ em. Trong bài viết này tôi sẽ nói về những trẻ em ở độ mười tuổi, như hai đứa con trai của tôi bây giờ vào độ tuổi này. Các bậc cha mẹ có con tuổi nhỏ hơn có thể đơn giản hơn một số vấn đề để dạy con em mình và các bbậc cha mẹ có con em ở độ tuổi lớn hơn mười có thể giảng giải Giáo lý ở cấp độ sâu hơn một tí. Thông thường tùy thuộc vào khả năng của trẻ em và những năng khiếu tiếp thu của các em. (một bản phiên dịch của kinh Pháp cú và những sưu tập nhỏ như những đóa hoa sen - the Lotus Blossoms - của Tỳ kheo Silacara sẽ gây nên những nguồn cảm hứng từ đó tạo ra sự chú ý cho các em.)

Lần lược bố, mẹ có thể đọc một trong những truyện cổ Phật giáo hoặc một câu chuyện nào đó rút ra từ Jatakas, những câu chuyện tái sanh của Ðức Phật. Không có lý nào những câu chuyện hay như vầy lại bị lãng quên vì tính chất đạo đức của câu chuyện được nhấn mạnh và những yếu tố phi đạo đức được giảng giải một cách cẩn thậnthích hợp. Từ khi những trẻ em phải học quá nhiều về thần thoại Hy lạp ở trường học và những cuộc chiến thô bạo giữa Các vị Thần Hy lạp với những vị thần khác, tại sao chúng ta lại phải tránh không kể cho con em chúng ta những câu chuyện tiền thân (Jatakas) ? Những câu chuyện này sẽ giới thiệu cho các em về cách suy tư của Người Aán độ và những khái niệm của nghiệp và sự tái sanh sẽ thấy một khung cảnh thiên nhiên trong tâm thức các em. Và từ đó một sự hiểu biết về nghiệp và sự tái sanh đòi hỏi tối thiểu về sự phân tích bằng tri thức, những quan điểm có thể được giảng dạy ngay cả cho trẻ em. Thực tế, tòàn bộ giáo lý Ðức Phật có thể dạy cho trẻ em chỉ khi nào chúng ta có thể trình bày giáo lý trong phương thức đúng. Tránh không giảng dạy cho trẻ em về giáo lý của Ðức Phật là một sai lần lớn, và một điều không thích hợp rằng một số Phật tử đặt nặng vào vấn đề như sự ăn chay, trong khi đó lại quên đi không cho con em họ một sự giáo dục Phật giáo .

GIÁO DỤC PHẬT GIÁO, MỘT TRÁCH NHIỆM.

Ở bất cứ tôn giáo khác, giáo dục trẻ em trong đó niềm tin biểu hiện rõ nhất và chiếm một vị trí vượt trội. Vì thế, tại sao niềm tin này ngược lại với Phật giáo? Ðiều này có thể trả lời rằng Ðạo Phật mang tính triết lý hơn là tính tôn gíao. Nhưng có phải không Ðạo Phật cũng là một phương cách sống? Và chỉ có phương cách sống này mà chúng ta phải trao ttruyền cho con em chúng ta. Nếu vị trí của Phật giáo trong thế giới hiện đại không được ưu thế như nó đã có vào thời trước đây, đây là vì chúng ta đã sao lãng vấn đề giáo dục cho con em chúng ta. Vấn đề tôi đặc biệt nhấn mạnh trong bài viết này là vấn đề một sự giáo dục Phật giáo ở các nước phương tây có thể thực thi, và từ đó nó có thể được tiến hành và nó phải được tiến hành. Tôi biết rõ ràng rằng chúng ta cách xa sự thiết lập về một hệ thống ggiáo dục Phật giáo, vấn đề này đã được bàn thảo ở nhiều nước Phật giáo.

Nhưng có một lý do khác tại sao chúng ta phải có gắng tạo ra một sự thiết thực của giáo dục Phật giáo. Ơû các quốc gia phương đông (thuộc châu á) một Phật tử gia nhập vào tăng đoàn, không chỉ "tu tập để tự giải thoát cho chính mình" mà còn phải duy trì truyền trao Chánh pháp". Nhưng khi đó, ở hầu hết các quốc gia phương tây, không có những phái đoàn truyền giáo được thiết lập của Phật giáo từ Phương đông, chúng ta những người Phật tử tại gia ở phương tây phải thi hành tương tự hướng đến sự trao truyền chánh pháp ở đây. Ðể dạy đạo Phật cho con em chúng ta là một phần của trách nhiệm truyền giáo đó. Sẽ không công bằng khi cho rằng những quốc gia phương đông có trách nhiệm không truyền trao cho chúng ta giáo dục Phật giáo. Ðiều này có nghĩa rằng đợi cho đến khi nào những đoàn truyền ggiáo như vầy đã được thành lập không chỉ ở tất cả các quốc gia phương tây mà còn học tất cả ngôn ngữ phương tây và thấu hiểu những vấn đề riêng biệt đối với người Phương tây. Cho đến lúc đó chúng ta phải giúp với tận lực, có thể trong một phương tiện hữu hiệu nhất chúng ta có thể.

LỊCH SỬ PHẬT GIÁO

THÊM vào những câu chuyện Jatakas đã đề cập ở trên, chúng ta nên kể cho con em chúng ta về đời sống của người dân trong thời của Ðức Phật, bối cảnh xã hội thời đó, nền tảng lịch sử của Phật giáo nguyên thủy, tổng quán về lịch sử Phật giáo, và làm thế nào "Bánh xe Chánh pháp" đã chuyển đến toàn bộ Aán độ và các quốc gia khác.

SỰ GIẢI THÍCH GIÁO PHÁP

Tâm thức trẻ em sẽ tuần tự phát triển vào lĩnh vực tinh thần của giáo pháp, trong khi đó sự phát triển một sự nhận thức về những giáo lý căn bản của Ðạo Phật. Từ đó các bậc cha mẹ có thể đọc một số bài kinh dễ hiểu cho con em, chẳng hạn như những bài kinh liên quan đến năm giới và những điều mà một người Phật tử tại gia phải làm và không nên làm, chi tiết hơn những bài kinh trong Tăng chi Bộ kinh (Anguttara), "phần nói về người tại gia". Tất cả những điều này trong giới hạn sự hiểu biết của trẻ em, thêm vào đó, một số bài kệ dễ hiểu từ kinh Pháp cú có thể được đọc:

"Tất cả mọi người ai cũng sợ trước những hình phạt, tất cả ai cũng sợ chết. So sánh những người khác với chúng ta, vì vậy đừng giết cũng đừng bảo người giết". (PC. 129)

Tránh xa tất cả những điều ác, thực hành tất cả những điều lành, Thanh lọc tư tưởng của chúng ta- đây là lời dạy của chư Phật." (PC. 183)

Ðạo Phật không phải quá phức tạp như một số các bạn thường nghĩ, và hơn nữa chúng ta có quyền để sát định rằng một đứa trẻ của gia đình Phật tử đã có những tác nghiệp õ tạo ra căn cứ vào đó đứa bé được sanh ra trong một gia đình tương ứng với nghiệp của chúng đã tạo ra, và vì thế có mỗi lý do tại sao mỗi trường nên được đưa ra cho mỗi tình huống giáo dục Phật giáo.

HỌC THUỘC LÒNG

Khi trẻ em học thuộc lòng những bài học một cách dễ dàng chúng ta có thể cho chúng học năm giớiqui y tam bảo, có thể ngay cả bằng tiếng Paali. Ðó là ý kiến tốt cho những trẻ em học thuộc lòng một số bài kệ trong kinh Pháp cú bằng tiếng mẹ đẻ của chúng, chẳng hạn như những bài kệ:

" nó chê tôi, đánh tôi, quản thúc tôi, cướp tôi- ai ôm ấp những suy tư sân hận như vầy sẽ không bao giờ giải nguôi" (PC. 3, và hai bài kệ sau đây)

"đây là một qui luật từ ngàn xưa- không chỉ là một qui luật của hôm nay – chúng chê trách ai ngồi im lặng, chúng chê trách ai nói nhiều, chúng còn chê trách ngay cả ai ít nói."

"không có ai trên thế gian này tránh khỏi những lời chê trách. (PC. 227- PC.228)"

Một đứa trẻ càng thuộc nhiều kinh điển Paali thì nó càng tăng trưởng lợi ích từ nguồn kiến thức này khi nó có thể hiểu ý nghĩa sâu hơn. Ðiều này không có nghĩa rằng một đứa trẻ phải học những câu mà nó không hề hiểu gì về ý nnghĩa của chúng, nhưng sự hiểu biết về những điều đơn giản như đã nói ở trên sẽ lập thế đứng cho đứa bé vững vàng khi em trưởng thành.

NGÀY LỄ - UPOSATHA

Những ngày Uposatha là những ngày rất quan trọng cho trẻ em đọc tụng những bài kệ mà chúng đã học, và cũng là ngày để các bậc cha mẹ giải thích Những lời dạy của Ðức Phật. Nhưng chúng ta phải cẩn thận đừng để vượt quá sức nổ lực của các em, đặc biệt trong những trường hợp này, để cho khả năng của các em tập trung trong những khoảng thời gian dài phải được giới hạn. Ngày Uposatha nên khác với một ngày lễ hội với ngày này trẻ em háo hức nhìn ra ngoài. Vì vậy chúng ta nên đưa các em đi bách bộ, hoặc ngay cả một cuộc du ngọan, và không do dự chơi trò chơi với chúng. Trong khi đi bộ một cách an vui qua những cánh đồng và rừng cây chúng ta có thể dạy chúng quán sát bản chất tự nhiên và nhìn cuộc sống như thật nó đang hiện hữu. Khi Thái tử Siddhatha đi ra ngoài cung điện ngài đã thấy một người già, một người bệnh đau, một xác chếtcuối cùng là một vị tăng. Trong cùng một phương cách như vậy chúng ta đưa trẻ em ra khỏi sự an toàn và sự nhỏ hẹp giới hạn trong ngôi nhà chúng ở đi vào thế giới nhiễu nhương.

Các trẻ em Phật giáo không nên nuôi dưỡng trong một thế giới giống như cung điện bị những bứt tường vây quanh- khu vườn nơi đó Gotama đã sinh trưởng. Những cuộc du ngoạn như vầy đi vào tự nhiên sẽ có một cơ hội tốt cho trẻ em chúng ta nhìn những gì cuộc đời thật sự như vậy. Chúng sẽ thấy rằng bản chất tự nhiên là "màu đỏ trong răng và móng vuốt", mỗi con thú cấu xé nhau và ăn thịt con yếu đuối. Chúng cũng sẽ thấy vấn đề khó khăn là những điều kiện sống của mọi người. Trẻ em hầu như không ý thức điều gì mang ýù nghĩa già, bệnh hoặc chết. Chúng ta nên cung cấp cho chúng từng ít một, một sự hiểu biết thích hợp về những vấn đề này. Ðồng thời chúng ta nên dạy chúng thực hành tâm từ bi hướng đến những đồng loại đau khổ của chúng. Những trẻ em nhỏ thường tàn nhẫn đối với những thú vậtchúng nó không hiểu những gì chúng đang làm. Ở đây mọi thứ đều tùy thuộc vào các bậc cha mẹ cảnh giác những điều này đúng lúc và làm cho trẻ em hiểu những gì chúng đang làm. Các bậc cha mẹ Phật tử phải rất thận trọng để tránh những hành động tàn nhẫn của các em đối với những thú vật. Trẻ em Phật tử luôn luôn nên tôn trọng một con thú như một mạng sống và không như một nguồn thức ăn. Vào những cuộc du ngoạn ở miền quê chúng ta có nhiều cơ hội để chỉ cho các em làm thế nào để cảm thôngtình thương hướng đến con ngườithú vật, và điều này, không chỉ bằng lời nói, mà những gì có ý nghĩa hơn, bằng những việc làm.

Như một hướng đạo sinh trẻ em chúng ta nên được dạy cách giúp một cụ già mang một cái rổ hoặc đẩy một chiếc xe kéo. Bé trai hoặc gái phải cứu một con kiến khi nó bị rơi vào một vũng nước, hoặc mang vài con cá đến chỗ nước sâu khi nó đang chờ chết trong một ao nhỏ không đủ nước. Có nhiều cơ hội ở đó ngay cả một đứa trẻ có thể bày tỏ rằng nó đang thực hành Phật pháp theo gương của cha mẹ các em. Có một điều vô cùng quan trọng cho Các Phật tử luôn luôn ghi nhớ rằng kiến thức không thể đủ. Duy Chỉ có trí tuệđạo đức mới có thể chắc chắn cho chúng ta quả vị Niết bàn.

ÐẠO PHẬT TÔN GIÁO CỦA TỪ BI

Hơn thế nữa đạo Phậttôn giáo của từ bi, và chúng ta đừng bao giờ quên dạy vấn đề này cho con em chúng ta. Ðức Phật đã dạy Giáo pháplòng từ bi cho thế gian. Cũng như tất cả- yếu tố từ bi đã tạo ra lòng từ một phần trọng tâm của Lời dạy của Ngài, vì thế chúng ta không nên sao lãng yếu tố này bằng sự tạo ra sự thảo luận về phần quan trọng của giáo lý này. Nếu chúng ta chỉ thành công trong việc dạy con em chúng ta về lòng từ, tâm bi, hoan hỷ cảm thông chúng ta sẽ thành công trong việc làm những gì chúng ta có thể làm tốt nhất. Tâm xả cũng là điều quan trọng nhưng khó hơn để các em nắm bắt.

ÐỨC PHẬT NHƯ MỘT NHÀ GƯƠNG MẪU

Chúng ta không nên phát họa con đường thực tập cho con em chúng ta quá khó, vì điều này sẽ làm chúng chán nản. Mọi thứ tùy vào sự nhạy cảm tâm lý của các bậc cha mẹ. Chính họ phải biết họ có thể đi bao xa. Ðức Phật luôn luôn biết cách làm thế nào để chỉ dẫn mọi người- Ngài đã giảng giải cho một người bình thường khác với một người có trí tuệ, và chúng ta có thể học nhiều về gương hạnh của ngài. Ngài là một nhà tâm lý cũng như triết lý vĩ đại nhất. Làm sao vấn đề có thể thay khác được đối với một Bậc toàn Giác ä? Vì vậy chúng ta muốn dạy Phật pháp trước hết chúng ta phải học Phật pháp bằng chính mình. Tất nhiên đây là một điều kiện tiên quyết và cũng là vấn đề hiển nhiên mà tôi đã gần như quên đi không đề cập đến nó.

TÌM HIỂU TÍNH CÁCH CỦA CON EM CHÚNG TA

Ðức Phật đã dạy giáo pháp cho các bậc đế vương và những kẻ ăn mày, cho các gia chủ và những người tôi tớ, cho những người chiến sĩ và thương nhân, cho những người giải thoátnô lệ, cho những nhà hiền triếtdâm nữ. Ngài thấu hiểu toàn bộ khung cảnh xã hội và những vấn đề của quốc gia của Ngài cũng như tính các khác nhau của mỗi loại người. Cùng một phương cách như vậy chúng ta phải cố gắng tìm hiểu tính cách của con em chúng ta để chúng ta có thể dạy chúng giáo pháp trong một phương pháphiệu quả nhất. Ðược sanh ra trong gia đình chúng ta, nói một cách ẩn dụ chúng tùy thuộc vào sự chăm sóc của chúng ta. Mặc dù chúng là những sinh mạng độc lập riêng biệt chúng ta có trách nhiệm với chúng nó. Chúng không được cho đi dưới sự ủy thác của chúng ta bởi một vài quyền lực thiên thần mà phải đặt chính chúng dưới sự chăm sóc của chúng ta. Chúng được sanh trong gia đình chúng ta vì có những mối quan hệ gần gũi của chúng ta với chúng. Ðiều này tạo nên dễ dàng hơn cho chúng ta tìm hiểu những tính cách của chúng, một yếu tố cần thiết nhất trong giáo lý của Ðạo Phật. Vì vậy nó không quá khó khăn cho các bậc cha mẹ hướng dẫn con em của họ làm quen với Lời dạy của Ðức Phật và yếu tố này nên khuyến khích các bậc cha mẹ Phật giáo. Nếu cha mẹ không thể dạy Phật pháp cho con em của ho,ï ngoài họ ra ai có thể làm được công việc vô cùng quan trọng này? Như đã nói trước đây, không có món quà nào có giá trị hơn chúng ta có thể cho con em chúng ta bằng món quà của Giáo pháp. Như Ðức Phật đã nói: "Sabbadaanam Dhammadaanam jinaati", "Quà tặng của Giáo phápgiá trị siêu việt hơn tất cả những món quà khác." (PC. 354).

SỰ PHÒNG HỘ CHỐNG LẠI KY TÔ GIÁO VÀ CHỦ NGHĨA VẬT CHẤT

Ðể giữ tâm thức của trẻ em chúng ta khai mở trước nguồn sáng của Giáo pháp chúng ta phải cẩn trọng chú ý rằng chúng nó không được rơi vào những mạng lưới của chủ nghĩa vật chất hoặc rơi vào niềm tin ở một vị Thượng đế tòan năng. Từ khi các trẻ em Phật tử châu âu đang lớn lên trong một môi trường của hai cực đoan, chủ nghĩa vật chấtniềm tin Ky tô giáo, chúng ta phải giải thích cho chúng nó sự khác nhau giữa Ðạo Phật và Ky tô giáo một cách chi tiết, cũng như Ðạo Phật và bất cứ các loại triết lý khác một cách tổng quát. Chúng ta phải chỉ ra sự phi thường đặc biệt về Lời dạy của Ðức Phật như con đường trung đạo giữa hai cực đoan, và vì thế làm cho con em chúng ta không bị tiêm nhiễm những ảnh hưởng bên ngoài. Vì Ky tô giáo và Chủ nghĩa vật chất là hai nguồn ảnh hưởng lớn ở Xã hội Phương tây chúng ta phải chỉ ra những sai lầm của chủ nghĩa vật chất và cho trẻ em làm quen với giáo lý căn bản của Ky tô. Vấn đề này có thể bao gồm một kiến thức về các nhà thờ Ky tô, các lễ nghi Ky tô và các buổi lễ kỷ niệm, hát thánh ca vân vân. Mặc khác, khi trẻ em trưởng thành, và đặc biệt suốt giai đoạn tâm lý tình cảm của tuổi dậy thì, những yếu tố này có thể tạo ra một ấn tượng lớn hơn và nguy hiểm hơn cho chúng. Vì vậy, tốt hơn chúng nó nên được quen biết với những yếu tố như vầy hơn là để chúng tự khám phá bằng trực giác của chúng. Những trẻ em có năng khiếu về ca nhạc nên được giới thiệu rất sớm về những bài hát nhân gian để chúng nóthể không bị lôi cuốn nhiều sau này chúng nghe những bài thánh caca nhạc ở nhà thờ. Trong cách này và nhiều cách khác chúng ta phải quán sát môi trường tâm lý của những trẻ em đã đi học. Một ví dụ ở nước Ðức, Ngày giáng sinh đóng một phần rất quan trọng trong đời sống gia đình, ngay cả ở những gia đình không phải tín đồ Ky tô. Trẻ em Phật giáo hiển nhiên sẽ hỏi: "Tại sao chúng ta không có một lễ hội đẹp đẽ như vầy?" Thực tế ngày Giáng sinhít nhất một lễ hội thuộc gia đình (Mùa giáng sinh cổ xưa của dân tộc Ðức), sự cử hành lễ vào ngày ngắn nhất của một năm vàsự bắt đầu của uy lực của mặc trời. Về nguồn gốc lễ hội của mùa giáng sinh không có gì mang ý nghĩa ích lợi cho Ky tô giáo, và chính trong lối này nó vẫn được người Ðức cử hành lễ, và vì vậy nó phải được giải thích cho trẻ em Phật giáo.

TRÁCH NHIỆM BẢN THÂN

Trách nhiệm bản thân là một điểm trọng tâm của Ðạo Phật và chúng ta phải nhấn mạnh tầm quan trọng của nó nhiều lần, đối với một tâm thức hồn nhiên của trẻ em sẽ hiểu vấn đề đó. Mỗi buổi tối khi những trẻ em ngoại giáo đang cầu nguyện "Thượng đế", trẻ em Phật giáo phải trải qua một khoảng thời gian thực hành thiền và trong sự phản chiếu lên tất cả những gì mà chúng đã làm trong một ngày. Nếu các em thấy rằng các em đã không suy tư, nói năng và hành động trong sự xác định với lời dạy Giáo lý chúng sẽ thấy làm thế nào để tránh khỏi sự sai lầm này trong lần khác. Nếu các em thấy rằng các em không từ bỏ một số tư tưởng hoặc hành động xấu, khi đó cha mẹ các em nên giúp đỡ các em để các em có thể đi ngủ với sự giải quyết để làm tốt hơn vào ngày mai. Vào buổi sáng các em có thể bắt đầu một ngày mới bằng sự phản chiếu trở lại tình huống của các em. Bằng cách này các em sẽ có thể phát triển những năng lực trong tâm thức của các em, làm trong sạch các em bằng sự luyện tập những ý nghĩ tốt, có ích, lời nóiviệc làm. Cũng vậy, ngay ở độ tuổi còn nhỏ, các em sẽ phát triển vượt qua giáo điều Ky tô về sự tịnh hóa bằng ân huệ của một sự tha thứ của thượng đế hoặc qua một trong những vị cha xứ của thượng đế. Qui luật về nghiệp sẽ chỉ cho các em rõ rằng hơn bất cứ điều gì không ngoài mỗi tư tưởng, lời nói và hành động mang lại từ chính nó cả hai nhân và quả và duy chỉ có một điều chúng ta có thể làm để chỉnh đốn những sai lầm hoặc hành vi bất thiện là để làm tốt hơn trong tương lai trong khi cố gắng tránh xa những gì chúng đã làm sai lầmquá khứ. Hoàn toàn tự trách nhiệm bản thânđặc điểm của tâm thức trường thành, và khi nào trẻ em của chúng ta phát triển phẩm chất này ở chúng no,ù nó sẽ chứng minh sự hướng dẫn chắc chắnan toàn nhất qua cuộc sống và sẽ chứng minh một bức tường thành tự nhiên ngăn cản những tôn giáo niềm tin về phương diện này và triết học thô thiển của chủ nghĩa vật chất về phương diện khác.

Có nhiều vấn đề nữa phải được quán sát bởi cha mẹ Phật tử trong mối quan hệ với con cái của họ. Trong những bữa ăn, ví dụ, khi đó trẻ em Ky tô giáo cảm ơn thượng đế cho chúng nó thức ăn, trẻ em Phật giáo có thể suy tư về đặc tính rằng có nhiều người không có những thức ăn như các em đang có. Các em không bao giờ được phép khen chê thức ăn của các em: "khẩu vị" của các em không nên đề cập để rồi những định kiến không bị kích thích. Người tại gia nên ăn những thức ăn ở trên bàn trong cùng một cách như các Vị tỷ kheo ăn những gì đã đặt trong bát của họ, duy chỉ nuôi dưỡng thân thể. Nhưng khi trẻ em trưởng thành các em không được ăn bất cứ những giới hạn kiêng cử trong thực phẩm chính.

Trong bài viết này tôi chỉ có thể đưa ra một phát họa nhỏ của Giáo dục Phật giáo. Thực tế mỗi phần tiêu đề cần có một bài tham khảo cho chính nó. Tôi hy vọng tôi đã làm đúng trong việc chỉ ra cho cha mẹ Phật tử những nguy hiểm về sự thờ ơ không giáo dục cho con em của họ. Nếu như vậy tôi sẽ không nghe lại một ý kiến không thể bào chữa của một số phu huynh Phật tử: "Con chúng tôi có thể chọn tôn giáo của nó sau này, chẳng hạn như chúng ta đã làm - chúng ta không có quyền ảnh hưởng đến nó 'sau này' ư!?" Sau khi sự ảnh hưởng của Ky tô và Chủ nghĩa vật chất đã tác động lên đứa trẻ không được đề kháng, nó có thể, khi nào nó trưởng thành, không còn có sự lựa chọn tự do trí thức! Làm thế nào chúng ta có thể hy vọng đứa bé tìm con đường cho chính nó? Chư Phật giác ngộ Giáo pháp không có sự trợ giúp bên ngoài; nhưng tất cả những người khác cần sự hướng dẫn và dạy dỗ. Ðây là vấn đề tại sao Ðức Phật đã nói với chư vị Ðệ tử của Ngài: "Hãy ra đi này Chư vị Tỷ khưu, và hãy du hành vì sự thành tựu của nhiều người, vì sự an lạc của nhiều người, lòng từthế gian, vì sự tốt đẹp, vì sự thành tựu, vì sự lợi lạc cho chư thiênloài người. Hãy tuyên bố, này chư vị Tỷ khưu, giáo Pháp tỏa rạng, hãy tuyên thuyết này các tỷ khưu một đời sống thánh hạnh hoàn hảothanh tịnh." (Vinaya Mahaavagga). Chúng ta biết rằng người tại gia không phải như Chư vị Tỷ khưu nhưng từ khi có quá ít các vị Tỷ Khưu ở phương tây, người tại gia có thể giữ vai trò của họ trong sự truyền bá Chánh pháp. Các bậc Cha mẹ Phật tử không chỉ có quyền ảnh hưởng đến con em của họ trong lỗi suy tư con đường Phật pháp, mà còn chính trách nhiệm của họ phải làm như vậy, và đó toàn bộ và suy tư đầy đủ. Món quà có giá trị nhất cho thế giới là món quà Giáo pháp. Ðiều gì các bậc cha mẹ Phật tử sẽ có quyền hạn lấy đi con em của họ món qùa tinh thần này?

-ooOoo-


Ý kiến bạn đọc
19 Tháng Chín 201400:54
Khách
Minh muon tim chua nao co day giao li phat phap de minh xin gui con vao hoc moi toi .vi be nha minh ko hieu biet .thai do ko le phep.....nen minu muon gui gam vao chua moi toi cho con bot quay pha .hon hao .va hieu dc dao duc trong tam.nen co ai biet xin chi dum minh.cam on tat ca moi nguoi da doc nha
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1518)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1466)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1047)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1446)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1380)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1304)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1345)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1676)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1884)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1398)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1063)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1399)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 1961)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1440)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1529)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1363)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2813)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1352)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1390)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1697)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1647)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1608)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1447)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2615)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1596)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1585)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1388)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1405)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1585)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1525)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1417)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1388)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1486)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2167)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1522)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1469)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1584)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1811)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1499)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1361)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1638)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1377)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1668)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2339)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1439)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1926)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1648)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1723)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1593)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1919)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1644)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1407)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1695)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1542)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1513)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1298)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1227)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1271)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1501)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1613)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant