Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quyền Lực Tâm Linh

16 Tháng Tư 201400:00(Xem: 9454)
Quyền Lực Tâm Linh


Quyền Lực Tâm Linh

mahatma-gandhi


Nhân loại tôn vinh Mahatma Gandhi (1869- 1948) là một trong mười thiên tài sáng tạo nhất trong lịch sử. Mahatma Gandhi là bậc thiên tài tâm linh, hòa hợp tâm hồn và thể xác. Một con người mạnh mẽ, rắn chắc luôn hoạt động cả trong suy nghĩ và hành động. “Chính chúng ta phải là sự thay đổi mà chúng ta muốn thấy trên thế giới”. Với tư tưởng đột phá ấy Mahatma Gandhi đã trở thành một thiên tài cách mạng tinh thần

Người có thể cho chúng ta nhiều lựa chọn. Gandhi - người đầu tiên tiến hành cuộc cách mạng chính trị thành công mà không cần tới vũ lực, đã thay đổi thế giới bằng sức mạnh mà ông gọi là “Quyền lực tâm linh”. Một sự kết hợp thú vị giữa đạo đức chính trực, sự phục tùng, lòng khoan dung, cầu nguyện, khả năng tự lực, tự thanh lọc và tình yêu. Từ đó chúng ta học được nhiều điều.


Bằng quyền lực tâm linh Gandhi giành được độc lập cho Ấn Độ từ tay thực dân Anh năm 1947. Chiến lược đối kháng thụ động hay phòng thủ không vũ lực chưa từng có trước đây của ông tôn vinh lý tưởng chân lý và bất bạo lực, thậm chí bao gồm cả khả năng yêu thương kẻ thù. Triết lý thiết thực và những cuộc biểu tình khôn khéo của Gandhi đã gây ảnh hưởng tới các nhà lãnh đạo vĩ đại như Martin Luther King, Nelson Mandela, Dalai Lama và nhiều người khác.

Là một nhà lãnh đạo phong trào bất bạo động, Martin Luther King (1929-1968) nhấn mạnh: “Gandhi có lẽ là người đầu tiên trong lịch sử nâng lòng kính Chúa lên trên sự tương tác giữa các cá nhân quyền lực và lực lượng xã hội trên một phạm vi rộng lớn.” Về con người cá nhân, Gandhi là một tấm gương cho tất cả những người đang tìm kiếm Tự Do trong tâm thứcSức Mạnh Tâm Linh trong cuộc sống thường ngày.

Gandhi sinh năm 1869 trong một gia đình thương nhân có tiếng nói chính trị lớn tại Porbandar - Ấn Độ. Gia đình theo Ấn Độ giáo nên Gandhi được học đạo từ nhỏ, thấm đẫm phẩm hạnh cao đẹp. Cậu bé Gandhi được ghi nhận là “Thần đồng đức hạnh”. Cậu vô cùng nhạy cảm về lòng tốt, biết tự mình chuyển biến hành động xấu thành tốt. 
Trong cuốn tự truyện “Trải nghiệm chân lý” Gandhi viết: “Một thứ ăn sâu trong tôi, đó là niềm tin vững chắc rằng đạo đức là nền tảng của vạn vậtchân lýcốt lõi của đạo đức. Chân lý trở thành mục tiêu duy nhất của tôi. Tầm quan trọng của nó ngày càng lớn và định nghĩa mà tôi đưa ra cũng trở nên rộng lớn chưa từng có”.


Trong một lần chống lại phương pháp ăn chay của bố mẹ, chàng Gandhi bí mật ăn thịt dê cùng một người bạn theo đạo Hồi. Đêm đó, anh gặp ác mộng, mơ thấy một chú dê đang kêu “be, be” trong bụng. Mặc dù vẫn cố chấpăn thịt vài lần trong năm tiếp theo, nhưng cuối cùng chàng tự nhận ra việc lừa dối bố mẹ còn tồi tệ hơn việc không ăn thịt. Gandhi viết:“Nói dối là không tốt” và nhận ra “Chính điều này đã cứu tôi thoát khỏi nhiều cạm bẫy”.

Năm 1883, Gandhi cưới Kasturbai khi cả hai mới mười ba tuổi. Đó là cuộc tảo hôn, mai mối, nhưng Gandhi rất yêu vợ. Bà sinh cho ông bốn người con trai và luôn ủng hộ ông trong suốt cuộc đấu tranh giành độc lập và phát triển năng khiếu bản thân. Tuy nhiên sau đó ông phản đối công khai việc hôn nhân theo sắp đặt. Ông viết: “Tôi không hề thấy đạo đức nào ủng hộ việc tảo hôn phi lý này”.

Năm 1887, gia đình miễn cưỡng để Gandhi rời Ấn Độ sang London học luật. Mẹ ông bắt ông phải thề không đụng tới thịt, rượu và đàn bà ở đó. Ông gia nhập Hội người ăn chay London. Trở về Ấn Độ, Gandhi hành nghề luật sư. Năm 1893, ông bỏ nghề luật sư giàu có ở Bombay, đến Nam Phi sống với một bảng một tuần. Ông đi du lịch từ Pretoria, người ta yêu cầu ông phải rời khỏi toa hạng nhất chỉ vì ông không phải người da trắng. Ông không chịu chuyển sang toa dưới, bị người ta đẩy xuống tàu. Ông đã sống ở Nam Phi trong 21 năm sau đó để chống chính sách kỳ thị chủng tộc.

Tuổi thơ Gandhi là cậu bé nhút nhát. Học trung học, cậu luôn sợ những học sinh nhỏ bé hơn mình. Người vú nuôi Rambha đã đưa ra một lời khuyên làm thay đổi cuộc đời Gandhi. Bà nói: “Việc con sợ là không sai, nhưng khi con sợ một cái gì đó, thay vì bỏ chạy, con hãy đứng yên, và đọc đi đọc lại câu thần chú “Rama, Rama”. Khi đó, nỗi sợ hãi sẽ tan biến.”

Hãy giữ chặt tâm trí và trái tim tôi.

Cách tiếp cận tôn giáo của Gandhi âm vang đến ngày nay. Việc theo đuổi ngành luật không cản trở sự phát triển tinh thần của Gandhi. Ông nghiên cứu các tôn giáo hàng đầu trên thế giới và những điều luật của chúng để tìm ra mối liên hệ và điểm chung trong các tôn giáo khác nhau. Khả năng kết hợp các tôn giáo hoàn toàn khác biệt nhau như: Phật giáo, Thiên Chúa giáo, đạo Do Thái, đạo Hồi, và Ấn Độ giáo, đã góp phần tạo nên Gandhi - Một thiên tài tâm linh.

Ông dành cả cuộc đời để theo đuổi, áp dụng sự uyên thâm, và những tư tưởng đầy tính thuyết phục của các tôn giáo này vào chính trị và xã hội. Gandhi viết: “Điều mà tôi mong muốn đạt được là phát triển năng khiếu bẩm sinh để được gặp Chúa. Toàn bộ các bài viết, bài diễn thuyết và tất cả những việc tôi làm trong lĩnh vực chính trị, đều nhằm đến kết quả cuối cùng này.” Gandhi nhận ra rằng tình yêu, lòng khoan dunglòng trắc ẩn đều hiện diện trong trái tim của mỗi con người, bất kể tín ngưỡng nào. Ông thấy điều này thể hiện trong đoạn kinh của đạo Hindu:

Một bát nước mang lại một bữa ăn thịnh soạn
Một lời chào tạo nên lòng nhiệt huyết
Một mẩu bút chì đơn giản có thể đem lại thỏi vàng thoi
Do đó, từng lời nói, từng hành động quan tâm
Từng cử chỉ giúp đỡ nhỏ cũng có giá trị gấp mười lần
Nhưng một người quý tộc
Thật sự hiểu rằng tất cả mọi người đều như nhau
Sẽ đem lại niềm vui sau những tai ương đã xảy ra.

Đức tin của Gandhi chặt chẽ, thuyết phục. Lương tâm trong sáng của ông luôn song hành với một ý chí không thể bị khuất phục. Một phụ tá thân cận của ông nói: “Hầu hết mọi người đều nghĩ một đằng, nói một nẻo và làm một kiểu khác. Nhưng Gandhi thì không như vậy. Ông nói những gì mình tin và thực hiện những gì mình nói, nên tâm hồn, trí tuệ và thân xác của ông hòa làm một”. Ông là một khối sức mạnh nội tâm vững vàng “Hãy giữ chặt tâm hồn và trái tim tôi”.

Tâm hồn vĩ đại
Rabindranath Tagore (1861- 1941) nhà thơ Ấn Độ đoạt giải Nobel gọi Gandhi là “Mahatma” với ý nghĩaTâm hồn vĩ đại. Một tâm hồn cao đẹp và khả năng kết hợp chân lý của mọi tôn giáo trên thế giới. Sự tận tâm giúp đỡ, lòng vị thacầu nguyện của Gandhi được rèn luyện từ gia đình theo văn hóa Ấn Độ giáo. Ấn Độ giáo coi giúp đỡ người khác là niềm hạnh phúc và được khai sáng. Tagore nói: “Tôi tỉnh dậynhận ra sống là để giúp đỡ người khác. Tôi đã hành động và coi đó là niềm hạnh phúc”.

Gandhi nhận ra rằng tình yêu, lòng khoan dunglòng trắc ẩn, đều hiện diện trong trái tim của mỗi người, bất kể tín ngưỡng nào. Bằng cách gỡ bỏ nguyên tắc đạo đức hàng đầu của mình ra khỏi những hạn chế của bất cứ tôn giáo nào, cuộc khảo sát của ông trở thành một sứ mệnh tinh thần thực sự, vượt qua mọi biên giới tôn giáoTrung tâm tư tưởng không bạo lực, không sát sinh của Gandhi có nguồn gốc từ quan niệm cho rằng toàn bộ cuộc sống của chúng ta được đan dệt trong tấm thảm tình yêu. Ông viết: “Không bạo lực thì không có bệnh tật trong cuộc sống. Do đó không bạo lực là thể thức đem lại những điều tốt đẹp cho cuộc sống. Đó là tình yêu tinh khiết. Tôi đã đọc được điều đó trong Kinh thánh Ấn Độ giáo, Kinh Phúc Âm, Kinh Koran”.

Với mong muốn dành Tự do cho Ấn Độ, Gandhi trở lại Ấn Độ vào năm 1914, nhanh chóng giữ vai trò lãnh đạo Liên hiệp tự trị toàn Ấn Độ, trở thành lãnh tụ Quốc dân đại hội Ấn Độ. Ông tổ chức các chiến dịch bất phục tùng trong nước dựa trên phương thức bất bạo động. Ông nhiều lần bị thực dân Anh bắt tù. Thảm kịch xảy ra khi Gandhi bị ám sát tại Delhi ngày 30 tháng 1 năm 1948, do một môn đồ Hồi giáo cực đoan. Trước khi nhắm mắt, Gandhi đã gọi tên Thượng đế. Sau cái chết của Gandhi, Tổng thống Ấn Độ Jawaharlal Nerhu đến Princeton thăm Albert Einstein. Hai người thảo luận về sự tồn tại song song nghịch lý giữa sự phát triển bom nguyên tử và sự phát triển tư tưởng Gandhi.

Einstein bình luận: “Gandhi đã chứng minh việc tập hợp thành công sức mạnh quần chúng không thể bằng cách sử dụng các thủ đoạn chính trị xảo trá, khéo léo, thông thường mà phải bằng tấm gương đạo đức cao đẹp giàu tính thuyết phục. Trong thời đại đạo đức suy đồi ngày nay, ông là một chính khách chân chính, bảo vệ cho quan hệ nhân văn giữa người với người trong lĩnh vực chính trị… Cho đến nhiều thế hệ sau, người ta không thể tin rằng một con người bằng da bằng thịt như vậy đã bước đi trên trái đất này”.

Gandhi đã sống với một hình mẫu khắt khe của “đại số học đạo đức”. Sự tận tâm giúp đỡ, lòng vị thacầu nguyện của Gandhi được rèn luyện trong môi trường gia đình. Ấn Độ giáo coi việc giúp đỡ người khác là niềm hạnh phúc và được khai sáng. Trong triết lý của Gandhi, sự giúp đỡ xuất phát từ đáy lòng, là niềm vui sướng tột đỉnh và là bí mật của sự phát triển năng khiếu bản thân. Ông viết: “Nếu tôi bị cuốn hút vào sự giúp đỡ cộng đồng thì lý do ẩn sau chính là sự khát khao được thấu hiểu. Tôi tạo ra tôn giáo của sự giúp đỡ vì tôi cảm thấy người ta chỉ nhận thấy Chúa thông qua sự giúp đỡ”. Với ông, lòng vị thasức mạnh “Tha thứ là đức tính của người mạnh mẽ”.

Gandhi học được tính vị tha từ cha mình. Ông kể: “Tôi đã lấy trộm một thứ đồ của cha và phải chịu day dứt, ân hận đau đớn. Tôi quyết định viết lời thú tội nộp cha để xin ông tha thứ. Tôi hứa từ nay sẽ không bao giờ ăn trộm nữa. Tôi tự tay đưa tờ giấy cho cha. Cha tôi đọc, những giọt nước mắt lăn trên má, rơi xuống làm ướt tờ giấy. Ông nhắm mắt lại trong giây lát và suy nghĩ. Ông ngồi xuống và đọc. Tôi thấy sự đau đớn tột cùng của cha. Tôi khóc. Hai cha con cùng khóc. Những giọt nước mắt của tình yêu đã thanh lọc trái tim tôi và xua tan bóng mây tội lỗi. Chỉ có ông, người có tình yêu ấy, mới biết nó là cái gì”.

“Những kẻ yếu đuối không biết tha thứ
Tha thứ là đức tính của người mạnh mẽ”
(Mahatma Gandhi)

Gandhi tôn thờ sức mạnh của cầu nguyện.
Ông nói: “Việc cầu nguyện đã cứu vớt cuộc sống của tôi… Tôi đã chia sẻ trải nghiệm cay đắng nhất của bản thân và của cộng đồng. Họ ném tôi vào tận cùng tuyệt vọng. Tôi thoát ra được nỗi tuyệt vọng đó là nhờ cầu nguyện. Khi tôi đau khổ, chỉ có cầu nguyện mang lại niềm vui cho tôi”. Với ông, cầu nguyện là chất xúc tác của “quyền lực tâm linh” và là công cụ quan trọng nhất của hành động. Ông viết: “Sự thỉnh cầu, sùng báicầu nguyện không phải là mê tín dị đoan. Đó là những hành động thực tế hơn cả hành động ăn, uống, ngồi hoặc đi. Cầu nguyện thành tâm có thể gặt hái được những thứ mà không điều gì khác trên thế giới này có thể làm được.”

Bất bạo lực
Lòng vị tha, sự giúp đỡ và cầu nguyện của Gandhi được thể hiện ra trong triết lý chính trị về đối kháng thụ động hay đấu tranh hòa bình của ông. Cuộc đụng độ định mệnh trên chuyến tàu tới Pretoria mà sau đó ông đã quyết lưu lại hai mươi năm ở Nam Phi. Sau này ông viết về ngày hôm đó: “Tôi bắt đầu suy nghĩ về nhiệm vụ của mình. Thật là hèn nhát khi trở lại Ấn Độ mà chưa làm tròn bổn phận của mình. Thử thách thật sự nằm trong căn bệnh phân biệt sắc tộc ăn sâu, bào mòn trong suy nghĩ của con người. Tôi phải cố gắng triệt tận gốc căn bệnh này.”

Trung tâm của học thuyết Gandhi là khái niệm không sát sinh hay không bạo lực. Nó có nguồn gốc từ quan niệm cho rằng toàn bộ cuộc sống của chúng ta được đan dệt trong tấm thảm tình yêu. Ông viết: “Không bạo lực thì không còn bệnh tật trong cuộc sống. Do đó không bạo lực là thể thức đem lại những điều tốt đẹp cho cuộc sống. Đó là một tình yêu tinh khiết. Tôi đã học được điều đó trong Kinh thánh Ấn Độ giáo, Kinh Phúc Âm, Kinh Koran”.

Trong cuộc đấu tranh giành Quyền và Lợi cho người dân, với thực dân Anh ở Ấn Độ, Gandhi hướng dẫn nhân dân Ấn Độ tự lực. Ông chủ trương phát cho mỗi người một guồng xe sợi (charkha), để họ tự dệt áo, tự trồng cấy chăn nuôi, tự cứu sống mình bằng lao động. Sự kiện này gây chấn động chính trị, vì Gandhi dùng biện pháp này để phản đối chính sách bài trừ ngành công nghiệp may Ấn Độ của thực dân Anh. Ông đứng đầu cuộc biểu tình đốt quần áo do người Anh sản xuất. Charkha trở thành biểu tượng tượng trưng cho lối sống truyền thống của người Ấn Độ. Biểu tượng này được đưa vào lá cờ của Quốc dân Đại hội Ấn Độ. Nó có sức mạnh tập hợp nhân dân Ấn Độ đứng lên chống lại thực dân Anh.

Nhưng Charkha ông chỉ đơn giảnbiểu tượng chính trị. Nó thể hiện tinh thần thực tiễn của Gandhi. Ông cho rằng việc ngồi xe sợi là một cơ hội để suy ngẫm. Người ta thường thấy hình ảnh ông ngồi bên guồng xe sợi. Ý nghĩa của việc mặc áo tự dệt là đạo đức nguyên thủy của con người với tinh thần độc lập tự chủ trong cuộc sinh tồn. Năm 1945, trong thư gửi Nerhu, Thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ độc lập, Gandhi nhấn mạnh biểu tượng Charkha mà mình chọn: “Tôi thấu hiểu rằng nó không nằm ngoài chân lýbất bạo động. Chúng ta có thể nhận ra chân lýbất bạo động trong sự giản dị của cuộc sống. Sự giản dị này được thể hiện đậm nét qua hình ảnh guồng xe sợi và tất cả những hàm ý khác. Con người nên tự tạo ra những gì mà mình thật sự cần hay nói cách khác là tự cung cấp”. (Sách Khám phá Thiên Tài… của Michael J. Gelb- NXB Lao động- Xã hội- 2008)

Sự khai sáng mà Gandhi theo đuổi buộc ông phải luyện tập một chế độ ăn kiêng ngặt nghèo, nhằm kiểm soát cơ thể, biến đổi năng lượng của ham muốn, thông qua việc tự thanh lọc và phát triển năng khiếu bản thân. Điều này bao gồm cả lời thề sống độc thân, bởi vì “không thể trong sạch khi vẫn còn nhục dục” và ông nghiêm khắc thực hiện chế độ ăn kiêng.

Cách tiếp cận thế giới tâm linh của Gandhi vẫn âm vang tới tận ngày nay: “Có rất nhiều cách định nghĩa Thượng đế bởi vì Ngài có rất nhiều cách thể hiện. Những định nghĩa ấy làm tôi liên tục ngạc nhiên, sợ hãi và choáng váng. Nhưng tôi chỉ tôn kính Ngài như một chân lý. Tôi chưa từng thấy Ngài, nhưng tôi đang tìm Ngài. Tôi sẵn sàng cống hiến những gì quí báu nhất để đi tìm. Ngay cả sự cống hiến đòi hỏi sinh mệnh của tôi thì tôi cũng sẵn lòng dâng hiến”.

Với mong muốn giành tự do cho Ấn Độ như đã công bố trước công chúng năm 1908, Gandhi trở lại Ấn Độ năm 1914 và nhanh chóng giữ vai trò lãnh đạo Liên hiệp tự trị toàn Ấn Độ, trở thành lãnh tụ Quốc dân Đại hội Ấn Độ. Từ năm 1920 trở đi ông tổ chức các chiến dịch bất phục tùng trong nước dựa trên phương thức bất bạo động. Triết lý của Gandhi có ảnh hưởng sâu sắc tới các phong trào chính trị hiện đại, đặc biệtphong trào vận động quyền công dân của Mỹ do Tiến sĩ Martin Luther King lãnh đạo. Ông nói: “Trong đời mình, Gandhi có thể huy động và kích động một lực lượng mạnh hơn bất kỳ ai trong lịch sử. Và chỉ với tình yêu, sự hiểu biết, thiện chí và sự khước từ những luật lệ tàn ác, ông có thể bẻ gãy sức mạnh của đế chế Anh. Đây là một trong những điều ý nghĩa nhất từng xảy ra trong lịch sử thế giới. Hơn ba trăm triệu người đã giành được tự do mà không phải đổ máu”.

Mai Thục.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8884)
Vị thế tối thượng ở đời được Thế Tôn xác lập dựa vào sự kết tinh của tu tập giới định tuệ và thành tựu giải thoát.
(Xem: 7492)
Một thời Thế Tôn du hành giữa dân chúng Kosala, tại thị trấn của người Kàlàmà, ở Kesaputta. Rồi các người Kàlàmà đi đến đảnh lễ...
(Xem: 8159)
Cuộc sống ngày nay, khó mà thoát ly hoàn toàn, vì cơ chế và nhịp sống của nhân loại theo đà tiến hóa khoa học và...
(Xem: 9167)
Hãy trân quý những gì đang có, giải thoáthạnh phúc ở trong lòng bàn tay của bạn! Xin hãy mỉm cười...
(Xem: 9244)
Trong Phật giáo các từ ngữ như “chánh ngữ” và “ái ngữ” luôn luôn được đề cập tới để khuyên dạy các Phật tử khi sử dụng tự do ngôn luận.
(Xem: 8931)
Theo Phật giáo Nam truyền, ngày Đản sanh, Thành đạo và nhập Niết-bàn của Đức Phật đều diễn ra vào ngày trăng tròn tháng Vesākha
(Xem: 7671)
Trong cái thấy của kinh Pháp Hoa thì tất cả vũ trụ là một. “Tất cả các cõi nước thông làm một cõi nước Phật”
(Xem: 11242)
Trong những bộ Kinh chúng ta học thường thấy hai từ Giác NgộGiải Thoát. Tất cả người tu học đều lấy hai từ đó làm cứu cánh để đi tới.
(Xem: 8749)
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh đại thừa Phật giáo.
(Xem: 8193)
Thập hiệu Như Lai, là những danh hiệu cao quý để tôn xưng những bậc đã thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
(Xem: 8075)
Cầu nguyện là một phương pháp tâm linh giúp cho con người chúng ta có thể tháo gỡ một phần nào những nỗi khổ niềm đau,
(Xem: 8070)
Tam Bảo như lãnh vực hoạt động của mặt trời. Lòng bi mẫn của các ngài thì vô tư và không bao giờ cạn kiệt.
(Xem: 6317)
Bốn Đại nguyện của giáo lý đại thừa được triển khai trên sự thực hành giáo lý Tứ Diệu Đế...
(Xem: 7686)
Một thời Đức Phật cư trú gần Bārānasī(Ba La Nại), ngài đã nói bài kệ nầy, về Vua Rồng Erakapatta.
(Xem: 7499)
Tất cả các tính đức là kết quả đến từ tinh tấn, nguyên nhân của hai tích tập phúc đứctrí tuệ. Trí địa thứ tư ngọn lửa trí huệ của...
(Xem: 7478)
Ngọn lửa trí tuệ phát ra ánh sáng khi đốt cháy các hiện tướng nhị nguyên đối đãi của các hiện tượng, do thế trí địa thứ ba được gọi là Phát quang địa.
(Xem: 8477)
Ngũ uẩn giai không 五蘊皆空 nghĩa là năm uẩn đều không có thật. Chữ uẩn 蘊 (skandha) còn gọi là ấm 陰 Uẩn là nhóm hay tập hợp hoặc tích hợp.
(Xem: 7994)
Như Lai thọ lượng là phẩm thứ 16 của kinh Pháp Hoa.
(Xem: 8391)
Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về chư tăng.
(Xem: 11177)
Đối với nhiều người, Phật Giáo vượt ra ngoài tôn giáo và là một triết lý hay "lối sống" hơn. Đó là một triết lý, vì triết lý “có nghĩa là tình yêu của trí tuệ”
(Xem: 8362)
Khi người ác xúc-phạm người hiền lành và vô tội, thì hậu-quả của hành-động ác nầy, đánh ngược lại người làm-ác, cũng giống như khi ném bụi bẩn ngược chiều gió, bụi bẩn bay ngược lại người ném.
(Xem: 7499)
Trong khi cư trú tại Tu Viện Trúc Lâm (Veluvana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về một nữ cư sĩ, tên là Uttarā.
(Xem: 7092)
Món quà tặng về Phật Pháp, cao quý hơn tất cả những món quà tặng khác, Hương vị Phật Pháp, thơm ngọt hơn tất cả những hương vị khác
(Xem: 8370)
Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về Tôn Giả A-Nan.
(Xem: 6254)
Trích dịch Chương Thứ Nhất của Tác Phẩm “Buddhism - One Teacher, Many Traditions [Phật Giáo - Một Vị Thầy, Nhiều Truyền Thống]
(Xem: 8311)
Hồi đầu là quay đầu trở lại hay xoay đầu trở lại. Thị ngạn: chính ngay đó là bờ mé. Đây là một câu người học Phật thường nghe nói.
(Xem: 9356)
Đức Phật dạy giáo lý Nghiệp với mục đích khuyến khích con người thực hành các Nghiệp lành để trang nghiêm cho kiếp sống hiện tại và...
(Xem: 8315)
Bước ngoặt quan trọng nhất trong tiến trình nhận thức của con người có lẽ là khi chúng ta bắt đầu nhận thức về chính bản thân mình.
(Xem: 9298)
Cái Thấy là một biểu hiện của sức sống bản nhiên, là sinh lực thường hằng vượt lên trên mọi giới hạn về thời gian (lúc thức, lúc ngủ, khi sống và cả khi chết…)
(Xem: 7924)
Giáo pháp của Vimalakirti trình bày các giáo pháp tinh yếu của Phật giáo Đại thừa trong 14 chương tương đối ngắn.
(Xem: 7123)
Trung luận, do Bồ-tát Long Thọ làm ra. Được viết dưới dạng kệ tụng. Có khoảng 500 bài kệ. Mỗi bài kệ có 4 câu
(Xem: 9836)
Nói chung, không dễ gì lưu lại ngọc xá lợi, không dễ gì thành tựu đạo quả qua quá trình tu chứng với những kiếp tái sinh nối tiếp trong thiện đạo.
(Xem: 14975)
Này các Tỷ kheo, trong toàn thế giới, Thiên giới, Ma giới, cùng với quần chúng Sa môn, Bà la môn, chư Thiênloài người, Như Lai là bậc chiến thắng, không bị ai chiến bại, toàn trí, toàn kiến, đại tự tại.
(Xem: 9371)
Khi thảo-luận về một ngón-tay, thì ngón-tay có phải là sự-thật không? Có phải chỉ có một ngón-tay duy-nhất, là có thể chỉ đúng vị-trí mặt trăng không?
(Xem: 7880)
Kim Cang dạy rất kỹ. Thấy “thường” đã sai mà thấy “đoạn” càng sai. Thấy có đã sai mà thấy không càng sai. Bồ tát thì “bất tận hữu vi bất trụ vô vi”.
(Xem: 7855)
Phu nhân Thắng Man sau khi phát mười hoằng thệ xong, trên hư không hoa trời liền rơi, nhạc trời liền trổi, chúng thấy điềm lành đó cũng đồng phát nguyện:
(Xem: 7922)
Ở trí địa Li cấu, bởi vì các bồ tátgiới hạnh toàn hảo, nên tự nhiên buông bỏ các hành vi sai lạc dù trong chiêm bao.
(Xem: 7866)
Thanh VănĐộc giác sinh từ chư Tối Thắng (chư Phật); chư Phật sinh từ chư Bồ tát. Đại bi, tính bất nhị, và tâm Bồ đề là những nguyên nhân của chư Tối Thắng Tử
(Xem: 7914)
Ngoại trừ các bậc tự chủ lẽ sống chết thì hầu hết chúng sanh đều không biết được thời điểm lâm chung của mình, nên khó có thể tự chủ tâm tư khi hấp hối.
(Xem: 7623)
Hakuin Ekaku (Bạch Ẩn Huệ Hạc, 白隠 慧鶴?, January 19, 1686 - January 18, 1768) là một thiền sư Nhật nổi tiếng đã có công gây dựng lại dòng thiền Lâm Tế ở Nhật Bản
(Xem: 8639)
Vua A Xà Thế vốn là vị vua có tài, nhờ Phật chuyển hóanhận ra sai lầm, biết sám hối, ăn năn, làm mới lại chính mình, làm lại cuộc đời.
(Xem: 7875)
Muốn thấy được Phật tánh thì phải dừng nghiệp thức. Nghiệp thức không dừng không bao giờ chúng ta thấy được tánh Phật.
(Xem: 8395)
Vượt thoát bể khổ, hẳn không ra ngoài chữ buông. Từ buông vật tài, đến buông thân, rồi buông vọng tưởng, âu là lộ trình vật vã.
(Xem: 10392)
Trong nền văn hóa 5000 năm của con người, mỗi con số không đơn thuần chỉ là con số khô khan mà tất cả con số đều có một ý nghĩa đặc biệt của vũ trụ huyền bí.
(Xem: 7946)
Đây là bốn Chân lý cao quý. Này chư tăng! Những gì là bốn? Các Chân lý cao quý về khổ, về nguồn gốc của khổ, về sự chấm dứt của khổ, và Chân lý cao quý về phương pháp dẫn đến sự chấm dứt của khổ.
(Xem: 10909)
Trong kinh có ghi lý do Đức Phật xuất hiện nơi đời chỉ vì một đại sự nhân duyên lớn đó là Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến...
(Xem: 8634)
Cùng một việc dứt thở, bỏ xác, tại sao ở người thế-gian, gọi là chết, còn ở Phật lại gọi là “nhập Niết-bàn”?
(Xem: 7756)
Sống, theo tính chất duyên sinh, là sống với, liên hệ với; không ai sống mà không có mối tương quan với người khác.
(Xem: 7437)
Vào đầu thế kỷ 12, quân Hồi giáo đã xâm chiếm Ấn-độ, với bản chất tàn bạo họ đã tàn sát các Tăng Ni, Phật tử, đốt sạch các Kinh điển Phật giáo...
(Xem: 8376)
Như Lai là một trong mười danh hiệu của Thế Tôn. Vậy thế nào là “Pháp” và tu học như thế nào để “thấy Pháp”.
(Xem: 7922)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo của vũ trụ. Nó cao cả hơn một thượng đế nhân tạoloại bỏ những giáo điềuthần học.
(Xem: 8431)
Nhập Trung đạoCon đường Bồ tát tích hợp đại bitrí tuệ, khởi hành từ đại bi và tích hợp với tính bất nhị và tâm bồ đề.
(Xem: 7877)
Thanh VănĐộc giác sinh từ chư Tối Thắng (Chư Phật) Chư Phật sinh từ chư Bồ tát. Đại bi, tính bất nhị, và tâm Bồ đề là những nguyên nhân của chư Tối Thắng Tử (Chư Bồ tát)
(Xem: 7863)
Bộ luận này, giải thích một cách không sai lạc tri kiến của ngài Long Thọ, được tích hợp từ Trung Lu
(Xem: 7050)
Theo kinh điển Nguyên thủy của Phật giáo Nam tông, Bồ tát Đản sanh, Bồ tát thành Đạo và Phật nhập Niết-bàn đều diễn ra vào ngày trăng tròn tháng tư âm lịch.
(Xem: 8281)
Tập tục dâng hương là một đạo lý truyền thống của dân tộc có từ ngàn xưa, đây là những gia bảo tinh thần đáng quý của tổ tiên để lại cho con cháu kế thừa.
(Xem: 8068)
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn từ Sơ thiền rồi Nhị Thiền, Tam thiền lần lượt thuận nghịch như vậy ra vào chín bậc thiền định xong, nói với đại chúng rằng...
(Xem: 8156)
Niết bàn thì ở khắp mọi nơi, ít nhất là đối với những người nói tiếng Anh. Từ ngữ nầy đã được dùng trong Anh Ngữ với ý nghĩa là "hạnh phúc" hoặc "bình yên".
(Xem: 9035)
Thần thông của Đức Phật là một trong những đề tài thu hút người viết và lôi cuốn người đọc. Từ trước đến nay, đã có nhiều bài viết đề cập đến vấn đề này.
(Xem: 7930)
Một số người tái-sinh lên làm người (sinh từ bào thai trong bụng mẹ), người độc-ác tái-sinh xuống địa ngục, người hiền-lành tái-sinh lên cõi trời, và người không-còn ô-nhiễm, sống hoàn-toàn an-lạc nơi cõi Niết Bàn.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant