Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tính Minh Triết Của Đạo Phật

09 Tháng Năm 201407:55(Xem: 13024)
Tính Minh Triết Của Đạo Phật
blank

Hiện nay Phật giáo có tiếng nói vô cùng quan trọng đối với Liên hiệp quốc, vì đã đánh thức được lương tri, lương tâm con người. Đạo Phật có tính ưu việt đồng thời mang tính minh triết và tồn tại gần 26 thế kỉ. Đức Phật đã truyền thông điệp giác ngộgiải thoát xuyên suốt lịch sử trong quá trình hình thành và bây giờ truyền bá khắp thế giới. Vào thời đại văn minh, người ta sống không phải dễ tin bất cứ một điều gì nên chúng ta cần khơi gợi lại những điểm sáng của đạo Phật để có niềm tin không phai mờ. Cũng chính điều đó mà đạo Phật khác hẳn các tôn giáo áp đặt niềm tin.

Tính minh triết của đạo Phật vô cùng trong sáng, không áp đặt con người phải tin, mà chỉ gợi mở để con người phát huy nội lực của mình bằng sự hiểu biết thông qua kinh nghiệm tu tập để nhận ra đó là lý tự nhiên, lý siêu nhiênĐức Phật đã gợi mở từ xưa đến nay. Đạo Phật đặt nặng tri kiến như thật về các pháp, còn các tôn giáo thần quyền đặt nặng về đức tin, nghĩa là phải tin như thế, không được phản bác hoặc suy nghĩ khác. Đối với Đạo Phật mọi người có quyền nghi ngờ cả lời chỉ dạy lẫn giáo lý của Đức Phật, có quyền phản vấn hoặc đặt câu hỏi với bất cứ một vị chân sư nào truyền đạt thông điệp giác ngộgiải thoát của Ngài. Đạo Phật nói tri và kiến, tức là thấy biết như thật về các pháp, nên luôn có cách nhìn khách quan về các pháp, thấy bằng công phu thiền tập, bằng sự chứng nghiệm tự thân thì mới thấy giá trị đích thực lời Phật dạy. Mãi đến bây giờ, những lời dạy của Ngài vẫn còn nguyên giá trị, là đuốc soi đường cho nhân loạithế giới đương đại, thế giới nguy hiểm về tính si mê, chạy theo vật dục. Nhà Phật có đề cập đến tri kiến Phậttri kiến phàm phu. Tri kiến phàm phu là cái thấy biết sai lầm, chẳng hạn trong nhà Phật nói thấy dây thừng mà tưởng thành con rắn, thuyền đi mà ngỡ bờ chạy, mây bay mà tưởng đó là trăng dời. Cái nhìn của phàm phu là nghe, thấy, biết nhưng bằng tham sân si, phiền não, vô minh nghiệp chướng nên còn sai lạc không đúng về sự thật vốn có của các pháp, nên khi gột rửa những cấu nhiễm trong tâm sẽ dần dần thấy biết chính xác hơn. Cái thấy chấp ngã, điên đảo, vọng tưởng, tham sân si chỉ là cái thấy phàm phu. Đức Phật vốn thấy biết nhưng không còn vọng tưởng vô minh điên đảo như chúng ta, cả một đời Đức Phật xuất hiện để khai thị cho chúng sanh thấy được tri kiến đó tiềm ẩn trong lớp bụi phiền não, trong thân ngũ uẩn, hễ khai phát ra và ứng dụngtri kiến Phật. Chúng ta sống với tri kiến phàm phu nên khổ mà chính chúng tatác nhân, tác giả của nỗi khổ trên cuộc đời phiền trược này chứ không phải thượng đế hoặc bề trên bắt chúng ta khổ đau hoặc hạnh phúc. Thay vì giải thích nguyên ủy của vũ trụ nhân sinhchơn tâm phật tánh thì các tôn giáo nói rằng có một đấng bề trên chi phối vận mạng của chúng ta.

Đến với đạo Phật, thiên đường hay địa ngục, hạnh phúc hay khổ đau, chánh báo hay y báo, phong trần hay phong lưu đều do chúng ta gây ra bởi chính chúng tatrung tâm của vũ trụ chứ không phải thượng đế hay đấng bề trên bày vẽ ra, đó là tính nhân bản mà cũng là tính dân chủ, bình đẳng của đạo Phật, và chỉ có đạo Phật mới thuyết minh được sự khác nhau giữa con ngườicon người, là do tính tương tục của nhân quả trong đó ghép thêm yếu tố thuận và nghịch của duyên. Khi luận nhân duyên và quả về lý tự nhiên của trời đất, các pháp đang vận hành thì Đức Phật soi rọi nhân sinh để nói nhân quả báo ứng hay nhân quả nghiệp báo, đó là giải thích sự sai thù về những vận mạng khác nhau của con người mà chính họ đã tạo nhân, đủ duyên, có kết quả, có chánh báoy báo không ai giống ai. Đạo Phật giải thích rất công bằngcông tâm. Nhân quảcông lý, là hình thức xử phạt của công lý tự nhiênnhân quảdiễn tiến vô thường trong thế giới tự nhiên, nhân mà gặp duyên nghịch thì quả chẳng tốt đẹp. Rõ ràng như cán cân công lý trong đó không phải do Thượng đế thiếu công bằng, nên chúng ta có thể lý luận người nào nghiệp nặng thì gặp ba ác đạo địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, còn thuận duyên nghiệp nhẹ thì gặp ba đường lành, Trời, Người, A Tula. Nhân, duyên và quả có sẵn trong thế giới tự nhiên, tính minh triết về thế giới nhị nguyên tương đốithiện ác, đúng sai, tốt xấu, hạnh phúc khổ đau. Sau đây là bài kệ Nhân quả ba đời:

Dục tri tiền thế nhân.

Kim sanh thọ giả thị.

Dục tri lai thế quả.

Kim sanh tác giả thị. ”

Nghĩa là: Muốn biết nhân đời trước thì xem mọi thọ dụng đời này, coi hiện tại mình đang thọ hưởng gì, nghèo hay giàu, sướng hay khổ thì có thể biết được kiếp trước mình đã tạo gì. Muốn biết được tương lai thì không nên xem bói toán hoặc gặp thầy tướng mà chỉ cần nghiệm lại ba nghiệp thân-khẩu-ý mình đã tạo tác những gì ở đời này. Nếu trong từng thời khắc hiện tại chúng ta nói, nghĩ và làm những điều thiện lành và có sự tu tập thì tương lai sẽ tốt đẹp. Bài kệ nhân quả này không có yếu tố của thần linh, không mang ý nghĩa ban phước giáng họa của bề trên, không có đấng quyền năng nào chi phối vận mệnh con người mà tất cả đều diễn tiến theo lý nhân quả tự nhiên. Tính minh triết của đạo Phật về nghiệp báo luân hồi, nhân quả báo ứng trở thành triết thuyết, chinh phục lương tri lương tâm con người, giải thích sự bất bình đẳng giữa nhân sinh, trong đó phủ nhận yếu tố thần linh chi phối vận mạng con người, đó là vấn đề cơ bản nhất của đạo Phật. Nếu chúng ta không thông hội mà cứ gởi gắm niềm tin hết chỗ này đến chỗ khác thì niềm tin của chúng ta không phải bằng tri kiến như thật mà bằng đức tin Thần Thánhcon người hay ỷ lại vào bề trên.

Đạo Phật là một tôn giáo được xây dựng nền móng bằng trí tuệ Bát nhãBát nhãtrung tâm phát huy nội lực của đạo Phật, xây dựng nên trí tuệ vút cao. Chính nền móng căn bản này mà tất cả những sứ giả Như Lai đem đạo Phật vào đời, tự tạo dựng nên nền minh triết mà thế giới hiện tại khâm phục và quý trọng. Đạo Phật khác hẳn những tôn giáo niềm tin bởi vì đạo Phậtđức tin nhưng không áp đặt niềm tin. Xưa kia vua chúa quan lại có ấn dấu để chứng thực uy quyền của vua quan, nếu không có ấn dấu thì tầng lớp này không làm việc được vì họ nhận trọng trách để điều hànhhiệu lực đối với ba quân tướng sĩ. Đệ tử Như Lai nếu khôngpháp ấn thì sẽ làm sai lệch giáo lý của Ngài mà giáo lýbản chấtcốt lõi của đạo Phật, và càng không thể thừa hành trọng trách “ Tác Như Lai sứ, hành Như Lai sự ” được. Nếu như ấn dấu là chứng thực uy quyền của vua thì đấng Pháp Vương Vô Thượng dùng ấn dấu để các đệ tử của Ngài trong công tác giáo hóa độ sinh phát huy năng lực truyền bá chánh pháp, lợi lạc quần sanh.

Ấn dấu của Đấng Pháp Vương bao gồm: Tứ pháp ấn, Tam pháp ấnNhất pháp ấn, là những ấn dấu hình thành nên sứ mệnh của đạo Phật trong cuộc đời. Tứ pháp ấnvô thường, khổ, không, vô ngã. Nếu đệ tử Phật không thông hiểu thì chưa thấy được giá trị của đạo Phật. Vô thường là sự chuyển dịch di dời trong lòng sự vật. Đạo Nho đã viết ra quyển Kinh Dịch nói về sự chuyển dịch của trời đất. Vô thườngđại hóa, biến hóa ở bất cứ mọi lúc, mọi nơi, vận động di dời là sự sống, đứng yên là chết, nên vô thường là sự sống. Chúng ta cần hiểu sâu vô thường để hiểu đạo lý một cách tích cực, đó là ý nghĩa của Bồ Tát đạo. Nếu hiểu vô thường đem đến khổ đau cho nhân thế rồi chán nản thì chúng ta cố gắng thúc thủ, diệt dục, tiến tu, dừng lại, đứng yên lặng lẽ trong Niết bàn. Đó là Niết bàn tịch tịnh lặng lẽ của Nhị thừa. Nếu hiểu vô thường là sự sống để tích cực hành Bồ Tát đạo, phát huy điểm sáng của vũ trụ thì đó là điểm nhấn của Phật giáo đại thừa. Nhà Phật nói: Vô thường thị thường, quá khứ đã vô thường, hiện tại đang vô thường, tương lai sẽ vô thường. Vô thường là một thực tại không thay đổi, là lý thường của trời đất, chúng ta không nên bi quan khi nghe nhắc đến vô thường mà cần thấy rằng vô thường là một thực tại rất nhiệm mầu, đẹp đẽchúng ta hãy ở nơi vô thường mà khuếch đại tự do. Muốn thấy được đạo lý chân thật thì không cần cưỡng ép trên công phu hay gượng ép bằng nghiên cứu, tham khảo mà phải có đời sống buông xả ở nơi tự tâm, hãy để tâm mình bồng bềnh tự nhiên theo nhịp sống thì chỗ thấy biết không cần tìm hiểu. Lý luận về mặt tục đế thì cuộc đời này khổ nhiều hơn vui, khổ chi phối thân tâm nên con người tìm cách diệt khổ để thoát khổ. Trong kinh, Đức Phật định nghĩa vì vô thường nên khổ, cái gì đã trôi qua sẽ không còn lại gì, càng lớn lên càng hiểu biết thì con người định giá cuộc đời trở nên thâm trầm, nhẹ nhàng và sâu sắc hơn. Khổ làm cho con người mệt mỏi ê chề, ngán ngẩm, chán chường. Nếu không gặp được vị minh sư thì người ấy bi quan và sẽ buông xuôi. Pháp ấn thứ ba là không, chẳng hạn cái bàn không có thật thể, không có chủ thể, không có ngã riêng, không có thường hằng mà chỉ là một vật thường xuyên di dời, chuyển biến. Nói cái bàn do nhiều duyên hợp lại, nếu đủ duyên thì hiện hữu, không đủ duyên thì ẩn tàng nên chỉ có mặt một cách ước lệ, một cách giả tạm bằng những yếu tố, điều kiện, nhân và duyên. Nói về không của vũ trụ vạn hữu thì tất cả những gì trên trái đất này đều là không mà đại thừa sau này suy tiến lý duy tâm, tất cả là do thức biến tâm hiện, cảnh giới do nghiệp cảm đồng phận chứ không có thật thể nên nói như giấc chiêm bao.

Kinh Kim Cang nói:

Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng, huyễn, bào, ảnh
Như lộ, diệc như điển
Ưng tác như thị quán.

(Tất cả pháp hữu vi
Như mộng, huyễn, bọt,bóng
Như sương cũng như chớp
Nên quán chiếu như thế.)

Phật dạy chúng ta nên khởi quán tất cả pháp hữu vi như giấc mộng, huyễn hóa, như hòn bọt, như cái bóng, như sương mù, như điển chớp. Nói đến vô ngã tức là từng sự vật không có cái ngã riêng, như đóa hoa này nếu rời ánh sáng mặt trời, không khí, đất, nước thì không thể hiện hữu. Rõ ràng các pháp không tự có ngã thể nhưng khi hình thành nên thân này từ đất, nước, gió, lửa hay sắc, thọ, tưởng, hành, thức thì mới gọi là ta, mà nếu thiếu một yếu tố thì không thể tồn tại được. Thân này được tồn tại, lớn lên và trưởng thành chỉ là giả danh giả tướng. Chúng ta hiểu được Tứ pháp ấn vô thường, khổ, không và vô ngã, quán triệt được vũ trụnhân sinh tức là được hỗ trợ bằng Tứ pháp ấn thì cuộc đời chúng ta vô cùng minh triết và đẹp đẽ. Đó là lý do Đức Phật nói Tứ pháp ấn cho hàng đệ tử xuất giatại gia. Nếu người nào muốn thoát khổ thì phải quán triệt được tính minh triết của đạo Phật, điều đó dựng nên cốt lõi bản chất đạo Phật.

Tam pháp ấnchư hành vô thường, chư pháp vô ngãNiết bàn tịch tịnh. Chư pháp vô ngã tức các pháp đều vô ngã, chẳng hạn đóa hoa không phải là hoa mà vay mượn những yếu tố để trở thành hoa. Đóa hoa chỉ hiện diện một cách ước lệ và có mặt bằng những yếu tố phi hoa thì mới hiện diện nguyên hình. Kinh Kim Cang nói: “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai”. (Nếu thấy các tướng là phi tướng tức thấy Như Lai ). Hoặc: “ Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng.” (phàm những gì có tướng mạo đều là hư dối). Do không hiểu được lý như huyễn, như mộng, diễn tiến của các pháp trùng trùng duyên khởi, do tâm lý bên trong của con người thiên biến vạn hóa nên bên ngoài các pháp thiên hình vạn trạng. Kinh Lăng Nghiêm nói: Do bên trong sân nên bên ngoài mới hiện ra lửa, tâm động chuyển theo duyên mới hiện ra gió và bão. Bên trong tâm tham ái nặng nề nên bên ngoài hiện ra nước, do bên trong chấp cứ một cách kiên cố nên bên ngoài hiện ra chất rắn, chất cứng. Tâm con người không có chỗ cùng nên vũ trụ này cũng không có bờ mé. Tâm do mê lầm, nhận biết sai lầm về các pháp nên sanh tâm khởi niệm, bên trong hình thành sáu căn, bên ngoài hình thành sáu trần, rồi có sáu thức khởi, tùy chỗ thọ nghiệp mà các kiếp sống được tiếp tục, chưa bao giờ dừng. Pháp ấn thứ ba của Tam pháp ấnNiết bàn. Có thể lý luận rằng nếu thâm nhậpquán triệt được lý vô thường vô ngã thì đạt Niết bàn trong hiện đời, gọi là hiện tại Niết bàn. Niết bànpháp ấn thứ ba thuộc về chân đế trong khi vô thườngvô ngã thuộc về tục đế. Niết bàn là nói về lý chân thật ở trong thế giới siêu nhiên, trong khi vô thườngvô ngã nói về thế giới tự nhiên. Trong có sáu căn, ngoài có sáu trần đối diện hằng ngày nhưng không phan duyên nên ở trong Niết bàn lặng lẽ yên ổn.

Nhất pháp ấn là gì? Đức Phật nói đến Nhất pháp ấnnhất tâm chân như, là con người chân thật hiện hữu nơi đây, bây giờ. Con người đó vô sắc, vô thinh, vô tung, vô khứ vô lai, bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Hư không không có đến, không có qua có lại, sắc thân sanh thân này có đi vào ba cõi sáu đường, sanh sanh diệt diệt và sống chết đắp đổi, nhưng pháp thân vô tung bất diệt đó không đi qua đi lại, không sanh sanh diệt diệt với thân này. Hòa thượng Trúc Lâm dạy chúng ta phải ý thức sâu sắc về thân này. Nơi thân này có pháp thân, nơi những đợt sóng trùng điệp trên biển trùng dương có tánh ướt của biển cả, có nước biển trong từng đợt sóng, muôn ngàn đợt sóng đều có nước. Thân gồm sắc thọ tưởng hành thức, không cách pháp thânpháp thân đó là điều kỳ diệu bởi phàm thân tức là Phật thân. Tất cả vũ trụ vạn hữu đều là biến hiện theo nghiệp riêng của từng người và nghiệp chung của chúng sanh giống nhau về một môi trường, tức nghiệp cảm đồng phận, nghiệp riêng giống nhau sẽ dẫn dắt đến hoàn cảnh giống nhau.

Nhất tâm chân nhưNhất pháp ấn. Truyền thống của thiền đốn ngộ nói rằng: Có một lần khi nói xong kinh Pháp Hoa tại hội Linh Sơn, Đức Phật cầm cành hoa sen lên, Ngài đưa mắt nhìn khắp lượt đại chúng,chỉ có Ngài Ca Diếp nở nụ cười hàm tiếu, mọi người ngơ ngác, Đức Phật truyền tâm ấn cho Ngài Ca Diếp làm Sơ Tổ Thiền Tông. Cuối đời, Đức Phật nói kinh Pháp Hoađại sự nhân duyên. Đại sự duy nhất mà Ngài thị hiện trên cuộc đời là khai thị để chúng sanh nhận ra tri kiến phật của chính mình. Tức là tất cả chúng sanh đều có chơn tâm phật tánh, bản lai diện mục. Sau khi trao truyền thông điệp ấy thì Đức Phật nhập Niết bàn, nên đó chính là cứu cánh rốt ráo cuối cùng của đạo Phật. Về sau gọi là Thiền tông đốn ngộ, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật. Thiền đốn ngộ từ thời Tổ Bồ Đề Đạt MaTây Trúc sang Ấn Độ thời Lương Võ Đế. Sau đó mới truyền thừa cho Ngài Huệ Khả, Tam Tổ Tăng Xán, Tứ Tổ Đạo Tín truyền cho Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn truyền cho Lục Tổ Huệ Năng, và từ đó về sau dừng y bát, vì có họa tranh giành. Đời Trần ở Việt Nam các dòng Thiền dung hợp lại thành Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Sơ Tổ của Thiền phái Trúc Lâm là một vị vua bỏ ngai vàng đi tu sau này trở thành Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Hòa thượng Trúc Lâm là người đặc biệt có công rất lớn, Ngài sinh ra vào thời mạt pháp, nhưng nhờ gặp được những vị thầy là chân sư tu theo Tịnh độ tông. Hòa thượng là người có duyên rất đậm với Thiền tông nên đã phát huy và khôi phục lại dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử cho đến ngày nay. Hòa thượng một đời trọng tâm nhắm đến Nhất pháp ấn của Phật là tu để nhận ra con người chân thật nơi mỗi chúng ta.

Cốt lõi hình thành nên tính minh triết của đạo PhậtTứ pháp ấn, Tam pháp ấnNhất pháp ấn. Nhất pháp ấn là đỉnh điểm cao nhất của đạo Phật, hình thành Thiền đốn ngộ. Thiền đốn ngộ không vượt ra ngoài Nhất pháp ấn. “Nhất thiết chúng sanh, giai hữu Phật tánh”. Tức là tất cả chúng sanh đều có tri kiến Phật, đều có đức tướng trí huệ của Như Lai. Vì vậy đạo Phật không phải là tôn giáo thần quyền, ban phước giáng họa hay áp đặt niềm tin, chỉ giúp chúng ta tự tại giữa dòng đời, thoát ra khỏi mọi cám dỗ của cuộc sống, tâm không bị mê mờ, ô nhiễm bởi tham sân si, vọng tưởng điên đảo, để được sống cuộc đời hồn nhiên trong sáng, thênh thang trong từng thời khắc. Nếu kẻ giàu mà mê muội chấp trước, còn người có cuộc sống bình dịhạnh phúc thì lòng người ấy sẽ phơi phới giữa thế gian sinh diệt.

Khoa học vận dụng tri thức vào cuộc sống, xem tri thức là một mắc xích chiến lược để phát triển bền vững cho xã hội loài người nhưng cuối cùng chỉ là cơm no áo ấm rồi chết. Họ không tìm ra chân nghĩa của cuộc sống, đó là bế tắc của khoa học mà tri thức không thấy được tự thân của thực tại. Tri thức động chuyển với cách nhìn thấy và có đối tượng thấy, có người biết là có đối tượng biết, có người nghiên cứu là có đối tượng nghiên cứu nên cứ loanh quanh luẩn quẩn trong vòng tương đối không đi vào Thiền định để nhận chân thực tại. Nhược điểm của khoa học là tạo ra mọi tiện ích, đồng thời cũng chế ra bom đạn vũ khí làm ảnh hưởng cuộc sống con người. Khoa học được xem là khí giới vạn năng có thể chinh phục thiên nhiên nhưng lại làm cho môi trường bị ô nhiễm từ không khí, mặt đất, nguồn nước. Còn Đạo Phật thì chủ trương lặn sâu vào công huân tu tập đạt trạng thái thênh thang tự tại, hòa nhập thế giới đại đồng. Đạo Phật mang tính bình đẳng, dân chủ, tự do, chính đó là điểm sáng của đạo Phật. Con người sống mê muội tạo nghiệp thọ khổ thì sẽ không hiểu biết ý nghĩa đích thực cứu cánh của đời sống.

Nhân mùa Khánh Đản năm nay, người viết xin phác họa vài điều cần nhận biết về tính minh triết của Đạo Phật trong thế giới văn minh đương đại, để thấy tính ưu việt của Đức Phậtgiáo pháp của Ngài sẽ còn đóng góp rất lớn cho nền văn minh nhân loại đang gặp nguy hiểm bên bờ vực thẳm của sự hủy diệt.

Thiền Tự Trúc Lâm Viên Giác

Mùa Phật Đản PL. 2558
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4996)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4382)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4671)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4709)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5874)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3309)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5279)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 2943)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 4157)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 5298)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 4275)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 3332)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 6367)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 5354)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 4641)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 6256)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(Xem: 6118)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 3905)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 6041)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 4646)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 4807)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 3398)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 6296)
Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn.
(Xem: 4961)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 3556)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 3483)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 5690)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 4257)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 6012)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 5254)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 3693)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 3772)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 3711)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 3537)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 5369)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 4028)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 4377)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 5833)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 3137)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 3075)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 3879)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 4869)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 3579)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 3069)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 4597)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 4749)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 3464)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 4006)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 4744)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 3587)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 3613)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 5161)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 4174)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 3302)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 3005)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 3045)
Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng
(Xem: 3125)
Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
(Xem: 3121)
Ai cũng mong trong cuộc sống có rất nhiều niềm vui và thật ít nỗi buồn.
(Xem: 3492)
Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần.
(Xem: 4019)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant