Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Như Bóng Không Rời Hình

21 Tháng Năm 201407:07(Xem: 7701)
Như Bóng Không Rời Hình
blankThí dụ là một thủ pháp nghệ thuật ngôn ngữ dùng một hình ảnh cụ thể hay một trường hợp điển hình để minh họa cho một vấn đề mới. Trong các thuyết giảng của Đức Phật, Ngài luôn có những hình ảnh thí dụ để minh họa cho giáo lýpháp môn tu tập. Rõ ràng việc sử dụng thủ pháp nghệ thuật này làm cho nội dung thuyết giảng được giải bày cụ thể, trong sáng, súc tích và giúp cho người học đạo nhận thức được vấn đề một cách trực tiếp.

Kinh Pháp Cú, bản kinh Pàli rất phổ biến và được ứng dụng rộng rãi trong đời sống thực tiễn của người Phật tử, có dấu ấn sử dụng thủ pháp nghệ thuật “thí dụ” trong ngôn ngữ. Các thí dụ trình bày trong bản kinh này đều gần gũi với sự vật, hiện tượng xảy ra, liên hệ trực tiếp đến đời sống con nguời. Hay nói cách khác, sức hấp dẫn của bộ kinh này được trình bày dưới hình thức các bài kệ đơn giản, súc tích, giàu hình ảnh với những thí dụ sinh động, thật mộc mạc, quen thuộc, nhưng khi đọc lên có thể thấy được âm vang toàn bộ giá trị tư tưởng, giáo lý nhà Phật được thể hiện qua những pháp hành cụ thể.

“ Như bóng không rời hình, Như xe chân vật kéo, Như cây yếu trước gió, Như núi đá trước gió, như trăng thoát mây che …là cái hình ảnh thí dụ tiêu biểu, vừa có tính hình tượng văn học vừa mang ý nghĩa biểu trưng một kết cấu nhân quả -nghiệp báo, nhưng đồng thời cũng là một câu kết rất có giá trị của một trong những bài kệ của Kinh Pháp Cú. tạo nên một dấu ấn tâm linh cho người học đạo. Điều đó chứng tỏ, lời dạy của Thế Tôn trong bản kinh này thật giản dị, hình như ai cũng hiểu được, nhưng những người có căn trí cao, càng suy ngẩm càng cảm thấy ý tứ thâm trầm. Sau này các vị bác học đa văn, tuy có diễn giải khá dài về thuyết nhân quả nghiệp báo, nhưng thiết nghĩ không thế nào thay thế được những lời dạy giản dị đầy ẩn dụ, thi dụ của Đức Phật trong Kinh Pháp Cú và một số kinh khác .

Khi thuyết pháp, Đức Phật thường dùng nhiều thí dụ, đúng hơn là những ảnh dụ, bởi vì những thí dụĐức Phật dùng thường gợi lên hình ảnh, có những hình ảnh thật đẹp và nên thơ, có sức gợi cảm mạnh , như vậy chúng ta sẽ thấy trong các câu kệ trích dẫn trong bài này: “Ý dẫn đầu các Pháp. Ý làm chủ, ý tạo. Nếu với ý ô nhiễm. Nói lên hành động. Khổ não bước theo sau. Như xe , chân vật kéo”.

Phật giáo cho rằng “ Con người là chủ nhân ông của nghiệp, là người thừa tự nghiệp” . Nghiệp là hành động tạo tác có tác ý. Do đó. một người làm điều ác hay nói điều ác, là do ở nơi tâm nghĩ ác trước. Vì vậy mà kinh nói “Ý dẫn đầu các pháp”. “ Ý làm chủ ý tạo”. Ở đây ý chính chỉ các hành động thiện hay ác. Tất nhiên, từ pháp trong đạo Phật có nhiều nghĩa, nhưng ở đây, các pháp chỉ các điều thiện hay ác thể hiệnlời nói hay hành động . Kinh nói rằng, nếu nói hay làm với tâm ác (tức là tâm ô nhiễm, không trong sạch), thì bị khổ liền tức khắc, cũng như hình ảnh bánh xe lăn theo sát chân con bò kéo vậy. Tất nhiên, có quả khổ xảy ra sau này nữa, nhưng người ta vừa nói ác và làm ác thì lập tức trong băn khoăn, sợ hãi, còn mọi người thì chê cười … Đó là cái khổ xảy ra hiện tiền. Trái lại, nếu nói lời lành, làm điều lành, với tâm thiện lành, thì có ngay niềm vui, niềm an lạc, cũng như bóng không bao giờ rời hình : “ Nếu với ý thanh tịnh, Nói lên hành động, An lạc bước theo sau, Như bóng không rời hình ( kệ 2 ) .

Cũng như cha ông ta nói “gieo gió thì gặt bão , ở hiền thì gặp lành”, đó là quy luật nhân quả thuộc phạm trù đạo đức. Cho nên, hễ ai có thái độ sống bất thiện, phóng túng không kiểm soát thân tâm, thì sẽ thiếu tự tin khi đối diện với những vấn đề nan giải, có nguy cơ bị đọa lạ , sụp đổ, chẳng khác nào cây yếu sẽ bị đổ trước gió : “ Ai sống nhìn tịnh tướng , Không hộ trì các căn , Ăn uống thiếu tiết độ , Biếng nhác , chẳng tinh cần , Ma uy hiếp kẻ ấy , Như cây yếu trước gió” (kệ 7) .

Trái lại, đối với người có lối sống thiện lành thì sẽ an trú trong thế giới an lạc , vững vàng trước mọi thử thách, tự tin vào đời , chẳng khác nào hình ảnh kiên cố của núi đa trước gió : “ Ai sống quán bất tịnh ,Khéo hộ trì các căn , Ăn uốngtiết độ , Có lòng tin tinh cần , Ma không uy hiếp được , Như núi đá trước gió” (kệ 8) .

Tịnh tướng là thế giới đầy đủ màu sắc của cuộc sống .Con người có thẩm thức , có khả năng cảm nhận cái đẹp ; khi bước ra khỏi vòng hệ lụy khát áichấp thủ , khiếu thẩm mỹ ấy làm phong phú thêm cho sự an lạc , nếu không thì dẫn đến kết quả khổ đau . Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy , một người có thái độ sống phóng dật ; buông lung ,lười biếng , không có lòng tin vào lẽ phải , ở điều thiện , các bậc Thánh và những lời dạy của các bậc Thánh , không biết tri túc và dễ bị dục vọng thấp hèn lôi cuốn , sai khiến . Kinh Pháp cú dùng từ ma để chỉ những dục vọng thấp hèn , chứ không phải chỉ ma quỷ .

Trái lại người có trí rèn luyện tâm mình , khine61 cho tâm luôn luôn nghĩ điều lành , không nghĩ điều ác , nhờ vậy , lời nói cũng như việc làm cũng đều thiện lành . Con người khéo tu tâm như vậy , Kinh Pháp Cú ví với mái nhà khéo lợp , nước mưa không thấm vào được . Đối với tâm khéo tu tập , những dục vọng thấp hèn hay xấu xa cũng không chi phối được : “ Như ngôi nhà khéo lợp , Mưa không xâm nhập vào , Cũng vậy tâm khéo tu , Tham dục không xâm nhập” ( kệ 14) .

Rõ ràng các thí dụ Đức Phật dùng để thuyết pháp vừa nêu , một mặt khái niệm được vấn đề , một mặt gợi cho người học một ảnh tượng cụ thể , minh họa cho thế giới thực tại đang diễn ra hết sức sinh động , nó tùy thuộc kết quả vận hành của tâm . Một tâm thức trong sáng , tinh tấn hành thiện , tích lũy việc thiện , người đó chắc chắn sẽ được an lạc . Thế nên , trong cuộc sống , nếu có kẻ ngu tìm cách hại người hiền thiện , thì kẻ ngu đó xử sự không khác gì đứng ngược gió mà tung bụi sẽ làm bẩn mặt kẻ ngu , chứ không thể làm bẩn người hiền thiện : “ Hại người không ác tâm , Người thanh tịnh không uế , Tội ác đến kẻ ngu , Như ngược gió tung bụi”. ( kệ 125 ).

Kẻ ác làm điều ác rồi , tưởng có thể cao chạy xa bay , nhưng kinh Pháp Cú nói rõ , kẻ ác làm điều ác , mà không quyết tâm sửa chửa thì dù có trốn chạy lên trời hay dưới biển , cũng không tránh được quả báo ác sẽ đến với mình : “ Không trên trời dưới biển , Không lánh vào động núi , Không chỗ nào trên trời ,Trốn được quả ác nghiệp” . (kệ 127).

Luật nhân quả khách quan , nhưng không phải là máy móc. Trong sách Phật, có khái niệm chuyển nghiệp. Bằng những hành động thiên tạo ra thường xuyên và mạnh mẽ, chúng ta có thể hạn chế, tiến tới triệt tiêu những nhân bất thiện được tạo ra từ trước. Vì vậy, mà Kinh Pháp Cú nói : “Ai sống trước buông lung , Sau sống không phóng dật , Chói sáng rực đời này , Như trăng thoát mây che” ( kệ 172) , và : “ Ai dùng các hạnh lành , Làm xóa mờ nghiệp ác , Chói sáng rực đời này , Như trăng thoát mây che” (kệ 173) .

Trăng thoát mây che” là thí dụ đặc trưng của thủ pháp nghệ thuật này, nó cũng là một hình ảnh đẹp để giải trình cho một kết cấu nhân quả khách quan trong triết lý nhân sinh, cũng như trong đời sống thực tại. Điều đáng nói khi Phật sử dụng thủ pháp nghệ thuật thí dụ để diễn đạt chân lý thì chân lý càng hiển lộ nhiều hơn. Trường hợp Angulimala – một tên cướp khét tiếng giết người là một thí dụ điển hình. Ông là người đươc Phật giác ngộ và cho xuất gia. Sau đó, Angulimala không những trở thành tu sĩ hiền và từ bi, mà còn chứng quả A-la-hán . Điều đó , có nghĩa một người phạm trọng tội, nếu biết bỏ ác theo lành cũng chứng dắc quả vị , huống hố là những người bình thường. Có thể nói, đối với đạo Phật, cửa giác ngộgiải thoát mở rộng cho mọi người, không phân biệt người thiện hay kẻ ác, thậm chí kẻ rất ác, miễn là người đó thật thà cải tà quy chánh, bỏ ác làm lành. Cho nên nói “biển khổ vô biên , quay đầu là bờ” là vậy.

Thế nên, trong đời sống hiện thực đầy biến động này, con người dễ dàng dao độnghệ lụy với thế giới hình tướng mỹ miều bên ngoài. Nếu không may thiếu sự tỉnh thức mà bị lầm lạc, hay bị đọa lạc bởi những hành động bất thiện thì không nên chán nản, thất vọng. Tâm lành, hành động lành có công năng chuyển hóathiêu hủy các tội lỗichúng ta không lường hết được. Điều đó giúp ta có một sức mạnh nội tại và khẳng định lòng tịnh tín của mình trong cuộc hành trình tìm cội rễ giải thoát. Giải thoátgiác ngộ cho chính sự nghiệp của mỗi người, không ai làm thay ai được cả .

Đến đây, như bóng theo hình, như trăng thoát mây che…trong các câu kệ Kinh Pháp Cú không chỉ là các thí dụ văn học Phật giáo mang tính điển hình, đầy giá trị thẩm mỹ, chuyển tải nội dung thông điệp đạo lý nhân quảnghiệp báo khách quan nữa mà thực sự trở thành pháp hành cụ thể cho mỗi người. Thiết nghĩ, nếu chưa từng đọc, bạn hãy bắt đầu đọc kinh, nếu đã đọc rồi , chắc sẽ như tôi càng đọc càng thấm thía , càng đọc càng suy ngẫm, tâm càng trở nên yên tĩnh trong sáng . Rõ ràng , lời Phật dạy là lời bao giờ cũng có giá trị văn hay, ý đẹp , và thâm trầm, mà khi bạn đọc hằng ngày ; càng đọc càng thấy hay, và nếu thực hành lại càng thấy hay vô cùng, lợi lạc vô cùng trong đới sống thực nghiệm tâm linh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1405)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1226)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1279)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1441)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1067)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1173)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1188)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1591)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1553)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2724)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1729)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1268)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1135)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1180)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1303)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1235)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1839)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1582)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1788)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1716)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2257)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1675)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2007)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 1997)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2161)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1750)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1866)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 1930)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1847)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 1998)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1832)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1765)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1846)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1784)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2054)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2159)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1865)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 1976)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1743)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1801)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2297)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2195)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3693)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2351)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3006)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2373)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 1947)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1709)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3207)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2239)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 2930)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2593)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
(Xem: 1939)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 2902)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2540)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3428)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3281)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4106)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3604)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant