Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bồ Tát Hạnh Trong Kinh Viên Giác

23 Tháng Hai 201509:35(Xem: 8446)
Bồ Tát Hạnh Trong Kinh Viên Giác
BỒ TÁT HẠNH TRONG KINH VIÊN GIÁC

Thích Nguyên Tịnh



Bồ Tát Hạnh Trong Kink Viên GiácChúng ta phải nhận ra, mọi lời thuyết pháp của chư Phật đều nhằm chỉ thẳng tâm, không nên bám chặt vào tên và lời, bởi đó chỉ là ngón tay đưa lên, còn đích chúng ta thấy phải là mặt trăng vằng vặc vượt ra khỏi giới hạn của ngón tay kia.

1. Ý nghĩa Bồ-tát:

Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh. Bồ-tát là vị đã giác ngộ nhưng còn trụ lại kiếp chúng sanh để độ đời. Bồ-tát, từ người mới bắt đầu (sơ phát tâm) cho đến những vị đã nhiều đời sống theo hạnh Bồ-tát (Đại Bồ-tát) đều có một hướng đi rõ rệt: nỗ lực sống giải thoátgiác ngộ bằng chính cuộc đời mình và dùng cuộc đời đó để giúp đỡ những người khác giải thoátgiác ngộ. Hơn thế nữa, chính trong nỗ lực giúp đỡ người khác giải thoátgiác ngộ mà vị ấy thành tựu giải thoátgiác ngộ. Thâu tóm lại, Bồ-tát có hai công việc chính:

sở hoá độ của Bồ-tát (cũng gọi là Phẩm tính Bồ-tát): Tự mình giải thoátgiác ngộ. Đây là công việc của Trí tuệ soi thấy tánh Không hay Vô tự tánh của tất cả các hiện tượng (vạn pháp), của tất cả không gianthời gian. Công việc này được gọi là tích tập trí tuệ.

Phương pháp hoá độ của Bồ-tát (cũng gọi là Lý tưởng Bồ-tát): Phụng sự chúng sanh (để họ được giải thoátgiác ngộ). Đây là công việc của lòng đại bi. Sở dĩ gọi là “Đại” vì đó không phải là công việc của một đời mà là công việc của một số đời bằng công việc số đời của tất cả chúng sanh; công việc của một đời sống “không bỏ chúng sanh” và do đó mà “không sợ sanh tử luân hồi”. Phụng sự, làm lợi lạc cho chúng sanh phải trải qua nhiều đời, trong mọi mặt. Công việc này được gọi là tích tập phước đức.

Bồ-tát là một đời sống hòa hợp được hai mâu thuẫn: một mặt là giải thoát ra khỏi sanh tử; mặt khác không lìa bỏ sanh tử, hay là sự giải thoát sanh tử bằng Tánh Không (sự thật Vô ngãVô pháp) đồng thời không bỏ sanh tử vì lòng đại bi. Như thế, trên con đường Bồ-tát cuối cùng, hai cái mâu thuẩn chừng như mâu thuẫn đó trở thành một, bất khả phân. Kinh Viên Giác nói lên lý tưởng Bồ-tát dựa trên tinh thần liễu tri sanh tử. Hành giả tu tập thấy sanh tử không phải là một thứ gì đáng ghét và ghê gớm như một đống rác hôi hám nên vứt bỏ càng sớm càng tốt, mà rác cũng có tính ưu việt của nó, đây là mặt tích cực của sinh tử trên con đường chứng đắc Phật quả. Cũng nhờ đó mà chúng ta bảo, Bồ-tát có sự nhớ ơn sâu sắc sanh tửchúng sanh.

2. Cơ sở hoá độ của Bồ-tát:

Danh từ Bồ-tát, không biết từ lúc nào đã đi vào lòng người như một hình ảnh lung linh và điển hình. Chúng ta có thể bắt gặp Bồ-tát qua những hình ảnh rất quen thuộc như Bồ-tát Di Lặc, Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Phổ Hiền v.v... hoặc qua hình ảnh chư vị Thánh tăng trọn đời hy sinh cho sự nghiệp xiển dương chánh pháp, hóa độ chúng sanh. Bên cạnh đó, vị Bồ-tát còn được biết đến dưới nhiều hình tướng dung dị tùy cơ nghi phụng sự cõi Ta-bà.

Bồ-tát đạo là con đường không dễ thực hành trọn vẹn. Nếu tâm niệm không kiên định, ý chí không vững bền, không mang trong mình đại nguyệnThượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh” thì hành giả sẽ chẳng bao giờ đi trọn trên hành trình nhiệm mầu mà lắm gian nan đó cả.

Dĩ nhiên, chúng ta không thể nói hết những phẩm tính của Bồ-tát, bởi trong quá trình thăng tiến qua nhiều kiếp sống, những đức tính nào con người có thể có, đều được khai triển một cách hoàn hảo ở nơi một Bồ-tát. Trong bài viết giới hạn này, chúng ta chỉ đề cập đến những phẩm cách của Bồ-tát dựa trên tinh thần Kinh Viên Giác mà thôi. Cơ sở hoá độ là kết quả có được của hành giả, hay có thể hiểu, đó là con đường mà một vị Bồ-tát phải đi, phải thành tựu dựa trên vô lượng pháp môn tu tập từ sơ phát tâm đến khi vượt qua Thập địa. Căn cứ vào đó mà Viên Giác chia Bồ-tát thành bốn đẳng cấp theo quá trình tu chứng gồm: phàm phu, trước Thập địa, nhập Thập địaPhật địa Viên Giác. Tu theo từng cấp độ như thế gọi là tiệm tu, còn tu tậpthành đạo nhanh chóng nhờ thượng căn gọi là đốn tu.

Qua từng phẩm Kinh Viên Giác, chúng ta thấy phẩm cách Bồ-tát được Thế-tôn dạy rất căn bảncặn kẽ sau mỗi vấn đề được đặt ra của các vị Đại Bồ-tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Phổ Nhãn, Kim Cang Tạng, Oai Đức Tự Tại... Phẩm cách thuộc về phần tự độ, chính là pháp môn tu tập. Và xuyên suốt cả bổn Kinh, Thế-tôn không dạy gì ngoài giáo lý căn bản như Duyên Khởi, Ngũ uẩn, Niệm Xứ, ... đó gọi là Đại Đà-la-ni (大陀羅尼), lưu xuất hết thảy Chân như thanh tịnh, Bồ đề, Niết bàn cũng như Ba-la-mật, cũng gọi là Nhân địa của Như-lai (因地如來) hay Pháp hạnh Nhơn địa (因地法行). Bồ-tát phải tu tập diệt trừ vô minh như trừ đi cơn bệnh lâu ngày. Tiếp theo những câu hỏi của Ngài Văn ThùPhổ Hiền, Ngài Phổ Nhãn đã đặt vấn đề cầu xin đức Phật khai thị thật vô cùng thiết thựctrở thành nội dung chuẩn mực thâu tóm toàn bộ bản Kinh: “Mong Phật vì những chúng Bồ-tát trong hội này và vì tất cả chúng sanh đời mạt pháp giảng nói các vấn đề thứ lớp tu hành của Bồ-tát: Làm sao tư duy? Làm sao trú trì? Chúng sanh chưa ngộ làm phương tiện gì khiến cho tất cả đều được khai ngộ?” (云 何 思 惟? 云 何 住 持? 眾 生 未 悟 作 何 方 便 普 令 開 悟 ?) (Phẩm Phổ Nhãn Bồ-tát vấn Phật, thứ 3).

Câu hỏi trên cũng tương tự như câu mà Trưởng lão Tu-bồ-đề đã hỏi đức Phật ở Kinh Kim Cương: “Thế-tôn! Những thiện namthiện nữ muốn phát tâm vô thượng Chánh đẳng giác thì nên trú tâm vào đâu? Nên điều phục tâm như thế nào?” (世 尊! 善 男 子, 善 女
人, 發 阿 耨 多 羅 三 藐 三 菩 提 心, 應 云 何 住?
云 何 降 伏 其 心?) (Kinh Kim Cương, đoạn Thiện Hiện khải thỉnh, thứ 2).

Xuyên suốt bản Kinh với những lời cầu thỉnh về phương pháp tu tập của chư Đại Bồ-tát, Thế-tôn đã trả lời với những cách khác nhau nhưng đều y cứ những pháp môn căn bản dựa trên nền tảng Thiền định. Trong Thiền định, hành giả phải liễu đạt rõ ràng bản chất của Vô minh. Chính vô minh là đầu mối của mọi sanh tử khổ đau và gây không biết bao nhiêu nhiệt não chông gai cho người hành đạo.

Ở những phẩm đầu tiên, đức Phật đề cập tổng quát về Vô minh, trong những phẩm tiếp theo, Ngài đã chỉ tận gốc rễ sự vô minh gây khổ đau là vì tham ái và dục phát sinh mà không thể chánh niệm tỉnh giác được. Phẩm Di-lặc Bồ-tát vấn Phật, Như-lai đã dạy rất rõ, sở dĩ chúng sanh luân hồi mãi trong bùn lầy tử sinh là do bị tham ái và dục chiếm hữu. Vì thế, Bồ-tát tu tập cần phải thấy một cách tường tận: vòng xoáy luân hồi, Ái là căn bản. Do các dục giúp ái tánh phát sinh, nên khiến sanh tử nối nhau. Dục nương ái sanh, Mạng nương dục mà có. Ái mạng của chúng sanh lại nương nơi gốc dục. Ái dục là nhân, Ái mạng là quả.

Nói như vậy có nghĩa hành giả muốn bước đi trên lộ trình của Bồ tát phải quán chiếu gốc rễ sanh tử do ái để từ đó đoạn trừ, tức phải nhìn thấy bản chất của ái, vị ngọt của ái, sự tập khởi của ái và sự đoạn diệt của ái một cách triệt để. Điều này không phải dễ dàng vì chúng ta có mặt ở cuộc đời này cũng từ tham ái, cần phải nỗ lực thắng lướt mọi thói quen, mọi tư duy sai lầm bằng cách khởi Chánh tri kiến nhằm bỏ Lý chướngquyết tâm cắt đứt nguyên nhân sanh tử nhằm bỏ Sự chướng.

Bồ-tát phải cầu tất cả Chánh tri kiến để định hướng việc tu tập chuẩn mực, điều này cần đến những tinh tấn trong thiền định mà phẩm Oai Đức Tự Tại Bồ-tát Vấn Phật đã sơ lược có ba phương pháp:

Thứ nhất, tu tập Xa-ma-tha (奢 摩 他) dần dần khiến tâm vắng lặng như gương chiếu. Đây cũng gọi là tu Thiền Chỉ. Thứ hai, tu tập Tam-ma-bát-đề (三 摩 缽 提) dần dần nhìn thấy các pháp đều như huyễn như mộng nhằm viễn ly tham muốn chấp thủ. Đây cũng gọi là tu Thiền Quán. Thứ ba, tu tập Thiền-na (禪 那) dần dần lặng dứt mọi tâm niệm như âm thanh im bặt trong đồ vật, không bao giờ còn cơ hội vọng thanh nữa. Đây cũng gọi là đoạn phân biệt nhằm thấy thật tướng.

Vận dụng ba pháp Thiềp tập này, cũng có nghĩa là chúng ta hành trì Thiền Tứ Niệm Xứ:

Niệm Thân tức quay lại quán chiếu thân Tứ Đại dựa trên những đặc tính Khổ, Vô thường, Vô ngã;

Niệm Thọ tức nhìn vào những cảm thọ về khổ, vui, không khổ không vui dựa trên những đặc tính Khổ, Vô thường, Vô ngã;

Niệm Tâm tức trở lại nhìn vào những chuyển biến của tâm thức nhằm có thể điều khiển tâm một cách thiện xảo dựa trên những đặc tính Khổ, Vô thường, Vô ngã;

Niệm Pháp tức nhìn vào những hiện tượng hiện hữu giữa cuộc đời dựa trên những đặc tính Khổ, Vô thường, Vô ngã.

Đó chính là những pháp tu truyền thống mà bất kì Kinh điển nào chúng ta cũng có thể thấy được, và Kinh Viên Giác cũng không nằm ngoài trường hợp ấy. Bên cạnh đó, có một điều mà Bồ-tát luôn luôn khắc ghi trong từng tâm niệm, đó chính là vấn đề giữ giới. Ngài Phổ Nhãn sau khi hỏi pháp tu tập cho Bồ-tát đã được Thế-tôn dạy, muốn cầu tâm thanh tịnh viên giác của chư Như-lai, phải nên chánh niệm xa lìa các huyễn, trước y theo hạnh Xa-ma-tha của Như-lai, giữ kỹ cấm giới, xử an đồ chúng... (欲 求 如 來 淨 圓 覺 心, 應 當 正 念, 遠 離 諸 幻, 先 依 如 來 奢 藦 他 行, 肩 持 禁 戒, 安 處 徒 眾...). Giới là pháp hành không thể thiếu với một đệ tử Phật xuất gia cũng như tại gia. Giới là chánh thuận với căn bản của Giải thoát, nhờ giới mà Thiền định được thành tựu, và Trí tuệ nương đây mà được quán triệt. Trong các chúng hội, giới luật nào cũng được đặt nền tảng dựa vào Ngũ giới, những giới sau đều khai triển từ đây mà thành.

Bồ-tát vì lòng từ bi, giới luật trở thành phục sức tốt đẹp nhất trên bước đường tu tập và hoằng hoá. Giới là hiện thân của Tánh giác. Khi chưa thấy Tánh, một người chìm đắm trong mê mờ sanh tử cùng những ràng buộc nhỏ hẹp, tự giết chết tâm Phật của mình, đây là tội giết người nặng nhất trong những tội giết người. Khi những tư tưởng mê lầm tiếo tục sanh khởi và kéo dài, ta tự huỷ báng kho tàng Phật pháp, làm hư hao công đức, đó là lúc ta trở thành tên cướp giựt nguy hiểm.

Khi những mê lầm sanh khởitiếp tục được nuôi dưỡng, ta sẽ mãi tạo thêm nghiệp bất thiện, mãi bắt tay mê mờ theo những thói quen đau khổ, đó là lúc ta mắc tội tà hạnh. Khi mù quáng với những tư tưởng sai lầm, ta dù diễn nói pháp tới đâu cũng rơi vào tội đại vọng ngữ chứ có ích gì. Khi bị cô lập trong tư tưởng sai lầm, trí tuệ không thể phát sinh, mọi thấy biết đều mập mờ, đó là lúc tâm trí ta không khác gì một gã say rượu. Ngược lại với những điều trên là một hành giả được mệnh danh giữ giới thanh tịnh, không có chút tỳ vết, hàng được bậc Thánh ca ngợi. Một vị Bồ-tát phải nhìn giới luật trên bình diện đó nhằm thăng tiến hơn đạo hạnh, để biết rằng, giữ giới chân thậtcon đường giác ngộ nhanh nhất trong việc thấy bộ mặt rõ ràng của bản tánh.

Khi những phẩm cách Bồ-tát đã thành tựu thì lại bước qua địa vị khác-địa vị Bồ tát thượng thủ, “Bồ-tát chẳng cầu pháp trói buộc, chẳng cầu pháp cởi mở, chẳng ưa Niết-bàn, chẳng kỉnh người trì giới, chẳng ghét người phá giới, chẳng trọng kẻ quen lâu, chẳng khinh người mới học, vì tất cả đều là giác tánh” (不 與 法 缚, 不 求 法 脫 , 不 厭 生 死 , 不 愛 涅 槃, 不 敬 持 戒, 不 憎 毀 禁, 不 重 久 習, 不 輕 初 學, 何以 故? 一 切 覺 故!) (Phẩm Phổ Nhãn Bồ-tát vấn Phật, thứ 3).

Vì thế, theo Kinh Viên Giác, Bồ-tát được định nghĩa là người xa lìa cấu huyễn (對 離 幻 垢, 說 名 菩 薩), cũng đồng với nghĩa “Tất cả Bồ-tát và chúng sanh đời mạt pháp trước hết phải dứt hết vô thỉ cội rễ luân hồi” (一 切 菩 薩, 及 未 世 眾 生 先 斷 無 始 輪 回 根 本) (Phẩm Kim Cang Tạng Bồ-tát vấn Phật, thứ 4).

Ngay đây đã thiết lập một niềm tin lớn để hành giả nỗ lực tu tập nhằm đoạn tận mọi tham ái chấp trước - vốn là căn bản luân hồi. Niềm tin hễ đã lớn mạnh thì vạn pháp rất chóng thành tựu. Lời dạy đã đầy đủ cho một vị Bồ-tát, chúng ta chỉ còn việc lên đường, dấn thân mới mong thể nhập được vào chân lý thù thắng được.

3. Phương tiện hoá độ của Bồ-tát:

Bồ-tát vào cuộc đờinguyện lực từ bi hoá độ vô sô chúng sanh chứ không phải do nghiệp lực luân hồi như bao loại khác. Trong và sau khi hành trì chánh pháp, Bồ-tát luôn giữ trong mình những lý tưởng cao quý. Tất cả những lý tưởng đó không nằm ngoài mục đích tự độ và độ tha dựa vào các tác nhân Trí tuệTừ bi.

Nhờ Trí tuệTừ bi soi rọi mà Bồ-tát nhận chân được thế nào là con đường sáng, thế nào là hạnh phúc tối thượng, thế nào là con đường đem hạnh phúc tối thượng đó ban trải cho hết thảy chúng sanh một cách thù thắng. Tất nhiên, lý tưởng độ tha của Bồ-tát phải song hành cùng tinh thần tự độ như sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa nước với sữa không thể tách rời. Hạnh phúc tự độ được nhắc nhở khá rõ ràngbài kệ Phẩm Phổ Nhãn:

普 眼 汝 當 知
一 切 諸 眾 生
身 心 皆 如 幻
身 相 屬 四 大
心 性 歸 六 塵
四 大 體 各 離
誰 為 和 合 者
如 是 漸 修 行
一 切 悉 清 淨
一 切 佛 世 界
猶 如 虚 空 崋
三 世 悉 平 等
畢 竟 無 來 去
初 發 心 菩 薩
及 未 世 眾 生
欲 求 入 佛 道
應 如 是 修 習

“Phổ Nhãn ông nên biết
Tất cả các chúng sanh
Thân tâm đều như huyễn
Thân tướng thuộc bốn đại
Tâm tánh thuộc sáu trần
Thể bốn đại đều lìa
Cái gì là hoà hợp?
Thứ lớp tu như vậy
Tất cả đều thanh tịnh
... ...
Hết thảy thế giới Phật
Cũng như hoa hư không
Ba đời đều bình đẳng
Rốt ráo không lai khứ
Bồ tát mới phát tâm
Cùng chúng sanh đời mạt
Muốn cầu vào Phật đạo
Phải tu tập như thế.”

Từ việc ý thức tự độ như thế, Trí tuệ phát khởi khiến Bồ-tát tự nhiên nuôi dưỡng lớn mạnh và thành tựu hạnh Từ bi, tức hạnh nguyện cứu độ hết thảy chúng sanh. Cả bản Kinh Viên Giác đều thể hiện mục đích Độ tha rất rõ ràngthiết thực. Mỗi phẩm Kinh đều được bắt đầu với những câu hỏi của chư Đại Bồ-tát, cụ thể từ phương pháp hành trì (Trí tuệ), đến hạnh nguyện hoằng hoá (Từ bi). Thật ra, khi chúng ta biết trau dồi phẩm hạnh cho mình thì từ bi hay nói cách khác, ánh mắt nhìn chúng sanh cũng sẽ rộng rãibao dung hơn. Không thể tìm thấy lòng yêu thương đích thực ở một người chẳng bao giờ biết chăm sóc tâm linh cho chính mình. Vì thế, ở Kinh Viên Giác, tất cả những câu hỏi của chư Bồ-tát đặt ra đều thành tựu hai mặt Cơ sở và Phương tiện hoá độ, tức thành tựuThượng cầu Phật đạo, hạ hoá chúng sanh”. Bồ-tát tu tập thấy rõ lý Duyên Sinh, không một pháp nào tồn tại độc lập, Sự Lý viên dungtương tức tương nhập, dù tất cả đều hiện hữu như Hư Không hoa nhưng phải khởi từ bi tâm quảng đại để biến cõi Ta-bà thành Hoa Tạng Thế Giới Hải, như Kinh Lăng Già có dạy:

世 間 離 生 滅
猶 如 虚 空 華
智 不 得 有 無
而 興 大 悲 心
Thế gian ly sanh diệt
Do như hư không hoa
Trí bất đắc hữu vô
Nhi hưng đại bi tâm”.

Mười hai vị Bồ-tát đặt mười hai câu hỏi thiết thực trên lộ trình giải thoát. Mỗi câu hỏi mở ra một phương trời sáng cho chúng ta nhuyền nhuyễn trong lý tưởng thanh cao. “Bồ-tát trở vào trần lao độ các chúng sanh phải lập bao nhiêu phương tiện giáo hoá?” (迴 入 塵 勞, 當 設 幾 種 教 化 方 便 度 諸 眾 生?) (Phẩm Di-lặc Bồ-tát vấn Phật, thứ 5). Câu hỏi trên của Ngài Di-lặc cùng tất cả những câu hỏi tương tự vậy đều thiết lập niềm tin cho mỗi hành giả, giúp hành giả có cơ hội nhập vào hàng Thánh chúng. Lý tưởng Bồ-tát nhờ đây được thành mãn. Nhờ có Chánh Tri Kiến (điều mà Thế-tôn đã dạy đi dạy lại nhiều lần trong bản Kinh), Bồ-tát tu hành như thế, thứ lớp như thế, tư duy như thế, trụ trì như thế, phương tiện như thế, khai ngộ như thế, cầu pháp như thế, thấy năng sở đều không, chẳng cầu cảnh chứng. Và nhờ vào niềm tin kiên lập, Bồ-tát vào đời hoá độ chúng sanh không biết mệt mõi, chỉ mong chúng sanh thành tựu đạo nghiệp nhằm viễn ly mọi ràng buộc của ác pháp.

Như mũi tên bắn ngang đường chim bay khiến nó đoạn mạng, cũng như thế, Bồ-tát vào đời với tâm từ bi, dùng mọi phương tiện thiện xảo đoạn tận nghiệp chướng cho chúng sanh, khiến tất cả đều được thâu nhiếp trong căn bản của Pháp. Đây chính là lý tưởng tột vời mà hành giả cần định hướng và tinh tấn tu tập.

Bồ-tát khi trở lại suy xét chính mình thì cũng trong lúc ấy thấy được những tâm tánhchúng sanh. Sở dĩ như vậy vì tâm chúng sanh không ngoài tâm hành giả, cùng đeo mang những cảnh nghiệp, cùng chung nguyên nhân luân hồi, do đây tâm từ bi thêm lan toả trùm phủ lên người thân kẻ sơ, người nhanh kẻ lụt. Dần dần, khi tâm từ câu hữu lên khắp mọi đối tượng thì khái niệm về Ngã tướng, Nhơn tướng, Chúng sanh tướng, Thọ giả tướng sẽ nhanh chóng được đoạn tận, như một người nhìn thấy huyễn pháp thì huyễn pháp tự trừ, biết được huyễn thuật sư đang biểu diễn thì những cảnh tượng mê hoặc được tạo ra không làm ta chướng ngại nữa. Cầu tất cả chánh tri kiến thì chánh tri kiến đó chính là thiện hữu, nhờ đó bốn thứ bệnh về Tác (làm), Nhậm (mặc), Chỉ (ngăn), Diệt (đứt) lập tức tiêu trừ và không còn cơ hội trở lại hại Thánh chủng của ta nữa.

Tất cả điều này sẽ thành tựu khi nào hành giả vào đời dùng tâm từ bi làm phương tiện mở bày những người chưa ngộ (菩 薩 唯 以 大 悲 方 便, 入 諸 世 間 開 發 未 悟). “Tâm đại bi (mahàkarumà) vốn là tinh thể của tam muội (samàdhi) vì bi tâmthân thể (saria), là cửa ngõ (mukha), là tiền đạo (Purvangama) của nó và là phương tiện tự hiện thân khắp vũ trụ. Nếu khônglòng từ bi, Tam muội của Phật dù có siêu nhập thế nào sẽ không có giá trị trong cuộc diễn xuất của một Kịch trường tâm linh vĩ đại. Đây quả là chỗ sai biệt giữa Đại thừa và tất cả các giáo thuyết đã có trước trong lịch sử đạo Phật...” (Thiền luận, Suzuki tập hạ, trích dẫn theo HT. Đức Thanh, Giáo trình Viên Giác, HVPGVN tai Huế 2007, tr 34). Đó được gọi là y cứ nguyện lực từ vô thỉ mà tâm thanh tịnh trong mỗi chúng ta đều viên chiếu tròn đầy.

Cuộc sống dù thế nào đi nữa, việc tu tập dù gặp bao nhiêu trắc trở đi nữa, hành giả cũng phải một lòng thương tưởng đến các chúng sanh đời mạt pháp, phải làm sao khiến tất cả đều an trú trong chánh pháp tuyệt đối mà chư Phật trong mười phương ba đời luôn tán thán. Tâm từ bình đẳng như hư không chẳng luận gò đồi hay vực thẳm, được Kinh Viên Giác gọi là “Bất xả vô giá đại bi” (不 捨 無 这 大 悲). Đạo quả này được thành tựu nhờ Bồ-tát đã quán triệt tâm mình và quán triệt tâm tha nhân, thấy rõ Tứ đế, Duyên khởi, Vô ngã y như cảm nhận được hơi thở của mình. Khi đã giác ngộ hay đang tiến dần trên con đường giác ngộ, Bồ-tát không bao giờ để rơi chúng sanh để an vui trong Niết-bàn. Mười hai vị Đại Bồ-tát trong Kinh Viên Giác chắc chắn đã thâm đạt giáo lý Như-lai, các Ngài phương tiện đặt câu hỏi trước đức Phật chỉ nhằm mục đích khiến các chúng sanh khác nương nơi đây mà biết được pháp môn tu tập, bởi trí tuệ phàm phu làm sao có thể hiểu được chân lý biểu hiện như thế nào mà thỉnh cầu. Chừng đó thôi, cũng đủ để thấy được lý tưởng Bồ-tát thâm sâu và đáng thực tập đến chừng nào.

Để kết thúc một vài nhận định về lý tưởng Bồ-tát trong Kinh Viên Giác, xin trích lời dạy vô cùng rõ ràngđức Phật đã thuyết giảng ở Phẩm Phổ Giác Bồ-tát vấn Phật: “Trong đời mạt, chúng sanh muốn cầu Viên giác, nên phát tâm mà nói lên rằng, tất cả chúng sanh tận cõi hư không, ta đều khiến vào hết trong Viên Giác rốt ráo” (末 世 眾 生, 欲 求 圓 覺, 應 當 發 心 作 如 是 言: 盡 於 虚 空, 一 切 眾 生, 我 皆 令 入 究 竟 圓 覺).

Nhận địnhkết luận:

Này các Tỷ-kheo, Ta đã được giải thoát khỏi tất cả bẫy sập ở Thiên giớiNhân giới. Này các Tỷ-kheo, các Ông cũng được giải thoát khỏi tất cả bẫy sập ở Thiên giớiNhân giới. Này các Tỷ-kheo, hãy du hànhhạnh phúc cho quần chúng, vì an lạc cho quần chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiênloài Người. Chớ có đi hai người một chỗ. Này các Tỷ-kheo, hãy thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn. Hãy tuyên thuyết Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh. Có các chúng sanh sanh ra ít nhiễm bụi đời, nếu không được nghe pháp sẽ đi đến hoại diệt. Họ sẽ trở thành những vị thâm hiểu Chánh pháp. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ đi đến Uruvelà, thị trấn Senà để thuyết pháp...” (ĐTKVN, Tương Ưng Bộ I, Tương Ưng Ác Ma, Phẩm thứ I, Bẫy Sập, tr234-235).

Đây được xem như lời nói nhân bản đầu tiên bắt đầu cho cuộc hoằng dương chánh pháp với sự góp mặt của các đại đệ tử đức Phật, và việc làm lợi ích cho số đông này vẫn mãi được duy trì cho đến ngày nay. Có thể khẳng định, rằng, tư tưởng Bồ-tát đạo đã được manh nha và phát triển trong những ngày đầu từ lúc Thế-tôn thành tựu Vô thượng Chánh Đẳng Giác, bởi tinh thần sống của Tăng chúng không phải hưởng thụ những lợi ích riêng mình, không phải khổ hạnh mong xa lìa nghiệp cảm, mà vì hạnh phúc cho cả cộng đồng những nơi các Ngài có mặt. Các Tỷ-kheo đã bắt đầu hành Như Lai sự với tinh thần dấn thân; đi khất thực; tùy duyên giáo hóa; đem đời sống xuất ly ươm mầm trong tâm thức tha nhân; chỉ cho mọi người thấy được đâu là con đường sáng để thành tựu phạm hạnh, đâu là ngõ cụt có thể đưa đến thối đọa. Giáo đoàn hầu như đã thiết lập lại một trật tự sống phát xuất từ nội tâm cho tất cả các tầng lớp thời bấy giờ, bằng những lời dạy hết sức bình thường mà bất kì ai, thuộc tầng lớp giai cấp nào cũng có thể hành trì được.

Thế-tôn đã khẳng định, Ngài thuyết pháp không vì tranh chấp, tranh cãi, chiến tranh, luận tranh, mà vì mục đích giải thoát, cho nên, những gì bậc trí tán thán, Ngài cũng tán thán; những gì bậc chân nhân không chấp nhận, Ngài cũng không chấp nhận (Xem Tương Ưng Bộ III, Phẩm V, Bông Hoa, Tu Thư Phật Học Vạn Hạnh, 1982, tr 165-166).

Chúng sanh có tám vạn bốn ngàn căn bệnh khó chữa gói gọn trong tham-sân-si thì giáo lý Phật-đà có đến tám vạn bốn ngàn pháp môn đối trịdiệt trừ tận gốc mọi căn bệnh đó.

Giáo lý mỗi nơi phô diễn mỗi cách khác nhau, theo mỗi ngôn ngữ khác nhau, theo
một trình độ nhận thức khác nhau tuỳ vào căn cơ đối tượng, đôi khi nó được ám chỉ là Pháp Độc Nhất và Kỳ Diệu; đôi khi là Viên Giác; đôi khi là Tổng trì (Đà-la-ni); đôi khi là Cõi Giới, đôi khi là Tịnh Độ; có nơi là Pháp Giới của Hoa Nghiêm; có nơi là Như-lai Tạng; có nơi là Phật Hương Tích, A Di Đà, Dược Sư, Phổ Hiền, Văn Thù, Di Lặc, Biện Âm,... Tất cả tên này đều chỉ rõ Nhất Tâm. Bản tánh của tâm này là bản nguyên chư Phật, nó là tên của tất cả các Kinh. Kinh Viên Giác cũng nằm trong nghĩa thâm mật đó.

Chúng ta phải nhận ra, mọi lời thuyết pháp của chư Phật đều nhằm chỉ thẳng tâm, không nên bám chặt vào tên và lời, bởi đó chỉ là ngón tay đưa lên, còn đích chúng ta thấy phải là mặt trăng vằng vặc vượt ra khỏi giới hạn của ngón tay kia. Nếu không như vậy, tất cả pháp ấy sẽ trở thành thuốc độc, hành giả sẽ phải thừa tự, sẽ phải là chủ nhân của ác nghiệp. Bất kỳ ở thời pháp và bản Kinh nào, chúng ta cũng phải dùng trí tuệ soi rọi, thấy được cốt yếu nội dung không ra ngoài Cơ sở hoá độ (Phẩm Cách tu tập) và Phương pháp hoá độ (Lý tưởng hoá độ chúng sanh). Hai nội dung này đan xen vào nhau không thể tách rời, một nội dung thành tựu thì nội dung còn lại cũng dựa vào đó để viên mãn. Sở dĩ phải phân chia bố cục như trên chỉ để chúng ta thấu hiểu được dễ dàng mà thôi, chứ thật ra, chỉ cần đọc, hoặc là Cơ sở hoá độ của Bồ-tát, hoặc là Phương pháp hoá độ của Bồ-tát, thì chúng ta có thể hiểu được chi phần còn lại. Kinh Viên Giác đã trình bày rất cụ thể hai nội dung trên từ phẩm đầu tiên cho đến phẩm cuối cùng.

Điểm then chốt trong mỗi từ mỗi ngữ nhằm giúp chúng sanh Kiến tánh để không phụ lòng với lời dạy, Giáo pháp của Như-lai là đến để mà thấy chứ không phải để chiêm ngưỡng như một triết lý mông lung. Giáo lý ấy thật dễ hiểu, gói gọn hoàn toàn vào hai từ “Trí Tuệ” và “Từ Bi”, nhưng chứng đạt được thì điều không phải dễ dàng. Và đó là chân trời mênh mông mà mỗi chúng ta đều có quyền lựa chọn và dấn thân!

Bồ-tát phát nguyện hoá độ tất cả chúng sanh vào Niết-bàn (Hạ hoá chúng sanh - lý tưởng độ tha) mà thật ra không thấy chúng sanh nào chân thật được độ (Thượng cầu Phật đạo - phẩm cách tự độ) (善 男 子, 善 女 人, 發 阿 耨 多 羅 三 藐 三 菩 提 心 者, 當 生 如 是 心: 我 應 滅 度 一 切 眾 生 已 而 無 有 一 眾 生 實 滅 度 者) (Kinh Kim Cương, đoạn 17, Cứu cánh Vô ngã), đó là tư tưởng cốt yếu của tất cả những bản Kinh Phật giáo.

Kinh Viên Giác với cái nhìn như thật đang là của các pháp cũng mở ra phương trời rất mới, ở đó chúng ta thấy được đường đi của chư Bồ-tát cũng như nền tảng hoá độ chúng sanh của các Ngài. Sự thông biện giáo pháp, tâm từ bi bình đẳng luôn là những gì được đề cao và được đức Phật nhắc đi nhắc lại, tạo thành chuẩn mực sống của đệ tử Như-lai trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai.

Viên Giác, tựa đề bản Kinh cũng đã cho ta thấy được phần nào diệu dụng của bản Kinh, muốn hết thảy chúng sanh thực hành Bồ-tát đạo và đều được an trú trong sự nhiệm mầu này nhờ thành mãn Vô ngã, Vô nhơn, Vô chúng sanh, Vô thọ giả. Chúng sanh bệnh là Bồ-tát bệnh, vì thế, Bồ-tát phải nỗ lực tìm cầu diệu dược cứu độ cho mình và cứu độ cho chúng sanh. Những căn bệnh do Vô minh, Tham ái, Dục vọng, Chấp thủ... hễ còn hoành hành là Bồ-tát còn hiện thân chữa trị cứu độ, có nghĩa là tinh thần Viên Giác vẫn còn lưu bố rộng khắp.

Chúng ta, những hành giả đang đi trên con đường thiêng liêng cao quý đó, cũng phải tinh tấn lòng dặn lòng nuôi dưỡng tâm từ cùng tăng trưởng trí tuệ, tự mình vượt qua bộc lưu và giúp người khác vượt qua bộc lưu. Đó chính là sự tri ân Tam bảo đúng nghĩa và thiết thực nhất, cũng là mục đích mà Kinh Viên Giác muốn trao truyền.

THAM KHẢO:

1. Lăng già a bạt đa la bảo kinh
楞伽阿跋多羅寶經. Lưu Tống, Cầu Na Bạt Đà La dịch, ĐTK 16, 479. Số hiệu 670.
2. Đại thừa nhập lăng già kinh
大乘入楞伽經. Đường, Thật Xoa Nan Đà dịch, ĐTK 16, 587. Số hiệu 672.
3. Kim cương bát nhã ba la mật kinh 金剛般若波羅蜜經. Diêu Tần Tam
Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch, ĐTK 8, 78. Số hiệu: 235.
4. Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm
Kinh Nhập Pháp Giới Phẩm 大方廣佛華嚴經入法界品. Đường Địa Bà Ha La dịch. ĐTK số hiệu 295.
5. Kinh Viên Giác. Thích Viên Đức dịch.Saigon: Bản in Ronéo.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7017)
Trong cuộc sống, con người luôn chuẩn bị tâm thế để đối mặt với khổ đau. Khi khổ đau đến, hoặc chúng ta phải chịu đựng và quỵ ngã, hoặc...
(Xem: 14169)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20173)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 9352)
Ngày nay nếu chúng ta có dịp đọc lại trong kinh tạng, sẽ thấy có rất nhiều tư liệu nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.
(Xem: 7683)
Luận Hiển dương Thánh giáo 顯揚聖教論, tiếng Phạn là Ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra hay Prakaranaryavaca-sastra (Acclamation of the Scriptural Teaching/ Treatise of Acclamation of the Sagely Teaching),,,
(Xem: 8007)
Bát chánh đạo’ hay Tám con đường cao quý (八正道 - āryāstāngika-mārga/còn được gọi là "Trung Đạo") là một trong những nền tảng của toàn bộ lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 7282)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, và mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 9227)
Khái niệm về Niết bàn (Nirvana) đã xuất hiện hơn 2500 năm. Xuyên qua nhiều thế kỷ, biết bao học giảtriết gia đã cố gắng để...
(Xem: 7300)
Nếu mỗi sự-vật là chẳng có tự tính, không cái gì có thể sinh hoặc diệt, vậy thì từ hoàn toàn đoạn trừ hoặc diệt tận cái gì mà kết quả là niết bàn?
(Xem: 7314)
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minhái dục; hai pháp có thể ...
(Xem: 7520)
Giải thoát hay tánh Không thì không chỗ nào không có, nên bất cứ ở đâu chúng ta cũng có thể gặp nó.
(Xem: 9324)
Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,,,
(Xem: 8618)
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm".
(Xem: 7191)
Niết bàn được Đức Thế Tôn miêu tả là hai phương diện cho những người sống một đời sống đức hạnh trong sáng, thực hành giới hạnh dẫn tới ...
(Xem: 7791)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiênloài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập
(Xem: 6878)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ...
(Xem: 7533)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm.
(Xem: 9694)
Một trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ.
(Xem: 8155)
Trong tín niệm vãng sanh của một số truyền thống Phật giáo Bắc truyền, ở quá khứ cũng như hiện tại, đã căn cứ vào tình trạng nóng, lạnh từ thân thể...
(Xem: 8691)
Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra.
(Xem: 7507)
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thểtrường tồn,...
(Xem: 8701)
Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.
(Xem: 8472)
Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này.
(Xem: 7875)
Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên.
(Xem: 8824)
Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru,
(Xem: 9249)
Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì ...
(Xem: 8554)
Nếu chúng ta bước vào Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) [1] sau khi qua Lăng già (Laṅkāvatāra) Kim cang (Vajracchedika), Niết-bàn (Parinirvāṇa), hay ...
(Xem: 8743)
Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình.
(Xem: 7058)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông...
(Xem: 8984)
Giáo lýđức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do...
(Xem: 8440)
Khi một Bồ tát tu tập một đạo lộ với các mantras, phát bồ đề tâm theo phương diện tương đốibản chất của đại nguyện, Bồ tát phải ...
(Xem: 7747)
“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.
(Xem: 9444)
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giảnnổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp.
(Xem: 9977)
Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên tác: Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ dịch
(Xem: 8602)
Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên...
(Xem: 8148)
Con đường đưa đến giác ngộ, giải thoátNiết Bàn chính là Bát Thánh Đạo, Tứ Diệu Đế; và phần quan trọng nhất trong con đường này là Thiền định.
(Xem: 7493)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là...
(Xem: 9169)
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để...
(Xem: 7336)
Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta.
(Xem: 15149)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo Sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giảng dạy ở Ấn độ.
(Xem: 7123)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(Xem: 8356)
Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối...
(Xem: 12028)
Đối với người tu tập thuần thành thì cái CHẾT thực sự không phải là chết Mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.
(Xem: 7152)
Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ...
(Xem: 11356)
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo.
(Xem: 8171)
Thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử tại gia cũng như xuất gia đa phần đều tu tập tinh tấn, dễ dàng chứng đắc các Thánh vị.
(Xem: 7882)
Đức Phật nói rằng khi Ngài nhìn ra thế giới ngay sau khi Giác ngộ, Ngài thấy rằng chúng sanh cũng giống như...
(Xem: 7755)
Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh?
(Xem: 8754)
một lần, Ma Vương hóa trang thành một người đàn ông, rồi đến thưa hỏi Đức Phật...
(Xem: 7259)
Trời mưa, trời nắng là chuyện bình thường. Thời tiết phải có lúc nắng, lúc mưa, không thể nào bầu trời không mưa hay...
(Xem: 18006)
“Ăn Cơm Hương Tích, uống Trà Tào Khê, ngồi Thuyền Bát Nhã, ngắm Trăng Lăng Già”...
(Xem: 9192)
Tánh Không với hàm ý bản thể của thế giới, vạn vật đều là không, nghĩa là không có thật, không có thực thể, không có...
(Xem: 7861)
Có một thực tế hiển nhiên cần được ghi nhận rằng, không phải ai cũng hiểu đúng về lời dạy của Đức Phật, ngay cả khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 8824)
Vị thế tối thượng ở đời được Thế Tôn xác lập dựa vào sự kết tinh của tu tập giới định tuệ và thành tựu giải thoát.
(Xem: 7437)
Một thời Thế Tôn du hành giữa dân chúng Kosala, tại thị trấn của người Kàlàmà, ở Kesaputta. Rồi các người Kàlàmà đi đến đảnh lễ...
(Xem: 8083)
Cuộc sống ngày nay, khó mà thoát ly hoàn toàn, vì cơ chế và nhịp sống của nhân loại theo đà tiến hóa khoa học và...
(Xem: 9116)
Hãy trân quý những gì đang có, giải thoáthạnh phúc ở trong lòng bàn tay của bạn! Xin hãy mỉm cười...
(Xem: 9162)
Trong Phật giáo các từ ngữ như “chánh ngữ” và “ái ngữ” luôn luôn được đề cập tới để khuyên dạy các Phật tử khi sử dụng tự do ngôn luận.
(Xem: 8857)
Theo Phật giáo Nam truyền, ngày Đản sanh, Thành đạo và nhập Niết-bàn của Đức Phật đều diễn ra vào ngày trăng tròn tháng Vesākha
(Xem: 7613)
Trong cái thấy của kinh Pháp Hoa thì tất cả vũ trụ là một. “Tất cả các cõi nước thông làm một cõi nước Phật”
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant