Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bụt Hay Phật

01 Tháng Giêng 201613:00(Xem: 10014)
Bụt Hay Phật
BỤT HAY PHẬT
(Phần 1)

Nguyễn Cung Thông


buthayphat-001-content
Hình 1: chữ Phật dạng chữ triện

buthayphat-002

Hình 2: Các con đường truyền bá của Phật giáo

buthayphat-003-content

Hình 3: Các cách viết cổ (dị thể) của chữ Phật

Bài này là một phần trong loạt bài viết về "Bụt hay Phật". Bài đăng lần đầu tiên qua chủ đề "Biết-Bụt-Phật" trên tạp chí Y Học Thường Thức, số 38 - tháng 5/6 năm 2000 (California, Hoa Kỳ). Khuynh hướng dùng từ Bụt như từ ’mới’ thấy rõ nét trong vòng hai mươi năm trở lại, nhất là qua các bài viết của Thiền Sư Nhất Hạnh. Phần này sẽ đưa ra các dữ kiện ngôn ngữ văn hoá minh chứng từ Bụt (Nôm lõi) là dạng cổ hơn của từ Phật Hán Việt, do đó khuynh hướng dùng từ Bụt không phải là ‘mới’ như nhiều người lầm tưởng mà thật ra là ‘cổ’, và cổ lắm ... Không phải tình cờ mà GS Joseph Edkins (trong "Chinese Buddhism" Chương XXV, 1893) đã từng đưa ra dạng âm cổ của fó (Phật đọc theo giọng Bắc Kinh hiện đại) chính là But : ông hoàn toàn không biết Bụt đã có mặt trong tiếng Việt từ lâu! Chuyến xe luân hồi (samsara संसार ) không chỉ chuyên chở nhân sinh, lịch sử mà còn ngôn ngữ con người chăng?

Ngôn Ngữ Học (Linguistics, đặc biệtNgôn Ngữ Học Lịch Sử - Historical Linguistics) bước vào một giai đoạn mới khi các nhà nghiên cứu bắt đầu thiết lập hệ thống so sánh các dữ kiện ngôn ngữ một cách khách quan(1), không những thế - qua các khám phá (định luật, thống kê) tìm ra - nhiều khám phá mới cũng bắt đầu ra đời rất khắn khít với dữ kiện từ ngôn ngữ (càng ngày càng thâu nhận nhiều và chính xác hơn so với thời xưa). Ngôn Ngữ Học từ đó đã thoát khỏi quỹ đạo của truyền thống khoa học nhân văn để tiến dần đến một khoa học chính xác hơn. Điển hình là các quan hệ giữa phụ âm đầu trong tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha, La Tinh, Đức ... mà ta khá quen thuộc. Thí dụ như định luật Grimm có liên hệ trực tiếp đến chủ đề bài viết này. Định luật âm thanh Grimm (Grimm’s law hay còn gọi là Rask’s-Grimm’s law, First Germanic sound shift) ra đời vào khoảng 1822. Người đọc có thể xem chi tiết về định luật này trên mạng. Luật này ghi nhận sự tương đồng về phụ âm đầu trong ngữ hệ Ấn Âu (Indo-European languages) như các âm mạnh (strong sounds) trở thành âm yếu hơn (weak sounds) : ví dụ b, d, g trở thành p, t, k và sau đó thành f, θ, x ...v.v... Thí dụ fish (cá, tiếng Anh), Fisch (Đức) là poisson (Pháp), pez (Tây Ban Nha), piscis (La Tinh) ... warp (cong vòng, tiếng Anh), värpa (Thuỵ Điển), werpen (Hà Lan), verber (La Tinh) ... Theo thiển ý và với khuynh hướng biến âm tự nhiên của tiếng nói (các phụ âm cùng vị trí phát âm ở môi và răng) nên luật Grimm không chỉ hiện diện trong ngữ hệ Ấn Âu, nhưng còn có thể áp dụng cho các ngữ hệ khác nữa. Thí dụ như tiếng Kara (ở New Ireland, thuộc Papua New Guinea)(2) có các tương quan (b-p-f/ph) như sau:

*bulan > fulan (mặt trăng)

*tapine > tefin (đàn bà)

Nhìn lại các ngôn ngữ vùng Đông Nam Á, nhất là tiếng Hán, Hán Việt : không phải ngẫu nhiênPhục Hy 伏羲 hay 宓羲còn có các tên gọi khác là Bào Hy (庖羲), Bao Hy (包羲) ... Phần này chỉ giới hạn vào biến âm b > p > f (ph-) trong tiếng Hán, Hán Việt (HV) và Việt. Các dữ kiện ngôn ngữ trong bài không có trích nguồn vì rất dễ kiểm tra lại, ngoại trừ một số tài liệu Ngôn Ngữ Học hay nguồn dữ liệu đặc biệt quan trọng cho bài này. Các chữ có dấu hoa thị (asterisk) đứng trước là dạng âm cổ phục nguyên (reconstructed form). Người viết sẽ tránh dùng các thuật ngữ Phật Giáo, Ngôn Ngữ Học ... để bạn đọc cảm nhận các nhận xétdữ kiện trong bài dễ dàng hơn. Không nên lẫn lộn số thứ tự cho phụ chú và thanh điệu trong bài. Phần sau chứng tỏ phần nào hiện tượng Bụt-Phật trong tiếng Việt thật ra chỉ là một trường hợp phản ánh khá rõ nét các âm cổ Việt còn tồn tại so với các âm Hán Việt nhập ngược vào có hệ thống hơn từ thời Đường Tống, cũng như trường hợp tên gọi 12 con giáp vậy. Nhìn rộng ra hơn, đạo Phật qua tiếng Phạn và kinh điển đã làm vốn từ tiếng Hán trở nên rất phong phú. Có học giả Trung Quốc, như GS Peter Hu (Đại Học Jiangsu) trong bài viết "Adapting English to Chinese", từng ước tính vốn từ Hán (Cổ) tăng thêm khoảng 35000 chữ mượn(6) từ tiếng Phạn và kinh Phật. Hay xem thêm phần 4.1 bên dưới hoặc chi tiết trên mạng vi.wikipedia hay bài viết về Con giáp Sửu.

1. Giới thiệu tổng quát

Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hoá dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật và :

Gần chùa gọi Bụt bằng anh của Bụt lại thiêu cho Bụt của Bụt trả Bụt (của ’chùa’ hay của không tự làm ra thì không bền, dễ đến dễ đi)
bẻ tay Bụt ngày rằm Bụt trên toà sao gà mổ mắt Bụt (chùa) nhà không thiêng
Bụt chùa nhà không thiêng đi cầu Thích Ca ngoài đường Bụt không thèm ăn mày ma Bụt nhiều oản tí
ngồi như bụt ốc (ngồi như phỗng) chùa nát có Bụt vàng (chùa đất có Phật vàng) lành như Bụt
hiền như Bụt (hiền như đất hiền như phỗng đất hiền như cục bột)
đất Bụt ném chim giời Dù xây chín đợt phù-đồ - Không bằng làm phúc cứu cho một người Đi với Bụt mặc áo cà-sa - Đi với ma mặc áo giấy

...v.v… Hay:

Miệng na mô (nam mô) bụng bồ dao găm (thành ngữ)
Đất vua chùa làng, phong cảnh Bụt (thơ cổ)
Sư rằng cửa Bụt thênh thênh (Nhị Độ Mai)
Chỉ mong cầu khấn Bụt Trời (Nhị Độ Mai)
Chỉn Bụt là lòng (Cư Trần Lạc Đạo)
Vẹn nhơ chẳng bén, Bụt là lòng (Nguyễn Trãi)
Chưa dễ ai là Bụt Thích Ca / Mọi điều nhân nghĩa nhẫn thì qua (Nguyễn Bỉnh Khiêm)

…v.v…

Khác với Bụt chỉ thấy trong tiếng Việt, Phật cũng có mặt trong ca dao tục ngữ trong văn hoá Trung QuốcViệt Nam - nhưng chiều ảnh hưởng rõ ràng là từ Trung Quốc qua VN :

Phật tâm xà khẩu 佛心蛇口 (thường nghe Phật khẩu tâm xà hay khẩu Phật tâm xà ... hơn)(3)

Phật khẩu thánh tâm 佛口聖心 , A Phật mạ tổ 啊佛罵祖 (dám nói dám làm …)

Giản Phật thiêu hương 揀佛燒香 (chọn Phật mà cúng, ra vẻ tốt lành bề ngoài để lợi dụng …)

Phóng hạ đồ đao , lập địa thành Phật 放下屠刀,立地成佛 (bỏ quá khứ xấu để trở thành người tốt/Phật ngay …)

(Lâm thời) bão Phật cước臨時抱佛腳 (có chuyện mới tới cầu Phật - tục ngữ nhập vào Trung Quốc thời Đông Hán. Văn hoá dân gian VN còn truyền tụng "Ngày thường không thắp hương, gặp nạn đến ôm chân Phật" - trích ’Dictionnaire vietnamien chinois francais’ của Gustave Hue (1937)

Tá hoa hiến Phật 借花獻佛 (lấy đồ của người này đem tặng kẻ khác, mượn đầu heo nấu cháo ...)

Phật tính thiện tâm, Phật đầu khán phẩn, Phật đầu trứ phẩn, Phật đầu gia uế (佛性禪心 佛頭着糞 佛頭著糞 佛頭加穢), kiến tính thành Phật 見性成佛 …v.v…

Qua các cách ghi nhận văn hoá dân gian trên, ta rất khó phân biệt mức độ thâm nhập của hai từ Bụt và Phật - vấn đề sẽ rõ hơn khi đi sâu vào cách đọc và nguồn gốc chữ (Hán) của hai từ này.

2. Các cách đọc hiện tại của từ Bụt và Phật

Việt Nam Bụt (dân gian) so với Phật (Hán Việt/HV) -
Mường (Bi) put (Bụt), Phât (Phật) - như ’Liênh chùa mà ngỏ put’ (lên chùa mà xem Bụt)
Gia Rai mơnuih pơsêh (Phật)
Khme pút - kêu trời như ’Phật ơi’’pút thô’ (so với trời ơi, chúa ơi, mẹ ơi ... tiếng Việt)
Kờho Phợk - tượng Phật rùp Phợk
Thái พุทธ póot - tượng Phật พระพุทธรูป prá-póot-tá-tá-rôop
Myanmar (Miến Điện) Buđa
Lào Phuth - phuthô/phuđô (Phù Đồ, Phật Đà)
Nùng Pụt
Chăm / Chàm Bhik, Phik (có tài liệu ghi là But)(4)
Bắc Kinh / BK fú, fó, bó (theo pinyin) so với giọng Ngô (Thượng Hải) là vơi?, giọng Đài Loan là hut8,fut8 (để ý các phụ âm đầu f,b,v) - giọng Quảng Đông là fat6 fat1 bat6, Hẹ là fut8; giọng Triều Châu (Tiều) là hug8, hug4 (huk)
Nhật butsu, futsu, hotsu ふつkanji 仏- Phật còn dùng để chỉ người quá cố (mỹ từ). Tiếng Nhật có khuynh hướng hầu hoá (glottalisation) phụ âm môi đầu như bèi, bò BK bắc HV > hoku/hai - bó BK bạch HV > haku/byaku – bò/ba BK ba Việt ha/ba Nhật … Nên có ba dạng biến âm but- fut- và hot- như trên so với giọng Đài Loan
Hàn pwul (pul), phil 불
Mã Lai / Inđô buda

…v.v…

Một nhận xét sơ khởi khi xem bảng so sánh trên là các giọng phía nam Trung Quốc (Quảng Đông, Hẹ, Hán Việt) đều có dạng f- (hay ph-). Chữ Nôm dùng bột 孛 (sao chổi) chỉ Bụt trong Cư Trần Lạc Đạo, và 佛 Phật HV cho thấy hai phụ âm b- và f- cùng hiện diện, điều này rất đáng chú ý vì hiện tượng này (hai chữ Bụt và Phật) chỉ có trong tiếng Việt.

3. Các cách đọc cổ hơn

Đi ngược dòng thời giandựa vào các tài liệu Trung Quốc như Khang Hy / Tập Vận / Đường Vận, âm Hán trung cổ của Phật 佛 là:

【唐韻】【集韻】【韻會】【正韻】符勿切,音咈 [Đường Vận] [Tập Vận] [Vận Hội] [Chánh Vận] phù vật thiết, âm phất

【集韻】【正韻】蒲沒切,音浡 [Tập Vận] [Chánh Vận] bồ một thiết, âm bột - dùng như bật 同弼 (cũng theo Khang Hy chép lại)

Rõ ràng là có hai cách đọc khác nhau bột và phất/phật thời Đường Tống. Cách đọc phổ thông bây giờ (giọng BK) là fó chứ ít khi là bó (ghi theo bính âm/pinyin).

Đi ngược dòng thời gian xa hơn nữa đến thời Hán, theo Thuyết Văn Giải Tự thì Phật 佛 được Hứa Thận ghi nhận là:

4995 見不審也。从人弗聲 kiến bất thị dã - hàm ý không thấy rõ, như cách dùng phảng phất(5) (仿 佛 hay bàng phất 彷 彿) mà tiếng Việt còn duy trì âm và nghĩa rất cổ như cách dùng ’hình bóng phảng phất đâu đây, tiếng phảng phất bên tai ...’

Nguồn gốc của chữ Phật cho thấy là loại chữ hình thanh, đúng như Hứa Thận đã nhận xét - tuy ông không ghi nhận nghĩa Phật là Phật Đà (Phật Tổ) trong thời Đông Hán.

Có thể xem trong hình 1 dạng Seal Characters (chữ triện) - trích từ mạng của tác giả Richard Sears

Chữ Phật không có mặt trong kim văn và giáp cốt văn : điều này cho thấy phần nào thời gian đạo Phật nhập vào văn hoá Trung Quốc - không thể trước thời Tần; Tóm lại, các dạng viết chữ (Hán) Phật có khả năng là các chữ tạo ra hay lấy từ dạng có sẵn và dùng để ký âm một tiếng ‘nước ngoài’ (ta sẽ thấy trong phần sau : tiếng ngoại quốc này là tiếng Phạn, tiếng Việt Cổ) nhập vào văn hoá cổ Á Đông.

4. Gốc Phạn ngữ của Bụt và Phật

4.1 Theo Nam Sơn Giới bản thì ’Tiếng Phạn Phật Đà, Phù Đồ ... có lẽ do lưu truyền sai. Ở đây không phải chỉ người, dịch nghĩa là giác ...’; Còn theo Tông Luân Luận Thuật Ký thì ’Phật Đà, tiếng Phạn, dịch là giác, tuỳ ý lược bớt chỉ gọi là Phật ...’(6). Phật Đà là một dạng phiên âm từ tiếng Phạn budh- có nghĩa là biết, ý thức được ... Tiếp vị ngữ (hậu tố/suffix) -a thêm vào động từ budh- cho ra dạng buddha बुद्ध nghĩa là đã giác ngộ (past participle, động từ chỉ quá khứ), người đã giác ngộ (dịch là giác giả). Nếu thêm a- vào trước budh- hay là thêm tiền tố (prefix) thì ta có dạng a-budhá अबुध là ngu đần; Các dạng liên hệ khác là bodhi बोधि (phiên âm HV bồ đề 菩 提, tiếng Nhật bodai hay satori ) là biết lẽ chân chính (dịch nghĩa là chính giác 正覺), bauddha बौद्ध giữ trong trí óc (tinh thần) … Cấu trúc tiếng Phạn (đa tiết) đã ảnh hưởng phần nào đến quá trình thành lập chữ Hán như các cụm từ vô minh, vô ngã, vô lượng, vô thường, vô vi, vô đẳng, vô đạo, vô học, vô hình, vô ngôn, vô ái, vô sinh, vô si, vô tận ...v.v... Với vô dùng như tiếp tố a- nói trên.

4.2 Rõ ràng Phật, Phật Đà là các từ nhập từ tiếng Phạn, cho nên Bụt, bật, bột và Phất, Phật chỉ là các dạng biến âm mà âm cổ hơn (gần âm Phạn nhất) là Bụt hay bột, bật. Khuynh hướng biến âm từ b thành ph- đã có nhiều học giả bàn đến : từ thời Henri Maspéro (1912, ông nhận xét hiện tượng tách b-ph ở Hán Việt hoàn toàn ăn khớp với quá trình phân hoá phụ âm môi môi và môi răng của tiếng Hán Trung Cổ), tới thời Vương Lực, cũng như Nguyễn Tài Cẩn(7) và Lê Văn Quán(8). Ngoài liên hệ budh- Bụt Phật, ta còn có những liên hệ tương tự chứng tỏ chiều biến âm b > ph như Phạm (Phạn) 梵 là phiên âm của Brahmá (tiếng Phạn) ब्राह्म ; Phạm/Phạn còn có các dạng phiên âm khác như Phạm ma, Bột lạm ma, Bà la hạ ma, Một la hám ma, Phạm lãm ma ... Phạm/Phạn(9) gắn liền với Phật và Ấn Độ như Phạm họcPhật học, Phạm vũ là chùa (thờ Phật, tu viện), Phạm ngôn (kinh Phật), Phạm thổ (nước Ấn Độ), Phạm Hoàng (vua Ấn Độ, Phật Tổ) ... Điều này dễ hiểu vì kinh Phật thường dùng tiếng Phạn. Trong phần này, tiếng Phạn (Sanskrit, so với tiếng Phạn Nam/Pali) dùng như là một thước đo và để so sánh (control sample) vì là một loại tử ngữ (dead language, rất ít người dùng trừ khi đọc kinh và cũng chỉ ở một vài nơi), quan trọng hơn là tiếng Phạn rất ít thay đổi (ngữ âm và ngữ pháp) và ta có khá nhiều dữ kiện để luôn kiểm chứng được cách đọc và viết. Tuy không ghi nhận phật 佛 là Phật Đà/Phật Tổ nhưng Hứa Thận có nhận ra Phạn là dạng phiên âm của đạo Phật (Thích giáo) trong Thuyết Văn Giải Tự:

3837 林部: 梵:出自西域釋書,未詳意義

3837 Lâm bộ : Phạm/Phạn : xuất tự tây vực thích thư, vị tường ý nghĩa

Âm trung cổ cho thấy Phạn đọc như phàm (buồm) theo Đường Vận : phù phiếm thiết, âm phàm (thật ra kết quả này không làm ta ngạc nhiên vì cấu trúc của chữ Phạm : bộ lâm 林 hợp với chữ phàm 凡 hài thanh).

4.3 Phá/pha la đoạ 頗 羅 墮 hay Phả La Trá là phiên âm của Bharadvaja भारद्वाज : một trong 6 họ Bà La Môn (quí tộc)

4.4 PhumNam Bộ là làng thôn với luỹ tre bao quanh, liên hệ đến phum (tiếng Khme nghĩa là làng). Phumi (phuuM miH) ภูมิ tiếng Thái có nghĩa là địa phương, đất, nền nhà; Tiếng Môn Cổ phùm là đất, lãnh thổ cũng như tiếng Môn hiện đại, tiếng Chao Bon (Nyah Kur) ... Theo thiển ý, các tiếng phum, phumi có gốc tiếng Phạn bhumi भूमि (đất, nền, địa phương, lãnh thổ, nước/quốc gia ...). Bhumi lại có gốc tiếng Phạn là bhu- भु (trở thành, trở nên : to become, to grow into). Trong kinh Phật, bhumi dịch nghĩa thành địa như Thập địa hay Thập trụ (dasabhumi - 10 giai đoạn Bồ tát trở thành Phật), bhudana (người chủ đất chia đất mình cho người nghèo) …

4.5 Liên hệ lịch đại (diachronic) giữa phụ âm môi tắc hữu thanh b- và xát vô thanh ph- rất rõ nét khi so sánh tiếng Việt và Hán Việt:

Buông phóng 放 (phủ vọng thiết, phân phòng thiết - Đường Vận/ĐV)(10)
Buồng phòng 房 (phù phương thiết/ĐV)
Bùa phù
phù
Búa phủ
Bụa (goá) phụ
Bộ pho
Bể phá
Bể (biển)(11) pha 陂
Bán, buôn phán
Buồn phiền
Buồm phàm
Bún Phấn
Bỏ phế
phách
Bố/ba phụ
Bưng phụng
Bay phi
Buộc phọc
phái (phe)
Bèo phiêu
Bởi vị/vì
Bụt Phật

…v.v…

Liên hệ đồng đại (synchronic) b-ph cũng hiện diện nhưng ít gặp hơn như:

Bỏng phỏng
Bứt phứt (phứt lông chim - Việt Nam/VN Tự Điển)
Bổ (cắt) pha (VN Tự Điển)
Bình bịch phình phịch (từ láy, tượng thanh)

...v.v...

4.6 Chữ Phật đã được dùng trong Hậu Hán Thư - Tây Vực Truyện 后汉书 - 西域传 :

… 宣称三世十方,到处有佛 / 西方有神,名曰佛 …

… Tuyên xưng tam thế thập phương , đáo xứ hữu phật / tây phương hữu thần , danh viết Phật …

4.6.1 Cũng như các tài liệu trung cổ bên Trung Quốc như Tây Du Ký ...v.v... Có nhiều tranh luận về nguồn gốc của chữ Phật : có học giả cho rằng chữ Phật đơn âm có thể là do cụm từ (đa âm) Phật Đà đơn âm hoá mà thành - xem thêm nguồn ghi ở điểm 4.1 bên trên; Điều này có cơ sở giải thích khi tiếng Phạn đa âm nhập vào tiếng Hán đơn âm thì hiện tượng rút gọn âm có thể xẩy ra như tăng già 僧伽 (samgha संघ) trở thành tăng để cho ra các từ kép (chữ Phạn hợp với chữ Hán) như bần tăng, tăng phòng, tăng đồ, tăng lữ, tăng vật, tăng chúng, tăng thống ... Cù Đàm 瞿昙 (Go-tama गोतम) còn gọi tắt là Cù như trong cách dùng Cù Lão; Thiền na 禪那 (dhyana ध्यान) gọi tắt là thiền như trong các cách dùng thiền định, thiền môn, thiền kinh, thiền trượng ... Bát là tên gọi tắt của bát đa la 鉢 多 羅 (pâtra पात्र) và dùng trong các từ ghép y bát, ngoã bát, phạn bát, chúc bát ... (bát đã mở rộng nghĩa chỉ cái tô, cái chén ...); Thích là tên gọi tắt của Thích Ca/Già 釋迦 (sâkya शाक्य) và các cách dùng như Thích giáo (đạo Phật), Thích môn, Thích điển, Thích tử (Phật tử, đệ tử của đức Phật); Sám 懺 là tên gọi tắt của sám ma (kshamá क्षम kiên nhẫn) dùng trong cụm từ sám hối 懺悔 (chữ Phạn sám hợp với chữ Hán hối), sám ma 懺摩, sám pháp 懺法, sám nghi ...v.v…

4.6.2 Ngược lại với giả thuyết Phật Đà có trước Phật như trên, một số học giả đề nghị Phật có trước hay cùng thời với Phật Đà vì qua các con đường (nhập vào Trung Quốc) khác nhau. Thí dụ như qua trung gian các ngôn ngữ vùng Trung Á; Đề nghị này khá hấp dẫncon đường tơ lụa (丝绸之路, Ti Trù Chi Lộ/Silk Road) đã tạo cơ hội cho nhiều hoạt động và giao lưu văn hoá, tôn giáo, thương mại thời cổ đại. Nhà Phật Học Quý Tiến Lâm (1996) đã chứng minh rằng trong văn tự Hồi Hột, tiếng Phạn đa âm Buddha đã biến thành trọc âm Bụt, điều này cũng được tác giả Huỳnh Ngọc Chiến(12) ghi nhận rõ ràng trong bài viết "Từ Buddha đến Phật và Bụt". Ngoài ra kết quả nghiên cứu của ’GS Chen’ cho thấy thời Hán từ song tiết Phật Đà không phổ thông so với từ đơn tiết Phật : điều này có thể là chữ Phật được dịch trực tiếp từ kinh Phạn địa phương và nhập trực tiếp vào Trung Quốc. Cũng như đề nghị năm 1913 của GS Sylvain Lévi (13), kinh Phạn địa phương có thể là từ các nước Trung Á, và phù hợp với bài viết đăng trên mạng. Từ đơn tiết Phật, tuy nhập vào tiếng Hán (Cổ) qua ngã khác nhưng giản tiện hơn so với cụm từ Phật Đà, do đó càng ngày càng trở nên phổ thông.

4.6.3 Có thể Phật giáo đã đến Việt Nam trước khi truyền đến Trung Quốc không? Đây là một giả thuyết rất khác biệt với ‘niềm tin’ của đa số người cho rằng Phật giáo truyền từ Trung Quốc đến Việt Nam. Hãy xem lại các dữ kiện :

Bụt (không thấy dùng Bụt Đà) trong văn hoá dân gian luôn chỉ người hiền lành hay Phật (tích cực, phù hợp với nghĩa nguyên thuỷ của buddha, rất khác với Phật của tiếng Hán; Phật đọc như phất với nghĩa tiêu cực như không, trái ý ... ’phật lòng’ hay Bật hay Bột (chợt) : điều này cho thấy người Hán không hiểu nghĩa của Bụt khi nhập vào tiếng Hán và chỉ ‘nhái’ lại theo âm mà thôi. Âm Bụt (chữ Nôm dùng bột 孛) gần với âm Phạn Buddha nhất trong các ngôn ngữ vùng Đông Nam Á, các nền văn hoá này đã từng vay mượn chữ và ý này từ đạo Phật như bảng so sánh bên trên. Các ngôn ngữ láng giềng như Thái, Lào, Khme, Chăm ... vẫn còn dạng đơn âm Bụt/Phut cũng như tiếng Mường (Bi) và Việt. Các cách dùng Bụt, Phật (với hai nghĩa khác nhau như phật lòng, phật ý so với đức Phật) và phù đồ trong văn hoá dân gian là bằng chứng cho thấy dạng cổ Bụt khó có thể đào thải tuy sức ép của tiếng Hán rất là nặng nề qua bao ngàn năm đô hộ và đồng hoá. Nếu Bột 勃 và Bột Đà 勃 陀 được dùng trong vốn từ tiếng Hán(14) (thay vì Phật hay Phật Đà) cho đến ngày nay thì nguồn gốc Bụt hay Phật không khó giải quyết, nhưng chính vì các biến âm của dạng Phật (xem bảng liệt kê cuối bài) mà ta có thể đặt lại vấn đề. Cách dùng Bụt như Bồ Tát (hiền/lành như Bụt) trong tiếng Việt đã duy trì nghĩa nguyên thuỷ của bồ (bodh- âm Phạn, trí tuệ - một dạng của budh- biết/hiểu giác ngộ) trong các dạng phiên âm Bồ Tát 菩薩, bồ đề 菩提. Người Hán dùng bồ chỉ là phiên âm trực tiếp (transliteration) chứ không hiểu là các dạng bồ bột Bụt Phật đều cùng một gốc! Khuynh hướng biến âm rất tự nhiên theo dòng thời gian (lịch đại) làm cho ta rất khó nhận ra nguồn gốc các âm trên : đến ngay cao đệ của Pháp Sư Huyền TrangKhuy Cơ còn nhận xét rằng ’Phạn văn Bột Đà, ngọa lược vân Phật’.

sự có mặt của chữ Bụt dùng bột khá rõ nét trong các tài liệu chữ Nôm xưa như Phú Dạy Con (Mạc Đĩnh Chi 1280-1350), Cư Trần Lạc Đạo (vua Trần Nhân Tông 1258 – 1308), Vịnh Vân Yên Tự (Hoà Thượng Huyền Quang, 1300) ... Cho tới thời tự điển Việt Bồ La (Alexandre de Rhodes, 1651) vẫn còn thông dụng như chữ Phật, nhưng càng ngày càng ít dùng đi và thay bằng chữ Phật. Điều này cho ta cơ sở đặt ra giả thuyết Bụt đã từng được dùng (phổ thông) ở Việt Nam thời đầu công nguyên. Ảnh hưởng sâu đậm về sau từ văn hoá ngôn ngữ Hán (nhất là từ thời Đường Tống phản ánh qua âm trung cổ Phật còn duy trì trong tiếng Việt) làm mờ nhạt tuy không thể nào xoá hẳn (dù vô tình hay cố ý) các vết tích và đóng góp của phương Nam vào văn hoá Cổ Á Đông mà ít người ý thức được.

quan trọng hơn cả là biến âm b > ph như đã ghi nhận bên trên, và do đó có khả năng buddha nhập vào tiếng Việt (Cổ) thành *bud- trước, sau đó nhập vào tiếng Hán thành Bột, Bật và Phất, Phật (âm Hán Trung Cổ). Âm Phật lại nhập ngược vào tiếng Việt có hệ thống từ thời Đường Tống cũng như đa số các tiếng Hán Việt khác : quá trình nhập ngược (back-loan) này tương tự như tên gọi 12 con giáp tuy xẩy ra trễ hơn. Cư sĩ Tâm Hà Lê Công Đa cũng từng viết về khả năng Phật giáo đến Việt Nam trước (chứ không phải từ Trung Quốc qua) - xem chi tiết bài viết trên mạng. Học giả Lê Mạnh Thát cũng đề nghị Phật giáo đã đến Việt Nam khoảng thế kỷ thứ III hay thế kỷ thứ II trước công nguyên - xem thêm tài liệu trên mạng. Tác giả Nguyễn Lang thì cho rằng khoảng đầu công nguyên thì Phật giáo đến Việt Nam (trung tâm Luy Lâu) - xem chi tiết trên mạng. Xem thêm tóm tắt về lịch sử Phật Giáo Việt Nam trên mạng.

Các giả thuyết trên về Phật, Phật Đà và Bụt là những đề tài rất lý thú cần được nghiên cứu cẩn thận và nhiều dữ kiện (xuất thổ)(15) để thêm sức thuyết phục; chúng nằm ngoài phạm vi của bài viết (phần 1) này. Điều cho ta thấy rõ ràng là từ các dữ kiện trên, Bụt là dạng cổ (có trước) hơn Phật (âm Hán trung cổ) tuy cùng một gốc tiếng Phạn, rất phù hợp với quá trình biến âm tự nhiên của ngôn ngữ.

Xem hình 2: Các con đường truyền bá của Phật giáo (trích từ vi.wkipedia)

5. Phụ chú và phê bình thêm

Để dễ cảm nhận các ý từ bài viết nhỏ này hơn, người đọc nên xem các bài viết sau đây, xem phần phụ chú này cho các tài liệu đã trích dẫn:

"Từ Buddha đến Bụt và Phật" tác giả Huỳnh Ngọc Chiến(12).
"Bụt hay Phật" tác giả Phạm Mạnh Lương - Tạp Chí "Thế kỷ 21" số 129 (1/2000).
"Bụt hay Phật" tác giả Nguyễn Trọng Phu - Tạp Chí "Thế kỷ 21" số 123 (7/1999).
"Danh Từ Bụt" - Sư Cô Chơn Không (Lá Thư Làng Mai Số 25 12/2/2002) - đăng trên mạng Thư Viện Phật Giáo Hoa Sen.
"Phật" trên mạng vi.wikipedia
Chử Đồng Tử, một trong Tứ Bất Tử, học đạo với sư Phật Quang, đọc thêm chi tiết trên mạng hàm ý là đạo Phật đã có mặt tại Việt Nam thời vua Hùng.

(1) từ thời đại tiến bộvăn minh hơn, nhiều tài liệu (sách vở, phương tiện truyền thông) về ngôn ngữ trở nên phong phúchính xác hơn ... Nên khả năng phân tách dữ kiện thâu nhận khách quan hơn so với trước đây : Ngôn Ngữ Học thường là một phần của Văn Học, Triết Học ...

(2) trích từ cuốn "An Introduction to Historical Linguistics" tác giả Terry Crowley - University of Papua New Guinea Press (1987). Định luật Grimm giải thích rất nhiều trường hợp tương ứng giữa các ngôn ngữ La Tinh, Hy Lạp, Anh, Pháp ... Nhưng có một số ít trường hợp trong nhánh Germanic phụ âm t lại không tuân theo luật t > θ (vô thanh) mà lại thành ra d (hữu thanh) như:

pater (cha, tiếng La Tinh) fadar (cha, tiếng Gothic) father (cha, tiếng Anh)
cutis (da thú, tiếng La Tinh) hide (tiếng Anh) Haut (tiếng Đức)

...v.v…

Karl Verner (1875) đã bổ túc cho luật Grimm thêm hoàn hảo với nhận xét là các phụ âm vô thanh như p, t, k, s có thể biến thành phụ âm hữu thanh b, d, g, z/r nếu nguyên âm đi trước chúng là trọng âm (stressed vowels). Từ đó ta có thêm định luật Verner (Verner’s law, Second Consonant Shift) về biến âm trong ngữ hệ Ấn Âu. Khả năng thuyết phục của các định luật âm thanh này cao đến nỗi trong ngôn ngữ học còn lưu truyền câu nói ’luật âm thanh không có ngoại lệ’ (sound laws are without exceptions/die Ausnahmslosigkeit der Lautgesetze). Các luật âm thanh Grimm và Verner đều có thể giải thích được dạng budh- Phạn so với bụt và Phật và fó fú bó BK (giọng BK Ngô có khuynh hướng bỏ mất phụ âm cuối) thuộc ngữ hệ Nam Á và Hán Tạng. Học giả Arne Østmoe đã từng nêu ra nhận xét là luật Grimm có thể đã hiện diện trong một số chữ Thái (Cổ, proto Tai-Kadai) mượn từ tiếng Germanic, cũng như qua tiếng Hán (Cổ) - xem bài viết "A germanic-Tai Linguistic Puzzle" của Arne Østmoe trong tập Sino-Platonic Papers, 64 (January 1995).

(3) mức độ phổ thông của thành ngữ này phản ánh qua cách dùng trong tiếng Việt : ngay cả một người không biết chữ (chưa kể đến việc biết chữ Hán, Nôm ...) mà vẫn thấy dùng thành ngữ khẩu Phật tâm xà này rất là ‘chuẩn’

(4) theo "Tự Điển Đồng Nguyên Việt & Đông Nam Á" Nguyễn Hy Vọng (California, 2006)

(5) còn có nghĩa là giống như, tự(a) hồ (as if, be alike) trong tiếng Hán - tiếng Việt không ai nói "cô ấy làm việc phảng phất như không biết mệt". Ngoài ra âm cổ của Phật 佛 thường được ghi nhận trong các tự điển Trung (Hoa) là:

古代音韻與現代拼音對照 Cổ đại âm vận dữ hiện đại bính âm đối chiếu

[ 廣 韻 ] 符弗切,入8物,fú,臻合三入文並

[ Quảng Vận ] phù phất thiết , nhập 8 vật ,fú, trăn hiệp tam nhập văn tịnh

[ 平水韻 ] 入聲四質·入聲五物

[ Bình thủy vận ] nhập thanh tứ chất _ nhập thanh ngũ vật

[ 唐 音 ] bhiət

[ Đường âm ] bhi?t - để ý âm thời Đường có dạng *biêt (so với biết tiếng Việt)

[ 國 語 ] fó,fú

[ Quốc ngữ/BK ] fó,fú

[ 粵 語 ] bat6fat1fat6

[ Việt ngữ ] bat6fat1fat6

[ 閩南語 ] hut8,put8

[ Mân Nam ngữ ] hut8,put8

(trích từ http://tool.httpcn.com/Html/KangXi/...)

Hình 3: Các cách viết cổ (dị thể) của chữ Phật - trích từ tự điển dị thể trên mạng

…v.v…

Chữ Phật 佛 này là phổ thông nhất trong các cách viết với tần số dùng là 108885 trên 434717750 (so với chữ nhất 一 rất thông dụng với tần số dùng là 6336632 trên 434717750).

(6) trích "Từ Điển Phật Học Hán Việt" NXB Khoa Học Xã Hội - Hà Nội (1998). Chỉ có một cụm từ bud-dha बुद्ध của tiếng Phạn mà ta có các dạng phiên âm và phiên nghĩa liên hệ như liệt kê dưới đây (xem thêm chi tiết từ các trang mạng http://www.acmuller.net/soothill/so... hay http://zh.wikipedia.org/wiki/%E4%BD%9B )

Bộ Đa 部多 Bộ Đà 部陀 Bột Đà 勃 陀/勃 馱/馞 陀 Bộ Tha 步 他 Hưu Đồ 休 屠 Mẫu Đà 母 陀 Một Đà 沒 馱/没陀 Phật Đà 佛陀/佛 馱 Mẫu đà 母陀 Phật 佛 Yêu 仸 Phật Đồ 佛圖 Phí Đà 沸 馱 Phù Đà 浮 陀 Phù Đầu 浮 頭 Phù Đồ 浮 屠/浮 圖 Phù Tháp 浮 塔 Phục Đậu 復豆 Vật Tha 物 他 Vô Đà 毋陀 Giác giả 覺 者 Giác ngộ giả 覺悟者 …v.v…

Đấy là không kể các từ phiên âm từ tiếng Phạn khác như Già Phạm (Bà Già Phạm, một trong các danh hiệu của đức Phật) ... Hay các dạng dịch nghĩa như Giác Hoàng, Giác Vương, Nhân Vương, Ngưu Vương, Tri Giả, Giác, Trí ... Hay những tên gọi khác của Phật như Như Lai, Đại Giác ...v.v...

Các dạng phiên âm trên đều tuân theo định luật vật lý (âm thanh) nhất định như b/ph-v-m (phụ âm đầu) chứ không phải là ngẫu nhiên thành hình! Bảng tóm tắt trên giải thích được phần nào hiện tượng vốn từ Hán tăng vọt khi tiếng Phạn (qua kinh Phật, đạo Phật) nhập vào văn hoá Trung Quốc. Ngoài ra các cách phiên âm tiếng Phạn buddha như trên còn phản ánh các cách đọc địa phương (yếu tố không gian/địa lý) và sự thay đổi về cách đọc qua những thời đại (yếu tố thời gian).

Chữ già 伽 cũng dùng để chỉ Phật đặc biệt trong tiếng Nhật - có thể đây là trường hợp mở rộng nghĩa của các dạng phiên âm tiếng Phạn như tăng già, già lam, na già ... Còn một chữ nữa để chỉ Phật là yêu 仸 (jiu2 giọng Quảng Đông, yao3 giọng Bắc Kinh bây giờ - 於兆切,音夭 ư triệu thiết, âm yêu - theo Quảng Vận, Tập Vận - trích Khang Hy - yêu còn cách đọc nữa là fó BK hay PHẬT) : đây cũng là một trong nhiều dị thể của chữ Phật như 仏 (xem bảng các chữ dị thể của chữ Phật ở trên). Yêu mang nghĩa tiêu cực như yếu đuối, méo mó, cong vẹo ...v.v... Có thể yêu/Phật 仸 là dạng phiên âm Bụt của Mân Việt (gồm các giọng Triều Châu/Tiều hay một phần ở Quảng Đông, một phần Hải Nam, Đài Loan); Giọng Mân Việt có khuynh hướng hầu hoá (âm b/p thành h) nên Bụt trở thành hut8 - hay đọc như húc 旭 hiok8 (Triều Châu). Theo Ngọc Thiên 玉篇 thì 仸 : 乙 小 切, 旭 也 ất tiểu thiết, húc dã ... Cách dùng chữ húc cũng có cơ sở giải thích dựa vào phạm trù nghĩa của húc : ánh sáng mặt trời khi mới ló dạng (chỉ đức Phật hay đấng giác ngộ, hết vô minh ...). Các dạng đọc phương Nam như Bụt Bột Hut8 ... đều bị đào thải để thay bằng âm Phật (fó BK). Chữ yêu 仸 (Phật) có mặt trong Phật Thuyết Đại Báo Ân Trọng Kinh, Phan Trần truyện, Thiên Nam Ngữ Lục ... cho đến thời Nguyễn Khuyến, Hồ Xuân Hương. Theo ý kiến bạn Nguyên.Ng trên diễn đàn Viện Việt Học (10/8/2009) thì yêu 仸 có thể là một dạng phiên âm của Gautama hay Kiều Đáp Ma 喬答摩 giản thể 乔答摩. Để ý kiều 嬌 có nghĩa là mềm mại (so với ẻo lả, yêu/yểu 仸). Nguồn gốc chữ này và tại sao lại hiện diện rất sớm trong giai đoạn hình thành chữ Nôm rất đáng chú ý và cần được nghiên cứu thêm để soi sáng quá trình cấu tạo chữ Nôm cũng như đóng góp của phương Nam vào vốn từ Hán (Cổ).

(7) GS Nguyễn Tài Cẩn ghi nhận biến âm b > ph trong cuốn "Một số vấn đề chữ Nôm" trang 99, 104 ... NXB Đại Học và Trung Học Chuyên Nghiệp (Hà Nội - 1986); Trong cuốn "Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt" trang 137, 178 ... NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội (bản in 2004).

(8) GS Lê Văn Quán ghi nhận biến âm b > ph, và còn khẳng định buồm là âm cổ của phàm 帆 mà ta không biết (tưởng đọc theo nghĩa)... trong cuốn "Nghiên cứu về chữ Nôm" trang 110 ... NXB Khoa Học Xã Hội (Hà Nội 1981).

(9) phạm (phạn) 梵 nghĩa nguyên thuỷ là cây cỏ sinh tươi (phồn thịnh). Từ thời đạo Phật nhập vào Trung Quốc thì nghĩa này bị đào thải và đổi thành tên nước Ấn Độ, Phật giáo, thanh tịnh, tụng (niệm Phật) ... Tương tự như trường hợp chữ Phật, nghĩa nguyên thuỷ đã mất đi sau khi được dùng làm ký âm tiếng Phạn. Bồ 菩 nghĩa nguyên thuỷ là một loài cỏ (Thuyết Văn Giải Tự), được dùng để phiên âm trong kinh Phật; Thí dụ như Bồ tát 菩薩 là tên viết tắt của Bồ-đề-tát-đóa 菩薩薩埵 (phiên âm tiếng Phạn bodhisattva बोधिसत्त्व). Phật 佛 nghĩa nguyên thuỷ là giúp, phụ (như bật 弼, trích “Từ Nguyên”, Bắc Kinh, NXB Thương Vụ Ấn Thư Quán, 2004), nhưng từ khi Phật giáo nhập vào Trung Quốc thì chữ này được dùng để ký âm Phật (Đà) và nghĩa cổ hơn từ từ đào thải đồng thời với sự bành trướng của đạo Phật.

(10) Thời Đông Hán, hai âm phóng và phòng đọc giống nhau (giống âm phương) - như Hứa Thận đã ghi nhận trong Thuyết Văn Giải Tự:

Phòng 室在旁也從戶方聲 Thất tại bàng dã tòng hộ phương thanh

Phóng 逐也從攴方聲 Trục dã tòng phốc/phác phương thanh

(11) Bể (biển) là một trường hợp cho thấy âm trung cổ vẫn còn duy trì phụ âm môi tắc b/p nhưng khi nhập vào tiếng Việt thì theo khuynh hướng trở thành ph- . Bể là âm cổ hơn so với pha HV 陂 (theo HV Tự Điển của Nguyễn Văn Khôn, Thiều Chửu ghi thêm các dạng bi, bí). Âm trung cổ của pha là [Đường Vận ] bỉ vi thiết [ Tập Vận ] [ Vận Hội ] ban mi thiết [ Chánh Vận ] bô my thiết; Các giọng BK, Ngô, Hẹ, Quảng Đông ... vẫn duy trì phụ âm đầu b/p; Chỉ có âm HV là pha và âm (Hán) Hàn là phi, âm (Hán) Nhật là ha, hi (hầu hoá). Pha còn cho ra dạng phá và trở thành bất tử qua ca dao:

Thương em anh cũng muốn vô / Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang

Bình 平 (píng BK) có các cách đọc trung cổ:

[ Đường Vận ] phù binh thiết [ Tập Vận ] [ Vận Hội ] bồ binh thiết [ Chánh Vận ] bồ minh thiết : âm bình ... [ Vận Hội ] bì mệnh thiết , âm bệnh (音病). Các giọng BK, Ngô, Hẹ, Quảng Đông ... vẫn duy trì phụ âm đầu p; Các biến âm của bình là bằng, phẳng (b>ph) cũng như âm (Hán) Hàn phyeng, âm (Hán) Nhật đã hầu hoá thành hei, hyou (nhưng đôi lúc vẫn còn dùng dạng ben) - tiếng Thái vẫn duy trì phụ âm đầu môi tắc hữu thanh b qua dạng baen แบน . Tác giả Axel Schuessler trong "ABC Etymological Dictionary of Old Chinese" (2007) phục nguyên âm thượng cổ của bình là *breng so với một dạng cổ khác là *bieng:

[ 上古音 ]:耕部并母, bieng

(http://tool.httpcn.com/Html/KangXi/...)

Cách dùng từ ghép bằng phẳng, buồn phiền, bè phái ... đáng chú ý vì thứ tự chữ (chính trước phụ sau) cũng là cánh cửa hé mở cho thấy phụ âm b- hiện diện trước phụ âm ph- (không nghe ai nói phẳng bằng, phái bè hay phiền buồn cả).

Các dữ kiện này cũng chứng tỏ tương quan b-ph và chiều biến âm từ phụ âm b- thành ra phụ âm ph-.

(12) Bài viết "Từ Buddha đến Bụt và Phật" của tác giả Huỳnh Ngọc Chiến đăng trên mạng talawas (25/7/2008) ghi lại nguồn tài liệu "Phật giáo học thuật luận văn tập" tác giả Quý Tiến Lâm, NXB Đông Sơ xuất bản xã, Đài Bắc (1996). Hồi Hột là tên gọi một nước (616-840) ở phía bắc Trung Quốc, giúp nhà Đường dẹp loạn An Lộc Sơn ... Hồi Hột 回紇 chỉ là một tên gọi (chủng tộc Urghur) trong nhiều tên gọi khác như Hồi Cốt, Ô Hộ, Ô Hột, Vị Hột, Dụ Cố, Đinh Linh, Thiết (Sắt) Lặc, Viên Hột, Uý Ngột Nhi Đẳng, Đuy Ngô Nhĩ ...v.v... Các học giả TQ thường có ’khuynh hướng’ khảo sát nguồn gốc tên Phật, 12 con giáp ... từ phương tây (thạch động Đôn Hoàng) hay phương bắc (Hồi Hột) vì nhiều lý do !

(13) Bài viết bằng tiếng Anh chứng minh từ đơn tiết Phật và song tiết Phật Đà nhập vào Trung Quốc qua các ngã khác nhau, dựa vào tài liệu lịch sử và kinh Phật; Chủ đề bài viết là "On the oldest Chinese transliterations of the name Buddha".

(14) Bột 勃 đọc là bó, bèi (giọng BK), but6 (giọng Quảng Đông), put8 (Hẹ, Đài Loan), pud8 [ khách ngữ bính âm tự vị ] ... So với âm (Hán) Hàn pal, âm (Hán) Nhật bitsu, hotsu. Bột nghĩa là chợt, thốt nhiên, đột nhiên, bừng lên ... ’Bất thình lình’, ’bất chợt’ - theo thiển ý bất là một dạng biến âm của bột; Không phải ngẫu nhiênhốt 忽 (âm vật) cũng có nghĩa là bất chợt. Bồng bột nghĩa nguyên thuỷ là bừng lên (lên ùn ùn, bừng lên rực rỡ xanh tươi) nhưng tiếng Việt hiện tại lại mang nghĩa hơi khác (làm việc không suy nghĩ cẩn thận).

(15) như tháp tưởng niệm hai vị sư Sona và Uttara (vua A Dục/Asoka अशोक gởi đi hoằng pháp, thế kỷ thứ III trước công nguyên) ở Hải Phòng; Bia Võ Cảnh viết bằng chữ Phạn ở Nha Trang (thế kỷ thứ II); Các di tích tìm thấy ở Óc Eo, Sa Huỳnh ... đều cho ta kết luận rằng lãnh thổ Việt Nam đã từng là khu vực nhộn nhịp giao thương với Ấn Độ vào thời Hán.

Nguyễn Cung Thông


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14781)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
(Xem: 14758)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17790)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15471)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38468)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26567)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39502)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50610)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38590)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 34872)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18184)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16338)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42226)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39058)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35423)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17386)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46363)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17045)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28393)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 18903)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17490)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17019)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17449)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16430)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16774)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30670)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16853)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18391)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18335)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17286)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18033)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 16984)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23314)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 16874)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17367)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17538)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 16953)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15639)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 17929)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17291)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17102)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 29362)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27560)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18080)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16033)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15277)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 22897)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14714)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
(Xem: 54953)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 14061)
Phật giáo là “chân lý thực tại”, mà cốt lõi chính là đạo đứcgiới luật làm nền tảng. Khi Phật còn tại thế, ngài chế giới là để ngăn ngừa sự bại hoại của tăng đoàn.
(Xem: 13174)
Chân Như vừa huân tậphai mặt ‘bên trong’ và ‘bên ngoài’. ‘Bên trong’ là huân tập trong tâm hành giả. ‘Bên ngoài’ là huân tập từ bên ngoài, tức là từ chư Phật, Bồ-tát...
(Xem: 14065)
Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thứcchuyển hóa tâm linh...
(Xem: 15406)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13092)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19239)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24432)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15635)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37667)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13378)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13014)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant