Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 6: Quy Y

24 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 11142)
Chương 6: Quy Y


QUY Y

Tín đồ Phật giáo là một người bị thôi thúc bởi động cơ lo sợ phải chịu đau khổ trong vòng luân hồi sanh tử và trong sự chuyển sinh vào cảnh giới thấp hơn mà quay về quy y với Tam bảo: Phật, Pháp (giáo pháp) và Tăng (đoàn thể những người tu hành). Người Phật tử,xuyên qua kinh nghiệm tu hành, biết rằng Tam Bảonăng lực hỗ trợ họ khỏi bị đọa lạc xuống cảnh giới thấp.Vị sư Po-to-Wa[1] vào thế kỷ thứ mười một có lần nói rằng khi ngài viếng thăm một tu viện: dù trong số những vị tu sĩ cao niên đang ngồi cầu nguyện trong ấy, vẫn có vài vị chưa hẳn đã là những Phật tử. Rất nhiều người trong họ thiếu sự hiểu biết thích đáng về Tam Bảo.Vì quy ytăng cường nguyện vọng thành tựu Niết Bàn.

“Phật” là một bậc hoàn toàn thoát ly mọi phiền nãolỗi lầm,là đặc chất của tất cả mọi phẩm hạnh cao quí,là một bậc đã đạt được trí tuệ viên mãn siêu việt để có thể loại trừ được mọi vô minh tăm tối. “Pháp” là kết quả của sự giác ngộ của ngài.Sau khi chứng ngộ, Đức Phật giảng dạy,và điều mà ngài giảng dạy, được gọi là Phật pháp. “Tăng” được hình thành từ đoàn thể những người tu hành theo giáo pháp truyền thừa bởi Đức Phật.Trên đây là định nghĩa căn bản của Tam Bảo.Phạm vi sinh hoạt của Đức Phậtthuyết phápkhai hiển chánh đạo giác ngộ.Hoạt động hay chức năng của giáo phápdiệt trừ đau khổnguyên nhân gây khổ: phiền não.Chức năng của đoàn thể Tăng giàhoan hỷ đảm trách sứ mệnh hoằng pháptu hành theo giáo pháp.Bạn nên quy ngưỡng tôn kính Phật. Đối với pháp bạn cần có thái độ khát vọng cầu thỉnh để nỗ lực tạo được phần nào kinh nghiệm cho chính nội tâm mình;và bạn nên quy ngưỡng tăng đoàn như các thiện hữu cao quý dìu dắt mình trên quá trình của chánh đạo. “Phật” là vị đại đạo sư chỉ bảy cho ta hướng đến con đường giác ngộ. “Pháp” là thật sự quay về nương tựa vào nơi mà ta có thể tìm thấy được sự bao che,bảo hộ tránh khỏi mọi khổ đau ách nạn,và “Tăng” thì bao gồm những thiện tri thức trong suốt mỗi giai đoạn của con đường tu tập đạo chân chính giác ngộ.

Một trong những lợi ích khi quy y là có thể thanh tịnh được mọi tội,mọi nghiệp tạo tác từ quá khứ.Bởi vì quy y sẽ buộc ta phải tuân theo những điều hướng dẫn của Đức Phật để tiến bước trên con đường của những hành vi lương thiện. Đa số những hành vi xấu ác mà bạn đã lỡ phạm trong quá khứ đều có thể được giải trừ hoặc giảm khinh;còn công đức tích lũy thì được gia tăng.Quy y với Tam Bảo,chẳng những ta được sự hỗ trợ để tránh đi những tổn hại trong hiện đời mà còn tránh được cảnh đọa lạc thống khổ trong cảnh giới thấp hơn và có thể nhanh chóng đạt thành Phật quả. Không bao giờ được từ bỏ Tam Bảo dù phải trả giá bằng chính thân mạng của ta. Ở Tây Tạng đã xảy ra nhiều trường hợp Trung Cộng đã tìm cách cưỡng bách người dân từ bỏ tín ngưỡng.Nhiều người đã bày tỏ thà chịu hy sinh tính mạng chứ không thể bỏ được niềm tin tôn giáo Đây mới đích thực là sự phát tâm quy y chân chánh.

Ngài Tsong-Kha-Pa nói: nếu sự sợ hãi[2] và lòng xác tin[3] của bạn chỉ là lời nói không thôi thì quy y cũng chỉ là ngôn ngữ suông.Nhưng nếu sự lo sợ và niềm tin vững chắc vào Tam Bảo của bạn dựa trên nền tảng và dựa vào gốc rễ sâu dầy rằng Tam Bảo có khả năng bảo hộ bạn tránh khỏi niềm lo sợ như vậy thì sự quay về nương tựa của bạn cũng sẽ có năng lực rất cao.

Chính bản thân những đối tượng mà ta quy y cũng phải đạt được cảnh giới hoàn toàn không còn sợ hãi và khổ lụy nữa.Nếu chính những đối tượng ấy còn chưa đạt được đến cảnh giới như vậy thì họ không thể nào có đủ năng lực hỗ trợ chúng ta; giống như người đang ngã quỵ không thể giúp bạn đứng lên được.Vì thế,những đối tượng mà ta trông chờ được bảo vệ cần phải thoát khỏi mọi khổ đau sợ hãi:nếu không thì họ cũng chẳng có khả năng cho dù bị có tâm nguyện muốn bảo hộ chúng ta. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật không những đã tự thoát ly mọi khổ đau sợ sệt mà Ngài còn có năng lực thiện xảo vô thượng có thể hướng dẫn mọi loài chúng sanh tiến bước trên con đường chân chính để được khai ngộ.Ta có thể thấu hiểu điều này dựa trên những giáo pháp khác nhau mà Đức Phật đã tùy ứng giảng dạy theo căn cơ sở thích và khuynh hướng của mọi loài chúng sanh.Ngài đã lưu lại nhiều giáo pháp có thể đáp ứng cho chúng ta với bất cứ trình độ tri thức nào.Khi đã liễu ngộ được tầm mức quan trọng của sự việc như vậy,ta cũng sẽ tùy hỷ tán thán mọi tôn giáo trên thế giới,bởi vì mục tiêu tối thượng của những giáo điều của họ cũng chỉ là giúp đỡ tha nhân. Ngài Tsong-Kha-Pa nói: Nếu bạn tưởng nghĩ đến những đặc chất vĩ đại đã cụ thể hóa đối với ba đối tượng ấy thì không thể nào bạn không được hỗ trợ che chở. Điều ta cần có là cảm giác sợ hãi cùng cực đối với những thống khổ của cảnh giới thấp và vững tin rằng Tam Bảonăng lực bảo vệ chúng ta khỏi khổ.Ta phát khởi lòng tin kiên định này xuyên qua sự quán chiếu các phẩm hạnh cao thượng của Phật, Pháp và Tăng.

Lòng từ bi của chư Phật thì không có thiên vị. Ngài chẳng hề phân biệt trong số những hữu tình chúng sanh ai đã giúp hoặc ai đã không giúp Ngài.Ngài nỗ lực hành hoạt “cho” và “vì” sự an vui phúc lợi của chúng sanh một cách vô tư không thiên vị.Những công hạnh như vậy chỉ có Chư Phật mới được toàn bích.Vì thế nơi nương tựa quy y chính là Đức Phật và nhiều hình thức hóa thân xuất phát[4] của ngài cùng với những giáo pháp đã được truyền dạy,cũng như tất cả đoàn thể những người đã học theo và dấn thân tu hành theo ngài đều chính là nơi nương tựa để quy y.

Kim ngôn của Chư Phật trùm khắp đến nỗi nếu ngài được hỏi một hoặc nhiều điều khác nhau cùng một lúc,kinh sách nói rằng ngài có khả năng thấu triệt nội dung tinh yếu của vấn đề và có thể dùng một câu giải đáp duy nhất mà kết quả nội dung trả lời có thể tương ứng nhất trí với từng trình độ lý giải của người hỏi.

Trí huệ Phật có thể thấu triệt được mọi hiện tượng theo định ước,truyền thống tập tục một cách tuyệt đối giống như xem mọi sự vật trong lòng bàn tay của ngài.Do đó, mọi đối tượng tri thức đều có thể liễu tri và nằm gọn trong tuệ giác siêu việt của Đức Phật.

Tâm Phật bao tùm tất cả,là Nhất Thiết Trí.Tâm trí Phật không có một biệt lệ nào trong việc thấu triệt vạn hữu sum la (mọi hiện tượng thế giới) vì ngài đã đạt đến được cảnh giới hoàn toàn thoát ly mọi chướng ngại của tri thức.Các chướng ngại của tri thức là những dấu ấn hoặc những khuynh hướng thiên lệch còn sót lại trong nội tâm bởi phiền não từ vô thỉ đến nay: đó là sự vô minh đối với bản tánh thực tại,sự tham đắm chấp trước,và lòng sân hận.Khi rũ bỏ hết những nét in ấn trên đây,ta sẽ đạt đến cảnh giới Nhất Thiết Trí bởi vì ta không còn vướng mắc bởi bất cứ chướng ngại tri nhận nào.Khi nội tâm đã đạt đến Nhất Thiết Trí,tâm linh ta sẽ liễu tri được vạn hữu vũ trụ một cách vô chướng ngại.

Khi chứng kiến niềm đau nỗi khổ của mọi loài chúng sanh,tâm Phật tự nhiên cảm kích và bừng lên một lòng bi mẫn bất tận.Khởi đầu của Bồ Đề đạo,Chư Phật phát khởi tâm từ bi rộng lớn đối với tất cả chúng sanh,và đã khai triển tâm từ bi ấy đến cứu cánh tuyệt đích xuyên suốt quá trình tu hành.Từ Bi Tâm,một trạng thái tâm linh có phẩm cao đạo hạnh dựa trên bản tánh hằng sáng của nội tâm,có khả năng tăng trưởng một cách vô tận.

Chư Phật luôn dùng thân,ngữ và ý trong việc mưu cầu lợi ích cho chúng sanh.Các ngài đáp ứng nguyện vọng và dẫn đạo chúng sanh trên từng giai đoạn tu hành bằng phương tiện thiện xảo thích ứng với tùy loại như cầu,sở thích,căn cơ khác nhau.Ngài Tsong-Kha-Pa nói rằng nếu bạn có niềm tin vững chắc nơi “Phật” thì nhờ sự nhớ tưởng đến các phẩm hạnh khác của ngài và lòng nhân từ vô lượng của ngài mà niềm tin đối với “Pháp” là lời khai thị và “Tăng” là đoàn thể những người tu hành sẽ tự nhiên phát sinh.Như thế, toàn bộ luật nghi,quy phạm trong kinh điển Phật giáo sẽ như là lời khuyên bảo cho mỗi cá nhân.Vì thế khi phát khởi lòng tin tưởng kiên định nơi Phật thì bạn cũng sẽ phát khởi niềm tin sâu xa đối với những giáo pháp của ngài.

Bạn không nên chỉ trích phê bình tượng đắp hoặc hình Phật bất kể các tôn tượng đó được làm bằng chất liệu gì hay hình trạng thế nào.Bạn hãy kính trọng tôn tượng như kính trọng Chư Phật.Khi đã quy y Phật rồi,bạn không nên quan tâm đến hình tướng mà chỉ nên kính trọng các tôn tượng bất kể tôn tượng ấy được làm thành bằng chất liệu gì.Bạn tuyệt đối không dùng tượng Phật để buôn bán hoặc để thế chấp vay mượn.

Có lần ngài Atisha được một trong các vị đệ tử của ngài yêu cầu Ngài bình phẩm về tôn tượng của đức Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi,vị Bồ Tát đại biểu cho đại trí và nói rằng nếu ngài Atsha nghĩ rằng pho tượng này đẹp thì ông sẽ mua ngay.Ngài Atisha bảo rằng: Không nên bình phẩm về thân tướng Bồ Tát Văn Thù nhưng pho tượng này chỉ đạt được mức độ trung bình nếu xét về khía cạnh nghệ thuật điêu khắc.Và rồi Ngài Atisha bảo rằng khía cạnh thủ công điêu khắc hoàn toàn ở mức trung bình,dường như Ngài ngụ ý là pho tượng trông không được đẹp lắm.Do đó,những người nghệ sĩ điêu khắc cần nên hết sức cẩn tắc.Những điêu khắc gia mang trọng trách rất lớn kho tô vẽ hoặc điêu khắc nhằm làm thế nào để các Phật tượng được tướng hảo trang nghiêm.Nếu không thì sẽ rất nguy hiểm bởi vì có nhiều người đã tự tích tập nghiệp chứng bất thiện,chỉ vì không thể nhịn cười được trước những hình tượng kỳ dị không cân xứng.

Phương pháp hướng dẫn ta đạt đến cảnh giới Nhất Thiết TríĐạo Đế. Đạo ĐếDiệt Đế đã tạo thành một sự quy y chân chính-Phật Pháp.Phật Pháp là điều mà ta không thể hấp thụ,thấm nhuần ngay tức khắc được mà cần phải được chứng nghiệm xuyên qua một tiến trình dài lâu.Trong tiến trình quy y tu tập,bạn phải hết sức khéo léo để hành thiện đồng thời cần tránh xa các hành vi xấu xa tiêu cực. Đó gọi là thực hành theo giáo pháp Phật.Nếu khiếp sợ những nỗi thống khổ ở các cảnh giới hạ đẳng thì bạn nên chuyển hóangăn ngừa tâm thức mình đừng để sa vào các hành vi bất thiện thường khiến bạn bị đọa lạc. Điều này tùy thuộc rất nhiều vào sự tu hành của bạn có nghiêm cẩn không?Hoặc bạn có quyết chí tích tập công đức và tránh xa những hành vi tổn đức không?Và điều này cũng còn tùy thuộc vào điều, đó là bạn có tin tưởng sâu xa vào luật nghiêp báo hay không?

Có hai loại kinh nghiệm khác nhau; ưa thích và không ưa thích; và loại nào cũng có căn nguyên riêng của nó.Sự đau khổ,một loại kinh nghiệm không ưa thích, được gọi là vòng tuần hoàn luân hồi (samara),có căn nguyên xuất phát từ các phiền nãoác nghiệp, đã ép buộc chúng ta phải tạo nghiệp.Hình thức mong cầu một sự hân lạc,một niềm hạnh phúc chân thật; đó là một loại kinh nghiệm ưa thích,và cũng chính là cứu cánh Niết Bàn và tất cả đều là thành quả của sự tu hành Phật pháp.Còn căn nguyên của đau khổđọa lạc xuống cảnh giới thấp kém hơn là mười ác nghiệp (tường thuật ở chương thứ 7).Sự giàu có phong lưu và thác sanh vào cảnh giới tốt đẹp đúng như sự mong muốn là do trì giới thanh tịnh hoặc do tu hành theo mười thiện hành. Để tránh bị thọ sanh và thọ khổ ở cảnh giới thấp kém hơn,bạn phải diệt trừ tận gốc nguyên nhân đau khổ ấy bằng cách chuyển đổi thân ngữ, ý hướng về hành vi lương thiện đạo đức.Trình độ cả quyết nghiêm mật tu hành của bạn tùy thuộc rất nhiều nơi niềm tin sâu xa vào luật nhân quả; vả chăng bạn có hoàn toàn tin tưởng rằng những khổ họa không như ýhậu quả của các hành vi tiêu cực; và tin rằng các thành quả như ý, chẳng hạn như: hạnh phúc,hỷ lạc,giàu sang đều là quả báo của các hành vi tích cực chánh chân.Vì thế, điều tối trọng yếu trước tiên,là hãy phát triển niềm tin kiên định rằng pháp tắc nghiệp báo không thể sai lầm được.

Quy y Phật pháp,như một lời phát nguyện để khẳng định;người Phật tử cần tỏ bày sự ngưỡng trọng đối với các kinh sách Phật giáo.Bạn không nên bước ngang qua dù là một trang kinh,và Pháp bổn thì cần phải được cất giữ nơi sạch sẽ.Bạn không nên có thái độ chiếm hữu,buôn bán hay cầm thế kinh sách để vay mượn.Không nên mang kính đeo mắt và bút viết đặt trên kinh điển.Khi lật trang kinh,bạn không nên liếm tay.Tương truyền,mỗi khi có người mang Pháp bổn đi ngang qua thì ngài Geshe Chen-nga-wa[5] thường đứng lên;sau này vì tuồi tác lớn,ngài không làm sao đứng lên cung tống được thì ngài thường lặng yên chắp tay tỏ ý tôn kính.Khi ngài Atisha còn ở tây bộ Tây Tạng,có một vị hành giả Mật Tông chưa từng thỉnh pháp với ngài.Một hôm,ngài Atisha chứng kiến một tăng nhân Tây Tạng khác đã dùng thức ăn trong răng mình để làm dấu trang sách kinh đang đọc.Ngài Atisha bảo vị kia không nên làm như vậy.Kết quả là vị hành giả Mật Tông quá cảm kích trước sự quyết tâm quy yphụng hành giới luật học xứ của ngài Atisha,nên tương truyền rằng vị hành giả Mật Tông sau này đã trở thành đệ tử của ngài Atisha.Chúng ta cũng nên tin Tăng Bảo, đoàn thể của các bậc tu hành.Khi nói đến tăng già,chủ yếu là ta đề cập đến những bậc tôn kính trong đại chúng vì nhờ cần mẫn chuyên tu mà đã liễu ngộ được Phật pháp ngay chính từ trong nội tâm và đã thấu triệt được bản tính của mọi thực tại.Tăng Bảo chân chính là những người thường xuyên thực hành Phật pháp; những người duy trì thích đánggiới thể; những người rất xuất sắc trong việc trì giới; những người luôn chân thành chánh trực,tâm tư thì thuần tịnh và ngập tràn từ bi.

Quy y tăng rồi,bạn tuyệt đối không nên thóa mạ bất cứ vị tăng hay ni nào đang theo đuổi đời sống xuất gia.Hãy tôn kính họ và không nên phân biệt phái hệ hoặc tranh đua cao thấp ngay chính trong tăng đoàn với nhau. Ở những nơi như Thái Lan,Tăng Bảo rất được quý kính.Vì được mọi người kính trọng, nên các tăng sĩ không nên cư xử kém thanh nhã khiến người tại gia bị mất niềm tin.Thông thường,tôi không nghĩ phải cần có một đoàn thể tăng sĩ đông đảo to lớn như ở Tây Tạng trước kia mới tốt.Dù chỉ là một đoàn thể nhỏ gồm những vị tăng thuần chánh thanh tịnh cũng còn tốt đẹp hơn.Trở thành tu sĩ hay không chỉ là một vấn đề lựa chọn cá nhân;nhưng sau khi lựa chọn con đường xuất gia làm một vị tăng hay ni rồi, điều đương nhiên là tốt hơn không nên làm ô danh đạo.Nếu không,không những chỉ bất tịnh cho chính bạn mà còn đồng thời khiến người khác thối thất tín tâmtích lũy ác nghiệp một cách vô ích.Tương truyền ngài Drom-ton-pa không hề bước ngang dù chỉ là một mảnh vải đỏ hoặc vải vàng bởi nó tượng trưng cho y bào tăng ni.

Ngài Tsong-Kha-pa dạy rằng: Bắt đầu thọ tam quy là bước vào ngưỡng cửa của Phật giáo.Nếu sự quy y của chúng ta thực sự được cảm nhận một cách sâu đậm chứ không phải chỉ là những ngôn từ suông thì chúng ta sẽ không còn cảm thấy bị thương tổn trước những hãm hại ác độc của loài người và điều này sẽ trợ duyên cho việc tu hành của chúng ta được trở nên dễ dàng. Đã hiểu rõ được những ích lợi này rồi, ta hãy cố gắng nung nấu nỗi lo sợ bị khổ và hãy dõng mãnh phát khởi tín tâm kiên định vào khả năng phò trợ của Tam Bảo trong việc giúp tu thoát khổ.Ta hãy cố gắng để sự hành trì tu tập trong ý nghĩa quy y càng kiên cường càng tốt và tuyệt nhiên không nên vi phạm giới luật đã tiếp thọ.Vì thế,với sự tỉnh thức trước cái chết và niềm lo sợ các cảnh giới thấp kém hơn,ta sẽ khám phá rằng Tam Bảonăng lực che chở ta,rằng Tam Bảo là cội nguồn chân chính để ta quy y nương tựa.

Phật là vị đạo sư chỉ dạy cách quy y chân chánh và Tăng già giống như là những người bạn đồng hành hướng dẫn con đường tiến đến giác ngộ.Thọ giới quy y chính thật ra là quy y với Giáo pháp bởi vì nhờ sự liễu tường giáo pháp mà ta trở nên tự tại giải thoát khỏi mọi khổ đau.Phật pháp gồm có Diệt ĐếĐạo Đế.Sự vắng mặt của phiền não hoặc ly trừ được phiền não gọi là Diệt Đế (Chỉ Diệt).Nếu ta không áo dụng một phương thuốc thích đáng để sửa đổi lỗi lầmđối trị phiền não thì chúng sẽ tiếp tục sanh khởi.Nhưng,một khi phiền não đã được khai trừ tận gốc rễ với phương thuốc giải khổ thì nó sẽ không bao giờ phát khởi trở lại nữa. Cảnh giới như thế,nghĩa là thoát vòng phiền não hay diệt trừ sự ô nhiễm trong tâm linh, được gọi là một loại Chỉ Diệt.Một cách đơn giản,những gì ta muốn buông bỏ,chẳng hạn như khổ và căn nguyên của khổ, đều có thể vận dụng sức đối nghịch để giải trừ buông bỏ chúng được.Sự Chỉ Diệt cuối cùng còn được xem nhưNiết Bàn, đó là một cảnh giới hoàn toàn tự do giải thoát.

Chư Phật,những bậc toàn nhiên chứng ngộ thì bất khả tư nghì ( không thể nghĩ bàn); Phật Pháp,những lời dạy của Chư Phật,là bất khả tư nghì,và Tăng cũng bất khả tư nghì.Vì thế, nếu bạn phát khởi lòng kính tín bất khả tư nghì ,thì kết quả cũng sẽ bất khả tư nghì.

Trong kinh dạy rằng: Nếu có thể thực hành để có thể trông thấy được những ích lợi của sự phát tâm quy y Tam Bảo thì toàn thể vũ trụ cũng quá nhỏ để gồm thâu các sự ích lợi ấy,ví như đại hải không thể đo lường bằng bàn tay của bạn.Dùng chánh niệm để quán chiếu những lợi ích thù thắng này, bạn hãy hoan hỷ với những cơ hội được cúng dường và cơ hội quy y Tam Bảo.Và bạn có thể làm giảm nhẹ những ảnh hưởng của các hành vi bất thiệnnghiệp chướng.Tất cả những hành vi bất thiệnnghiệp chướng kể trên sẽ được hoàn toàn tiêu trừ và bạn sẽ được xem như là một chúng sanh cao siêu toàn bích,một “hoàn nhân” hay một “vô thượng nhân” làm đẹp lòng Tam Bảo.

 



 
[1] Po-To-Wa:Bác Đa Va

[2] Dịch chứ: sợ hãi luân hồi đau khổ

[3] Dịch chú:niềm tin vững chắc vào Tam Bảo

[4] Chú thích của dịch giả: đó là Phật pháp,xá lợi,kinh tượng v.v

[5] Geshe Chen-nga-wa:Cách Tây Gian Nga Wa

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15515)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13205)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19357)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24614)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15740)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37822)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13476)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13092)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17178)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13203)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17386)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21635)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13216)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14392)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12812)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13653)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28617)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23396)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34377)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28879)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32184)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11328)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12003)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26286)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17372)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14524)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34476)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13111)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12278)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13411)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40510)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26929)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14455)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13253)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13454)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12535)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13147)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12313)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11790)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12572)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17659)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12204)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12752)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18434)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14290)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12994)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11322)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12150)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13466)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10835)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11073)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10285)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28884)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25269)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26849)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25754)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18669)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 23025)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34537)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32167)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant