Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 8: Giải Quyết Mâu Thuẫn

26 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 11242)
Chương 8: Giải Quyết Mâu Thuẫn



LỜI DẠY CỦA ĐỨC PHẬT
Về Sự Thành Tựu Trong Gia Đình, Nơi Công Sở, Ngoài Xã Hội

Tỳ Kheo Tiến Sĩ Basnagoda Rahula
Chuyển Ngữ sang tiếng Việt: Diệu Liên Lý Thu Linh & Diệu Ngộ Mỹ Thanh 2010

Chương 8

Giải Quyết Mâu Thuẫn

 Khi giao tiếp với tha nhân, chúng ta đặt mình vào năm hoàn cảnh như sau: Tôi sẽ nói đúng thời; tôi sẽ trình bày dữ kiện; tôi sẽ nói lời tử tế; tôi sẽ nói vì lợi ích của người nghe; tôi sẽ nói với lòng bi mẫn.[1]

Xá-lợi-phất - Tăng Chi Bộ Kinh

 Giải quyết mâu thuẫn cá nhân đối với Đức Phật cũng quan trọng như thiết lập những mối quan hệ tốt đẹp. Vì tăng đoàn vừa mới được thành lập của Ngài bao gồm nam và nữ đệ tử thuộc nhiều thành phần xã hội khác nhau, nên những sự khác biệt rõ rệt về cá tính có mặt trong cộng đồng đó và mâu thuẫn cá nhân không thể tránh khỏi lộ diện.

 Với cái nhìn xa rộng, Đức Phật đã dành sự hỗ trợ quý báu trong việc giải quyếtngăn ngừa những mâu thuẫn cá nhân đó. Dầu lời dạy của Đức Phật nhắm vào các đệ tử xuất gia, chúng cũng có thể được áp dụng cho cư sĩ tại gia. Chương này bàn về các phương cách giải quyết mâu thuẫn của Đức Phật, mà cho đến ngày nay, vẫn còn rất hữu hiệu.

NĂM BƯỚC ĐẾN SỰ GIAO TIẾP THÀNH CÔNG

 Một phương cách vô cùng hiệu quả trong việc giải quyết mâu thuẫn cá nhân đã được Đức Phật đề xuất và ngài Xá Lợi Phất (Sariputta), vị đại đệ tử của Phật, giải thích ở đây.[2]

 Theo phương cách này, có năm khả năng giao tiếp đem lại bao hiệu quả tích cực. Theo ngài Xá-lợi-phất cảnh báo, không tuân theo những nguyên tắc này sẽ đem lại bao hậu quả tiêu cực và là nguyên nhân đưa đến hối tiếc –và người nói, chắc chắn, sẽ gặp phải sự chống đối từ người nghe. Giờ chúng ta hãy phân tích kỹ năm khả năng giao tiếp mà Đức Phật và ngài Xá-lợi-phất coi như thiết yếu để giải quyết xung đột trong đời sống hằng ngày.

 1: NÓI ĐÚNG THỜI ĐIỂM

 Thời điểm (timing) đóng vai trò quan trọng trong việc giao tiếp của Đức Phật. Tự xác nhận mình là “người luôn nói đúng thời”, Ngài nhấn mạnh rằng sự thành công hay thất bại của bất cứ nỗ lực giao tiếp nào đa phần cũng tùy thuộc vào thời điểm.[3] Thí dụ, không ai có thể “quay lại bánh xe Pháp của Đức Phật” (phá rối công việc hoằng Pháp), vì “Đức Phật biết nói đúng thời điểm”.[4] Việc Ngài Xá-lợi-phất bàn rộng thêm về thời điểm đã lặp lại ý nghĩa này: thời điểm rất quan trọng trong việc giải quyết mâu thuẫn cá nhân.

 Theo chứng cứ đã được ghi lại, Đức Phật là người đầu tiên nhấn mạnh đến thời điểm như là một yếu tố quan trọng khi phát biểu. Đó là vào thế kỷ thứ sáu trước Tây lịch. Protagoras, nhà tư tưởng Hy Lạp thời tiền Socrate, đã nhắc đến khái niệm này lần đầu tiên trong lịch sữ Tây phương ở thế kỷ thứ tư trước Tây lịch. Tiếp theo sau ông, Isocrates cũng nói thời điểm (hay kairos trong tiếng Hy Lạp) là điều kiện quan trọng nhất trong hùng biện –ít nhất là nửa thể kỷ sau khi truyền thống Phật giáo đã biết đến lợi ích của sự thực hành này.

 Ý nghĩa của Đức Phật về việc “truyền thông đúng thời điểm” rất bao quát. Điều quan tâm đầu tiên phải kể đến là trạng thái tinh thần thư giãn của người nghe. Câu chuyện của Đức Phật với Gotami, người vừa mất đứa con trai duy nhất của mình, cho ta thấy sự quan trọng của yếu tố này.[5] Gotami đã mang đứa con trai bé bỏng của mình đến nhiều vị lương y hy vọng rằng họ có thể cứu con bà, nhưng tất cả đều trả lời rằng, đứa bé đã chết và họ không thể làm gì để giúp nó sống lạiTuyệt vọng và khổ đau, cuối cùng bà tìm đến với Đức Phật, người được coi là “vị thầy tài giỏi nhất trong các vị thầy”, để van xin Ngài cứu con bà. Biết được nỗi bấn loạn trong tâm của Gotami, Đức Phật quyết định không nói sự thật với bà ngay, mà bảo bà hãy đem về cho Ngài một bụm tay những hạt mù-tạt lấy từ những gia đình chưa từng có người chết. Vì Đức Phật biết là bà Gotami sẽ khổ đau, phản kháng nếu biết sự thật, nên Ngài đã đợi đến đúng thời điểm sẽ cho bà biết về sự thật đau lòng là cái chết không thể tránh khỏi, nó không chừa một ai, và không thể thay đổi được khi nó đã xảy ra, bằng cách đó Đức Phật đã giúp làm giảm nỗi khổ đau của bà và giúp bà đạt được trí tuệ.

 Các nhà tâm lý học đã chứng minh rằng những người đang trong trạng thái khổ đau khó thể lắng nghe. Một học sinh mang phiếu kết quả học kỳ không được tốt về nhà sẽ rất ương ngạnh khi phải nghe cha mẹ cậu rầy la, bảo lần sau phải cố gắng tốt hơn. Người chồng hay vợ vừa trở về nhà sau một cuộc đối đầu với thủ trưởng ở sở làm sẽ cảm thấy sự cằn nhằn của người phối ngẫu không thể chịu đựng nỗi. Trao đổi với người nghe khi họ ở trong trạng thái vui vẻ có thể mang đến kết quả tốt hơn.

 Sức khỏe của người nghe cũng là một yếu tố cần quan tâm đến trong thời điểm giao tiếp. Đức Phật đã bảo các đệ tử cung cấp thực phẩm cho vị khách, dầu đang đói cũng muốn được tiếp kiến Ngài, [6]Đức Phật biết rằng trao đổi với người đang đói sẽ không đem lại hiệu quả. Và trước khi nói Pháp cho một đệ tử xuất gia, Đức Phật trước hết đã chăm sóc vết thương ngoài da đau đớn cho người ấy.[7] Rõ ràng là để tinh thần được sảng khoái thì phải có điều kiện sức khỏe tốt; vì thế “đúng thời điểm” cũng ám chỉ thời điểm khi thể chất của người nghe không có vấn đề gì.

 Mục đích của việc nói đúng thời là để đem lại hạnh phúcích lợi cho cả người nói lẫn người nghe. Chờ đúng thời điểm để giao tiếp, để truyền thông, không có nghĩa là chờ đợi cơ hội tốt nhất để áp đảo người nghe. Sự có mặt của động cơ ích kỷ hay lợi dụng chắc chắn là sẽ đối nghịch lại với lời dạy của Đức Phật. Ngài luôn nhấn mạnh rằng người nói phải được thúc đẩy bằng tình thương yêu và lòng bi mẫn, chứ không nên vì lợi dụng thời cơ.

 Chọn thời điểm thích hợp nhất để nói là một khả năng giao tiếp hữu hiệu nhất để giải quyết hay làm giảm thiểu những mâu thuẫn cá nhân.

 2: SỬ DỤNG DỮ KIỆN

 Đức Phật cũng dạy thêm rằng sự kiềm chế không kết tội sai lầm cũng là một bước khác để cải tiến sự giao tiếp và giảm thiểu xung đột cá nhân. Ngài Xá-lợi-phất khuyên người nói cần ghi nhớ trong tâm là: “Tôi sẽ nói về những gì đã xảy ra, không phải về những gì chưa xảy ra”.[8] Khả năng này bao gồm kiềm chế không phóng đại, tô vẽ thêm lỗi lầm, chỉ trích yếu điểm của người nghe, hoặc bất cứ hình thức kết tội sai trái nào.

 Về mặt tâm lý, chúng ta có thể phóng đại lỗi lầm hay yếu kém của người nghe để gây chú ý hoặc để trút cơn giận của mình. Thí dụ, trong nỗ lực làm rõ việc chăm sóc con cho đúng cách, người vợ có thể nói với chồng, “Bé bị cảm vì anh không đắp chăn cho nó kỹ”. Người chồng có thể trả treo để trút nỗi tức giận, “Em chỉ nói được những điều ngu ngốc nhất”. Trong trường hợp này, điều thực sự xảy ra là đứa trẻ bị cảm; còn lý do được nêu ra chỉ là giả định. Thứ đến, câu nói của người chồng quá khái quát, anh ta kết luận chỉ dựa trên cảm xúc. Cả hai câu nói đều được khuếch đại. Cả hai người đều không nói đúng như “những gì đã xảy ra”.

 Trong cuộc sống hằng ngày, sự phóng đại được thể hiện dưới nhiều hình thức. Một người mẹ thấy con gái làm rớt dĩa có thể la lên, “Con chẳng bao giờ cầm được cái gì trong tay”. Người vợ xem phiếu khám sức khỏe hằng năm của chồng có thể nói: “Anh không tập thể dục, bởi vậy cholesterol mới lên cao”. Những câu nói này đều đã được khuếch trương, phóng đại, hoặc kết luận theo cái nhìn của người nói.

 Người ta thường nói theo cách này, vì điều đó dường như làm người nói cảm thấy dễ chịu –dầu đối với người nghe, dĩ nhiên là không như thế! Có lẽ là người ta có thể trút được căng thẳng trong lòng bằng cách tấn công bằng lời nói thẳng vào người đã gây ra căng thẳng cho mình. Tuy nhiên, việc đó có đem lại kết quả tốt đẹp nào không hay chỉ làm tăng thêm sự ngang bướng nơi người nghe. Người nghe sẽ coi những lời nói đó là sự kết tội oan hay một sự sỉ nhục. Cách phản ứng như thế khó thể đóng góp gì vào việc thiết lập một mối quan hệ lành mạnh nào giữa người nói và người nghe.

 Đức Phật khuyên ta chỉ nên trình bày dữ kiện mà không kèm theo ý kiến riêng của mình. Như thế chúng ta sẽ ở trong vị thế tốt hơn để giải quyết xung đột một cách êm thắm. Dầu người ta khó chối cãi dữ kiện, họ thường phản ứng với các giả định như một cách để chống lại khi giải quyết xung đột. Điều gì xảy ra đã xảy ra. Do đó, vì sự ích lợi của các mối liên hệ, thì phương cách tốt nhất là có biện pháp ngăn ngừa xung đột xảy ra lần nữa.

 Tuy nhiên, Phương cách này không có nghĩa là chỉ vì điều gì đó là sự thật, là dữ kiện, mà ta phải luôn nói đến nó với người liên quanĐức Phật dạy rằng, “Dầu điều gì đó có đúng sự thật, tôi cũng không nói sự thật khi nó không thích hợp đối với người nghe”.[9] Một số sự thật không dùng được cho mục đích gì, vì thế nói về chúng cũng vô ích. Tuy nhiên, để giúp người nghe thay đổi thái độ cho tốt hơn, chúng ta cần tập trung trên dữ kiện, chứ không phải trên các giả định.

 3: DÙNG LỜI NHẸ NHÀNG

 Theo ngài Xá-lợi-phất, dùng lời nhẹ nhàng là một yếu tố quan trọng khác trong nghệ thuật giao tiếp để giải quyết xung đột cá nhân. Ngài Xá-lợi-phất cho rằng người nói cần phảiquyết tâm trong việc sử dụng ngôn ngữ: “Tôi phải dùng lời nói dịu dàng, chứ không phải lời cộc cằn, thô lỗ”. Kiềm chế không dùng lời nói thô lỗ, thật ra, là một trong tám giới luật dành cho người Phật tử. Sự nhấn mạnh này làm nổi bật vai trò thiết yếu của lời nói trong các mối liên hệ hằng ngày của chúng ta.

 “Dùng lời nhẹ nhàng”, như được trình bày trong giáo lý của Đức Phật, cũng chuyển tải một ý nghĩa rộng lớn. Nó bao gồm tất cả những gì liên hệ đến ngôn ngữ, như là từ ngữ chính xác, câu văn, giọng nói, cách nói, và dấu nhấn. Các cụm từ được lặp đi lặp lại pharusavaca pativirato (tránh sử dụng những từ thô lỗ) và piya vaca (những từ dễ nghe) gợi đến chính sự mềm mại của từ ngữ sử dụng. Câu piyam vada (nói một cách nhẹ nhàng) và snehena vakkami na parusena (nói một cách lịch sự, không nói một cách cộc cằn) gợi đến một giọng nói và cách nói êm ái.

 Theo Đức Phật, khi chúng ta dùng lời cộc cằn để giải quyết xung đột, thì ảo tưởngsân hận ngự trị tâm ta. Việc nghĩ rằng sự thô bạo sẽ khiến người nghe dễ hiểuxuất phát từ ảo tưởngSự thậtlời nói thô lỗ không thể tránh làm cho người nghe trở nên kình chống lại ta. Nhiều người nghĩ rằng nếu họ có thể làm cho người nghe phải im tiếng bằng những lời thô bạo, là họ đã thành công trong việc thuyết phục người nghe phải chấp nhận ý kiến của họ. Một đứa trẻ trở nên lầm lì, không nói sau khi bị cha mẹ rầy la có thể minh họa cho ý nghĩ sai lầm này. Vì sự thật là sự im lặng của đứa trẻ thể hiện sự chống đối mãnh liệt và sự thất bại của cha mẹ trong việc thuyết phục nó. Việc sử dụng lời lẽ thô lỗ có thể làm cho ta hả dạ vô cùng trong phút chốc, nhưng nó chẳng bao giờ có thể giúp ta giải quyết xung đột.

 Tâm lý học hiện đại giải thích rằng sự giận dữ, một yếu tố mạnh mẽ khác đằng sau lời nói thô lỗ, là cách ta phản ứng đối với những hoàn cảnh có vẻ đe dọaSử dụng những lời giận dữ là một cách để trấn áp mối đe dọa, chứ không phải để giải quyết mâu thuẫnLời nói, giọng nói hay cách nói một cách giận dữ gợi lên sự tấn công. Ấn tượng rằng người kia đang tấn công mình bằng lời nóicảm giác tệ hại nhất mà người nói có thể truyền thông cho người nghe. Phần đông không thể chịu đựng bị tấn công, họ phải tự bảo vệ và tấn công trở lại. Sự thô bạo do giận dữ tạo ra ít khi có thể giải quyết được mâu thuẫn cá nhân.

 Một số người có thể nghĩ rằng dùng lời lẽ nhẹ nhàng chứng tỏ mình yếu đuối, khiến người nghe có thể lấn lướt mình. Có sự hiểu lầm này là vì sự mềm dẻo, nhẹ nhàng được đánh giá một cách sai lầm là nhút nhát, thiếu uy quyềnTuy nhiên, việc sử dụng lời lẽ dịu dàng không có nghĩa như thế. Đức Phật luôn sử dụng lời nói nhẹ nhàng, nhưng Ngài cũng thấy việc nhấn mạnh lời nóicần thiết. Sự tuôn tràn những lời hung bạo là một cực đoan; sự thiếu quyết liệt trong lời nói là một cực đoan khác. Đức Phật dạy rằng chúng ta cần tránh cả hai cực đoan này nhưng vẫn sử dụng những lời lẽ nhấn mạnh để giải quyết xung đột cá nhân một cách hữu hiệu.

 Trong kinh Pháp Cú (Dhammapada), Đức Phật nhắc nhở rằng chúng ta nên tránh buông lời khi nóng giận mà cần nói lời kiềm chế.[10] Những việc làm như thế tạo một môi trường cởi mở để giải quyết xung đột luôn xảy ra trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.

 4: TẬP TRUNG TRÊN NHỮNG YẾU TỐ TÍCH CỰC CỦA GIẢI PHÁP

 Ngài Xá-lợi-phất giải thích rộng hơn rằng người nói cần tập trung trên khía cạnh tích cực của giải pháp đã được đề ra. Sự tập trung này có thể mang lại kết quả mỹ mãn trong việc giải quyết xung đột giữa hai người có mối quan hệ thân thiết. Theo lời ngài Xá-lợi-phất dạy, người nói cần ghi nhớ trong tâm rằng, “Tôi nói vì lợi ích của người nghe”. Thái độ này của người nói làm nổi bật hai điểm. Thứ nhất, người nói cần phải có sự hiểu biết rõ ràng về những hậu quả tích cực của giải pháp. Thứ đến, người nói cần giải thích cơ bản những ảnh hưởng tích cực của giải pháp với người nghe.

 Phương cách giải quyết xung đột mà chỉ có sự chỉ trích chứ không có phương án giúp đỡ người nghe sẽ không thể giải quyết mâu thuẫn giữa hai người. Nhiều người có khuynh hướng tìm lỗi của người khác chỉ để chê bai, chỉ tríchĐức Phật đã nhận định về thói quen tai hại, “Nếu có người luôn chỉ trích bằng hữu của mình, thì hành động đó không thể hiện một tình bạn chân thật”[11] Khi người nghe đoán được động cơ của người nói, người nghe lập tức có khuynh hướng chống báng ý kiến của người nói. Ngược lại, với một phương án ích lợi có sẵn trong tay, người nói có thể khiến người nghe chăm chú hơn.

 Sự rõ ràng của người nói về những hiệu quả tích cực của giải pháp sẽ thuyết phục người nghe chấp nhận giải pháp được đề ra hơn. Người nói cần giải thích cho người nghe tại sao vấn đề trước mặt cần phải được giải quyết, và giải pháp này sẽ đem lại lợi ích cho người nghe như thế nào. Nhiều người nghe có khuynh hướng hiểu sai sự chỉ trích xây dựng khi người nói không trình bày rõ ràng mục tiêu của họ. Sự hiểu lầm phát sinh vì người nói không chỉ ra những hiệu quả tích cực của giải pháp của họ.

 5: NÓI VỚI LÒNG BI MẪN CHÂN THẬT

 Cuối cùng, thái độ bi mẫn cần có mặt xuyên suốt quá trình trao đổi, giao tiếp. Người có ý hướng muốn giải quyết mâu thuẫn cá nhân một cách tốt đẹp cần có những đề nghị, giải pháp, ý kiến, xuất phát từ lòng từ bi. Người nói cần lập quyết tâm: “Tôi sẽ nói với tâm từ bi, chứ không phải tâm sân hận”.[12]

 Bốn điều kiện vừa nêu trên đây gồm –thời điểm, nêu dữ kiện, dùng lời nói nhẹ nhàng, và tập trung trên lợi ích của người nghe- tất cả đều thuộc phương pháp sử dụng lời nói, là cái ở bên ngoài. Nhưng hành động từ bi thuộc cảm tính của con người, ở bên trong, và dĩ nhiên là chủ yếu.

 Theo các kỷ thuật hùng biện hiện đại, các chuyên gia có khuynh hướng tập trung chủ yếu trên sự chuyển đối các hành động ở bên ngoài. Họ khuyên chúng ta nên tỏ ra chuyên nghiệp, hay tuân thủ theo một số phương cách để làm lay động người nghe. Thí dụ, họ khuyên chúng ta lắng nghe và nói những câu như, “Rất tiếc được biết tin” khi ai đó chia sẻ một kinh nghiệm cá nhân buồn. Đức Phật đã đi một bước xa hơn. Ngài muốn chúng ta cũng phải thực sự cảm nhận điều mình nói.

 Các phương pháp dùng lời nói ở bên ngoài để thuyết phục người nghe tuy cần thiết nhưng có lẽ là chưa đủ để chuyển đổi hành vi của một cá nhân. Điều nguy hiểm nằm trong khả năng là người nghe có thể cảm nhận được sự thiếu chân thật nơi người nói. Thông điệp qua ngôn từ “Tôi thương mếnquan tâm về bạn, đó là lý do tại sao tôi mong bạn sửa đổi”, chứa đựng nhiều quyền lực để gây ảnh hưởng đối với người khác –nhưng chính thực tại vô ngôn mới mang nhiều ý nghĩa hơn.

 Đôi khi chúng ta cần tự hỏi mình về mục đích thực sự của ta khi góp ý với với người khác về những hành động chưa hoàn hảo của họ. Chúng ta thực sự có ý muốn giúp đỡ họ hay có ý đồ gì khác? Thí dụ, tại sao người chồng hay vợ luôn nhắc nhở người bạn đời của mình về những lỗi lầm họ đã phạm trong quá khứ? Tại sao chúng ta không ngừng muốn “sửa đổi” ai đó? Những điều này chúng ta cần phải quán chiếu kỹ càng. Một hành động chỉ có ý nghĩa và có kết quả khi nó được xuất phát từ lòng từ bi thực sự.

NHỮNG ĐIỀU NGOẠI LỆ ĐỐI VỚI CÁC NGUYÊN TẮC TRÊN

 Cần nhớ là truyền thống Phật giáo đề xuất năm bước này không phải như là một liều thuốc chữa tất cả mọi mâu thuẫn cá nhân, mà như là những phương cách để có thể trao đổi, truyền đạt với nhau tốt hơnChúng ta có thể sử dụng chúng để giải quyết phần lớn mâu thuẫn một cách hữu hiệu, nhưng lúc nào cũng có những ngoại lệ. Khi ngài Xá-lợi-phất xác định lại với Đức Phật về sự hữu hiệu của quy trình năm bước này, Đức Phật đã nêu lên điều quan trọng sau đây:

 Này Xá-lợi-phất, dầu ông có tuân theo những phương pháp truyền đạt này, vẫn có người không đồng ý với những lời đề nghị của ông.[13]

 Câu nói trên phản ảnh trí tuệ thâm sâu của Đức Phật rằng phương pháp năm bước này không thể giải quyết hết tất cả mọi xung đột cá nhân, do đó, Đức Phật yêu cầu ngài Xá-lợi-phất giải thích tại sao có người lại quá ương ngạng, và chúng ta phải đối xử với họ như thế nào.

 Đáp lại, ngài Xá-lợi-phất công nhận rằng có một số người nghe luôn phản kháng dầu người nói có những phương pháp truyền đạt thiện xảo đến đâu; và ngài Xá-lợi-phất cho rằng cá tính đã thành hình lâu ngày của người nghe là nguyên nhân chính của sự chống đối đó. Đức Phật đã khen ngợi ngài Xá-lợi-phất và khuyến khích ngài xúc tiến những phương cách đã được đề ra vì lợi ích của những người thực sự muốn lắng nghe. Nhận định cuối cùng của Đức Phật trong bản kinh này cho ta thấy rằng những phương cách giao tiếp do ngài Xá-lợi-phất trình bày sẽ hỗ trợ phần đông chúng ta, nếu không phải là tất cả, trong việc giải quyết các xung đột một cách êm đẹp.

HƯỚNG DẪN THÊM CHO SỰ GIAO TIẾP TỐT ĐẸP

 Trên đây chúng ta đã tập trung trình bày sự giải thích của ngài Xá-lợi-phất dựa trên những lời dạy của Đức Phật để cải thiện khả năng giao tiếp, truyền đạt, và để giải quyết những xung đột cá nhân một cách tốt đẹp. Riêng Đức Phật cũng ban thêm cho ta những lời khuyên hữu ích trong lãnh vực này. 

1.  Kiềm chế không tranh cãi về những đề tài nhạy cảm

 Để giảm thiểu xung đột trong một mối liên hệ, Đức Phật đã khuyên chúng ta nên kiềm chế không tranh cãi về những đề tài nhạy cảm. Những đề tài đó bao gồm các khái niệm dựa trên suy đoán, các quan điểmniềm tin mà không có sự hỗ trợ của bằng chứng khoa học. Đức Phật nói rõ ràng rằng việc tranh cãi về những đề tài đó chỉ đem lại sự đối đầu hơn là đồng thuận. 

 Cuộc trao đổi giữa Đức Phật với Kassapa, một người tu khổ hạnh thuộc hệ thống tư tưởng khác biệt, là một minh chứng cho quan điểm này của Đức Phật. Ngài vẫn duy trì sự giao tiếp thân mật với các vị thầy thuộc các tôn giáo khác, thường xuyên thăm viếng họ và chuyện trò thân mật với họ. Trong cuộc trao đổi với Kassapa, Đức Phật đề nghị rằng chỉ nên nói về những đề tài mà họ có những quan điểm tương đồng, và tránh nói đến những đề tài không thể đồng thuận.[14] Mục đích của phương pháp này là để giử mối liên hệ lành mạnh giữa người nói và người nghe.

 Khi người khác đưa ra những đề tài nhạy cảm, đôi khi Đức Phật giữ im lặng thay vì tranh cãi với họ. Sự im lặng, theo Ngài, có thể tốt hơnhậu quả tiêu cực có thể xảy ra khi nói. Và đôi khi Đức Phật không ngần ngại đồng ý với những quan điểm khác biệt. Ngài coi trọng mối quan hệ hơn là tham gia vào một cuộc tranh luận trên những đề tài thường gây tranh cãi hoặc siêu hình.

 Sự khẳng định này không có nghĩa là Đức Phật hoàn toàn kiềm chế việc tranh luận, mà Ngài cũng không bắt các đệ tử của mình không được tranh luận bao giờ. Trong nhiều trường hợp, Đức Phật đã tranh luận một cách đầy thuyết phục chống lại một số vấn đề xã hội, như là sự kỳ thị. Thí dụ, chúng ta có thể tìm thấy một số tranh luận hùng hồn nhất của Đức Phật trong Trường Bộ Kinh I. Phần lớn là những lời kêu gọi đầy lý lẽ hùng hồn để chống lại với những quan điểm xã hội bất công và tai hại. Về những quan điểmniềm tin cá nhân nhạy cảm, Đức Phật cho rằng tranh luậnvô ích và làm xấu đi các mối quan hệ.

 Hiện tại, một số niềm tinnghi thức tôn giáo, chính trị, xã hội được xếp vào loại này. Nếu vợ chồng thuộc hai tôn giáo khác nhau bắt đầu tranh cãi về niềm tin tôn giáo, thì mối liên hệ của họ chắc chắn sẽ bị sứt mẻ. Tương tự, hai người bạn dè bĩu các hoạt động xã hội của nhau sẽ dọn đường cho một mối liên hệ căng thẳng, rã tan.

 Vì lợi ích của mối quan hệ, Đức Phật khuyên chúng ta kiềm chế không tranh luận về những chủ đề đó. Ngài dạy rằng dầu sự tranh luận có lý lẽ có thể cần thiết khi một quan điểm hoặc một hành động có thể gây ra hậu quả tai hại, nhưng phần đông các niềm tin tôn giáonghi thức xã hội đều lợi ích. Trong trường hợp này, thay vì tranh luận hơn thua, chúng ta nên bày tỏ lòng tôn trọng chúng.

2.  Chấp nhận rằng có một số hành vi không thể sửa đổi

 Để duy trì một mối liên hệ lành mạnh, chúng ta có thể phải chấp nhận một số chuẩn mực hành động mà ta không ưa thích của những người thân cận. Đức Phật đã xác định rằng phần đông chúng ta đều có những yếu điểm bên trong. Ngài nói, “Khó tìm được một người không có bệnh trong tâm”.[15] Một số những khiếm khuyết này gồm, “không nhìn ra, không chấp nhận hay muốn sửa đổi hành vi của họ”.[16] Với những người có bản tính như vậy thì nỗ lực của chúng ta để sửa đổi họ chỉ mang lại sự thất vọng, nản lòng. Đức Phật bảo rằng một số người sẽ tự nhiên phản ứng trong giận dữ, thù hằngây hấn đối với một đề nghị đầy thiện chí về hành vi của họ”.[17] Trong trường hợp như thế, cách tốt nhất là thông cảmchấp nhận rằng một số hành vi của những người thân cận của ta là không thể sửa đổi, dầu theo lý tưởng thì mỗi cá nhân trong bất cứ mối liên hệ nào cũng cần sửa đổi hành vi của mình, thay vì ép buộc người khác phải chấp nhận nó. Một số người có thể có hành vi không thích hợp, nhưng nó không đe dọa mối quan hệ giao tiếp. Khi đó việc chấp nhận hành vi ấy dường như thực tế hơn là cố sửa đổi nó. 

 Đức Phật nhận định rằng sự biết tự sửa mình là đặc tính của một người trưởng thành. Việc sửa đổi đó cũng làm giảm thiểu những xung đột không dễ chịu trong một mối liên hệChúng ta có thể thấy khó sửa đổi người khác theo ý mình muốn, nhưng chúng ta có thể sửa đổi ý nghĩ, và hành động của mình để phù hợp với hành vi của người. Chúng ta có thể chủ tâm nỗ lực để kiên nhẫn, và chịu đựng khi đối mặt với hành động nào đó khó chấp nhận –nhưng không nguy hiểm- của những người thân cận.

 Một người chồng ít nói, trong khi vợ anh ta lúc nào cũng sẵn sàng để phát biểu, là thí dụ của những dạng hành vi đòi hỏi sự chịu đựngchấp nhận. Người vợ có thể muốn chồng phải lắng nghe và phản hồi ý kiến, trong khi người chồng muốn vợ mình ít nói hơn. Tuy nhiên, nếu cả hai đối tượng đều hiểu bản tính của nhau, thì họ có thể chấp nhận hành vi của người phối ngẫu, thay vì cố gắng để sửa đổi nó. Không ngừng than phiền về sự vô tâm hay sự tự biểu hiện của người khác chỉ làm cho mối liên hệ của họ thêm căng thẳngTrái lại, kiên nhẫn, chịu đựng, và dần dần chấp nhận, sẽ giúp làm giảm thiểu những xung đột.

3. Tạo cơ hội cho người sửa đổi

 Tha thứtin cậy nơi khả năng của con người là hai đặc trưng quan trọng nhất trong giáo lý của Đức PhậtChúng ta tạo ra lầm lỗi. Đôi khi đó là những lỗi lầm nghiêm trọng có thể ảnh hưởng nặng nề đến mối quan hệ của chúng taĐức Phật khuyên đệ tử Ngài tha thứ cho những lỗi lầm đó và cho người làm lỗi một cơ hội để sửa đổiPhương cách đó sẽ giúp tạo dựng nên một mối liên hệ bền chặt hơn.

 Lời khuyên này không có nghĩa là chúng ta phải quên hết mọi hành động sai trái nghiêm trọng của người phối ngẫu, của bạn bè hay của những người thân cận. Thay vào đó, nó chỉ có nghĩa là không vì lỗi lầm trong quá khứ của một người mà ta kết luận bản chất người đó là xấu xa, là người đó không có khả năng để có những mối liên hệ lành mạnhChúng ta có thể học từ lỗi lầm của mình. Chúng ta có khả năng sửa đổi, và chúng tathể chế ngự quá khứ hoen ố của mình để trở thành người tốt hơn.

 Có người trong quá khứ lười biếng, sau sửa đổi và trở nên siêng năng. Họ làm sáng đẹp cuộc đời giống như mặt trăng khi thoát khỏi đám mây mờ.[18]

 Đức Phật đặt nhiều lòng tin vào khả năng tiến bộ của con người. Và tạo cho người khác cơ hội để cải tiến có thể là một phương cách sáng suốt nhất để giải quyết bất cứ xung đột cá nhân nào.

 Phương cách này có thể thích đáng trong mối liên hệ mật thiết hơn là các mối liên hệ khác. Nhiều người khi thiết lập một mối quan hệ đòi hỏi là đối tượng của họ phải chung thủy, nhưng sự kỳ vọng này không phải lúc nào cũng thành sự thật. Việc đánh mất lòng tin của người khác không phải là hiếm trong xã hội của chúng ta. Nhiều người khám phá ra đối tượng của họ yếu đuối trước những cám dỗ tình dục. Và người càng yêu đối tượng của mình thì càng thấy khổ đau trước khám phá bất ngờ này. Nền văn hóa của chúng ta khuyến khích ta trừng phạt “kẻ tội lỗi” một cách không thương tiếcTuy nhiên, khi ta để mình ngập tràn trong oán hận, chúng ta không thể tránh một kết thúc đầy đau khổ trong mối quan hệ này. Một phương cách khéo léo hơn có thể là để cho người kia thấm thía bản chất của hành động sai trái của họ và cho họ thời gian để sửa đổi.

 Đức Phật giải thích rằng sự quyến rủ của người khác phái là bản năng tự nhiên mạnh mẽ nhất của con người. “Không có vẻ bề ngoài, mùi, hương, vị hay sự xúc chạm của thứ gì khác có thể quyến rủ trái tim của người đàn ông bằng của người phụ nữ”.[19] Người phụ nữ cũng có thể bị người đàn ông quyến rủ giống như thế,[20] (và dĩ nhiên, chúng ta có thể nói rộng ra cho những mối quan hệ đồng tính cũng vậy). Trong trường hợp này, người ta hành động theo sự thúc đẩy của đòi hỏi bản năng, có thể được xem là tự nhiênDầu vậy, con người cần phải phát triển một lối suy nghĩ hiện thực để đối phó với những khuynh hướng bản năng này. Có cơ hội, họ có thể hiểu được ích lợi của phương cách hiện thực này đối với những đòi hỏi bản năng của mình. Sự hiểu biết đó có thể giúp họ sửa đổi những lỗi lầm để cho mối quan hệ mật thiết của họ không bị đổ vỡ.

 Điều quan trọng nhất để tự sửa mình và củng cố một mối liên hệ là “nhìn một lỗi lầm như nó là, chấp nhận sự sai trái đó, và quyết không lặp lại lần nữa”.[21] Khi làm được như thế, chúng ta là loại người được Đức Phật gọi là người đã trưởng thành

4.  Chia tay trong ôn hòa

 Như với tất cả mọi thứ khác, ở đây cũng có những ngoại lệ. Bổn phận và nghĩa vụ, khả năng giao tiếp, và những phương cách khác nhằm làm giảm thiểu, chứ không phải để tiêu trừ, các xung đột có thể có mặt trong một mối liên hệ. Dầu đã nỗ lực hết sức, đôi khi người ta cũng phải chấp nhận là không có giải pháp cho vấn đề của họ. Đức Phật nói gì về những mối liên hệ không hạnh phúc, và bó buộc này? Đức Phật dạy đệ tử của Ngài đối xử với những người không còn thân thiết với họ như thế nào?

 Đức Phật xác nhận có một số yếu tố đưa đến việc phải chấm dứt một mối liên hệ: sự tiếp tục hành động sai trái một cách không kiểm soát của một đối tượng, nguy hiểm phát sinh từ mối liên hệ đó, hay sự xác nhận tính vô vọng của việc kéo dài mối liên hệ đó. Khi người ta rơi vào một trong những hoàn cảnh này, Đức Phật chấp nhận sự lựa chọn của cá nhân như là chuẩn mực tuyệt đối để quyết định. Ngài dạy người đệ tử tại gia rút lui khỏi một mối liên hệ không tương đồng giống như một vị vua trở về từ đất nước đã chiến thắng.[22]

 Tuy nhiên, sự tự do cá nhân này không ủng hộ những kết luận vội vã, khắt khe, một chiều; trái lại những sự đánh giálý trí, đạo đức cần phải đi trước bất cứ quyết định cuối cùng nào. Chúng ta cần chắc chắn rằng quyết định của mình sẽ đem lại lợi ích, chứ không phải ảnh hưởng một cách bất lợi cho những người liên quan trong cuộc, kể cả bản thân mình. Ai cũng có quyền chấm dứt một mối liên hệ nếu sự quyết định được dựa trên các chuẩn mực đó.

 Lời khuyên của Đức Phật đối với Upali, một đệ tửbạn thân của thủ lãnh đạo Jana Mahavira, là minh chứng cho kết luận này. Theo yêu cầu của thủ lãnh, Upali đến viếng Đức Phật để đánh bại Ngài trong một cuộc tranh luậnTuy nhiên, sau khi lắng nghe Đức Phật, Upali cảm thấy giáo lý của Đức Phật giá trị hơn của Mahavira và muốn được trở thành đệ tử của Đức PhậtĐức Phật đã trả lời, “Ông cần đánh giá quyết định của mình cẩn thận hơn; một người cao quý như ông cần quán xét và đánh giá quyết định này”.[23] Sau khi Upali đảm bảo với Đức Phậtquyết định của ông đã được suy xét kỹ, Đức Phật cho phép Upali được rời bỏ Mahavira và trở thành đệ tử của Đức Phật. Sự lựa chọn có quán xét một cách hợp lý của cá nhânyếu tố đưa đến quyết định của Upali.

 Đối với mối liên hệ cá nhân cũng cần có sự đánh giá như thế. Vào thời Đức Phật, nhiều cặp vợ chồng rời bỏ người phối ngẫu của mình để sống độc cư trong nỗ lực đạt được sự tự thanh tịnhĐức Phật không can ngăn việc làm này nếu như sự phát triển bản thân không làm hại gì đến gia đình, con cái họ. Thí dụ, Đức Phật đã tán thán Ugga, một đại phú gia, vì đã đảm bảo sự sinh sống và an toàn cho các bà vợ của ông trước khi rời xa họ.[24] Rõ ràng, Đức Phật không hàm ý là người ta có thể rời xa vợ hay chồng mình để chạy theo những thú vui khác –nhưng Ngài dạy rằng sự chia tay ôn hòa với một mối liên hệ không muốn có sẽ tốt hơn là kéo dài nó.

 Đức Phật cũng khuyên người ta nên ứng xử như thế nào với bạn cũ hay người ‘xưa’ sau khi mối liên hệ đã được chấm dứt. Khi thảo luận với Kesi, người nài ngựa, Đức Phật khẳng định rằng trước hết ta cần bỏ qua sự oán hậntư tưởng trả thù đối với bạn cũ dù họ đã tạo ra bao phiền não trong mối liên hệ trước đó với ta. Kesi bảo với Đức Phật rằng ông ta sẽ giết hết những con ngựa chứng, không hợp tác khi ông huấn luyện chúng. Đức Phật khuyên Kesi rằng ông ta cần bỏ sang một bên những người không còn hợp tác hay không thể thuần hóa.[25]

 Giáo lý của Đức Phật không bao giờ khuyến khích ta theo đuổi sự oán hận hay trả thù dầu ta đã bị người khác lạm dụng hay làm tổn thương trong mối liên hệ trước đó. Đức Phật dạy rằng ta sẽ không bao giờ tìm được sự an bình nội tâm nếu ta cứ bám víu vào những hành động sai trái mà người khác đã làm đối với ta trong quá khứ.[26] Có hành động phù hợp để chống lại sự bạc đãi luôn được khuyến khích -tuy nhiên theo Đức Phật, ôm ấp mối hận thù sẽ chỉ làm tăng thêm nỗi bất hạnh đã phát sinh trong một mối liên hệ không hạnh phúc. Người ta làm cho cuộc sống của mình thêm khổ sở bằng cách nghĩ tưởng đến những mối liên hệ đã đổ vỡ, nhưng họ có thể tìm được sự hòa thuận, bình an trong cuộc đời bằng cách tập tha thứ và quên đi.

TÓM TẮT

 Đức Phật và vị đại đệ tử của Ngài, Xá-lợi-phất, đã ban cho hàng đệ tử tại gia những lời hướng dẫn vô giá để giải quyết những mâu thuẫn cá nhân một cách êm đẹp. Sự cải tiến các khả năng truyền đạt và sự phát triển các hành vi, thái độ thiện xảo rất cần thiết cho mục đích này. Đức Phật đã nhấn mạnh rằng phần lớn những vấn đề phát sinh trong các mối liên hệ mật thiết có thể được giải quyết một cách êm đẹp bằng những phương pháp này. Tuy nhiên, một số các mối liên hệ có nhiều khả năng thất bại dù người trong cuộc đã cố gắng đến mức nào. Trong những trường hợp đó, sự chia tay là cách tốt nhất để tự giải thoát bản thân ra khỏi gánh nặng của xung đột. Ta cần xem sự chia tay không phải là một cách để trả thù, nhưng là một bước để tự giúp bản thân và người khác.



[1] Câu trích từ: Tăng Chi Bộ Kinh V: Phẩm Aghata: Kinh Codana

[2] Tăng Chi Bộ Kinh V: Phẩm Sona: Kinh Subhasitavaca; Phẩm Agatha: Kinh Codana

[3] Trung Bộ Kinh I: 17: Kinh Culahatthipadopama; 269-277

[4] Tương Ưng Bộ Kinh V: Phẩm Raja: Kinh Pathama Cakkanuvattana

[5] Dhammapadatthakatha: Phẩm Sahassa: Kisagotamiya Vatthu

[6] Dhammapadatthakatha: Phẩm Sukha:Annatarassa Upasakassa Vatthu

[7] Dhammapadatthakatha: Phẩm Sahassa : Kisagotamiya Vatthu

[8] Tăng Chi Bộ Kinh V: Phẩm Aghata: Kinh Codana

[9] Trung Bộ Kinh II: 58: Kinh Abhayarajakimara, 498-501

[10] Câu kệ 232

[11] Kinh Tập: Phẩm Cula: Kinh Hiri

[12] Tăng Chi Bộ Kinh V: Phẩm Aghata : Kinh Codana

[13] Như trên

[14] Trường Bộ Kinh I: 9: Kinh Maha Sihanada; 151-157

[15] Tăng Chi Bộ Kinh IV: Phẩm Indriya : Kinh Roga

[16] Tăng Chi Bộ Kinh III: Phẩm Bala : Kinh Accaya

[17] Tăng Chi Bộ Kinh III: Phẩm Puggala : Kinh Vajiropama

[18] Trung Bộ Kinh II: 56: Kinh Upali; 477-492

[19] Tăng Chi Bộ Kinh I: Phẩm Ekaka : 1

[20] Tăng Chi Bộ Kinh I: Phẩm Ekaka : 2

[21] Tăng Chi Bộ Kinh III: Phẩm Bala : kinh Accaya

[22] Kinh Pháp Củ: Kệ số 329

[23] Trung Bộ Kinh II: 56: Kinh Upali; 477-492

[24] Tăng Chi Bộ Kinh VIII: Phẩm Gahapati : Kinh Hatthigamaka Ugga

[25] Tăng Chi Bộ Kinh IV: Phẩm Kesi : Kinh Kesi

[26] Kinh Pháp Củ: Kệ số 3


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12057)
Lời dạy của đức Phậtpháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói...
(Xem: 17364)
Không gian nhận thức bị giới hạn, vì thế nó hữu hạn. Khi bạn ngồi trong lớp học, không gian nhận thức bị bao bọc bởi các bức vách, nền nhà và trần nhà.
(Xem: 18571)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 12478)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 11691)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 13020)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 12045)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 12384)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 11544)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 11892)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 10523)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 10836)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 28164)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 11049)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 11278)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 13504)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 10962)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 11341)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 10807)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 11097)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 26178)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 12292)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 14794)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 10958)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 20195)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 12251)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 11384)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 10667)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 23779)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 11760)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 12189)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 12676)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 10951)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 38563)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 10440)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 12054)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 17569)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 24874)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 10424)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
(Xem: 10635)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
(Xem: 11931)
Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
(Xem: 11191)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
(Xem: 11516)
Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế...
(Xem: 14620)
Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
(Xem: 21338)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
(Xem: 9790)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
(Xem: 11158)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
(Xem: 27190)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 11087)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
(Xem: 11719)
Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống...
(Xem: 10892)
Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển...
(Xem: 14202)
Đàn tràng chẩn tế cũng gọi là Trai đàn vì lấy sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho cô hồn, ngạ quỷ được ân triêm công đức.
(Xem: 11375)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
(Xem: 12549)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12159)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 10936)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10809)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13234)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11669)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13558)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant