Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Hành Động Với Từ Ái Và Bi Mẫn

09 Tháng Sáu 201407:47(Xem: 14224)
Hành Động Với Từ Ái Và Bi Mẫn

HÀNH ĐỘNG VỚI TỪ ÁI VÀ BI MẪN

Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma

Anh dịch: Jeffrey Hopkins
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển


Không hy vọng với tưởng thưởng
Hãy dâng hiến sự cứu giúp đến người khác.
- LONG THỌ, Tràng Hoa Quý Báu

 

Với động cơ vị tha, mọi hành động tích tũy đức hạnh - năng lực vô biên của công đức thánh thiện. Về bố thí hay từ thiện, Long Thọ đã nói trong Bức thư Thân Hữu:

Không có người bạn nào tốt hơn cho tương lai hơn là bố thí - ban cho tặng phẩm thích đáng. Đối với tu sĩ, giáo sĩ, người nghèo, và bạn hữu - Biết những tài sản là chóng tàn phai và vô lực.

Ban cho với lòng vị thaý nghĩa rèn luyện từ chiều sâu của trái tim trong một thái độ rộng lượng chẳng hạn mà chúng ta không tìm cầu bất cứ một phần thưởng hay kết quả nào cho chính mình. Hãy nghĩ về hành vi từ thiện và tất cả những lợi ích của nó như chỉ hướng đến lợi ích của người khác. Mặc dù từ thiện có thể được tiến hành bởi những ai tìm kiếm lợi ích cho chính họ, chẳng hạn như ai đấy hiến tặng từ thiện nhằm để trở nên nổi tiếng, bố thí vị tha hoàn toàn không liên hệ đến lòng vị kỷ. Do vậy, những tác động của hàn vị tha vô vị lợi, cả cho chính mình và cho người khác, thật là sâu rộng hơn chúng có thể trong trường hợp vị kỷ. Trong cách này, rộng lượng bố thí giống như một người bạn cho chính mình và cho người khác trong tương lai.

Từ quan điểm của chính mình, sự vô thường của đời sống hiện tại sẽ bắt buộc chúng ta bỏ lại tất cả những tài sản lại phía sau, nhưng bằng việc ban phát nó, chúng ta có thể mang nó theo như nghiệp lành. Như Long Thọ nói trong Tràng Hoa Quý Báu rằng:

Con đang sống giữa những nguyên nhân của cái chết
Giống như một chiếc đèn đứng trong làn gió hiu hiu
Phải buông trôi tất cả những sở hữu
Tại cái chết, bất lực, con phải đi đến nơi nào đấy
Nhưng tất cả đấy đã được sử dụng cho sự thực tập tâm linh
Sẽ đứng trước con như nghiệp lực lành
Nếu chúng ta sử dụng tài sản vì những mục tiêu lợi lạc, nghiệp quả lành mạnh được đem đến kiếp sống tới, nhưng nếu chúng ta bám lấy nó với luyến ái, tự nó sẽ làm cho sự thịnh vượng rời xa ta trong những kiếp sống tương lai.
Nếu con không thực hiện những cống hiến từ sự giàu sang
Đã đạt được từ sự bố thí khi xưa đến kẻ nghèo khó,
Qua sự vô ơn và dính mắc
Con sẽ không đạt được những tài nguyên trong tương lai

Những ai mà đối với họ chúng ta thực hiện sự bố thí hiến tặng giống như những người công nhân mang nghiệp lành đến cho chúng ta trong những kiếp sống tương lai:

Ở đây trong thế giới những người công nhân không mang vác
Thực phẩm dự trử cho một hành trình tự nguyện (không lương)
Nhưng những người hành khất nghèo nàn, không bị mua chuộc, sẽ mang đến đời sống tương lai của con.
Những gì con ban cho họ sẽ được nhân lên cả trăm lần.

Trong cách này, bố thí rộng lượng cũng giúp chúng ta trong ấy nó thu hoạch tài nguyên để sử dụng trong những kiếp sống tương lai.

Do thế, chỉ trong cung cách mà chúng ta tập trung trên những quan tâm xa hơn của chúng ta, hãy tự cống hiến để giúp đở người khác:

Giống như chúng ta hướng đến việc suy nghĩ
Về những gì có thể hoàn thành để giúp đở chính mình
Vì thế chúng ta nên hướng đến việc suy nghĩ
Về những gì có thể được hoàn tất để giúp đở người khác.

Hãy làm chính mình sẳn sàng vì người khác như một tài nguyên tự nhiên:

Nếu chỉ trong một niệm làm cho chính mình
Sẳn sàng cho sự sử dụng của người khác
Giống như đất, nước, lửa, gió và thuốc men,
Và những công viên cho sẳn sàng cho tất cả.

Phân tích mỗi hoàn cảnh để quyết định những gì sẽ hổ trợ. Ngay cả thuốc độc được biết để chạm trán với những rắc rối nào đó:

Ngay cả cho thuốc độc
Đến những người cần sự hổ trợ của nó
Nhưng không ban cho ngay cả thức ăn ngon lành
Đến những ai mà nó chẳng giúp gì
Đức Phật đã nói rằng nếu nó giúp ích người khác
Chúng ta ngay cả nên đem đến sự bất an tạm thời.

TỪ ÁI VÀ CHÍNH TRỊ

Từ ái và bi mẫn nên là căn bản của chính trị. Chúng làm cho một chính trị gia được yêu mến mà không nhất thiết là một người yếu đuối.

Những lãnh tụ mà bản chấtrộng lượng
Giống như, nếu không nói, là họ mạnh mẽ
Như một sự ngọt ngào được làm cho cứng rắn bên ngoài
Với bạch đậu khấu và ớt.
Những con chim của dân chúng sẽ đậu trên
Cây cối hoàng gia cung ứng bóng râm nhẫn nhục
Rộ nở bông hoa tôn kính,
Và những quả trái to lớn lộng lẩy của bố thí.

Thông điệp là những chính trị gia nên luôn luôn rộng mở trái tim:

Luôn luôn với tâm tán dương
Và lấy làm hoan hỉ trong những hành vi tán dương.
Từ hành động tán dương sinh khởi
Tất cả những hệ quả được tán dương

Long Thọ kêu gọi những lãnh tụ chính trị để cung cấp nhiều loại giúp đở công cộng:

Luôn luôn chăm sóc một cách bi mẫn
Cho người bệnh, không ai bảo vệ, những ai khốn đốn
Với khổ đau, người thấp kém, và người nghèo khó
Và hãy chăm sóc đặc biệt để nuôi dưỡng họ.
Hãy cung cấp sự chăm nom rộng rãi
Cho những kẻ bị ngược đãi, những nạn nhân thất bát mùa màng
Những kẻ khốn đốn, những ai đau khổ vì bệnh truyền nhiễm
Và cho những ai trong những vùng bị chinh phục.
Hãy làm cho những người mù lòa, bện tật, thấp hèn,
Không ai bảo vệ, nghèo túng cơ cực,
và những người tàn tật đạt đến một cách bình đẳng
Thực phẩm, thức uống không bị gián đoạn.
Nhằm để làm nhẹ nổi khổ đau
Của chúng sinh - già, trẻ, yếu đuối -
Chúng ta nên xây dựng qua những tài nguyên mà chúng ta kiểm soát
Các bác sĩ và người làm công tác sức khỏe khắp xứ sở chúng ta
Bố thí một cách yêu mến cho những người hành khất
Những áo quần đa dạng và lộng lẫy,
Đồ trang điểm, và nước dầu thơm,
Những tràng hoa, và sự vui sướng.

Những tù nhân được đối xử với từ ái yêu thương, ngay cả khi trừng phạt:

Giống như những đứa trẻ kém cỏi bị trừng phạt
Với mong ước làm cho chúng được đầy đủ trình độ
Vì thế trừng phạt nên được thi hành với bi mẫn
Không phải thù ghét cũng không khao khát giàu sang.
Ngay cả những ai được xét xử công bằng
Bị giam cầm, trừng phạt, v.v...
Chúng ta, đẩm ướt với bi mẫn
Nên luôn luôn chăm sóc.
Qua bi mẫn chúng ta nên
Luôn luôn phát sinh chỉ một thái độ vị tha
Ngay cả cho những con người
Đã vi phạm những hành vi tệ hại vô cùng.
Đặc biệt phát sinh lòng bi mẫn
Cho những ai mà hành động tệ hại của họ là kinh khủng, những sự giết người
Những người mà bản chất thất bại là những chỗ chứa
Của bi mẫn từ những ai mà bản chất của họ là hào hiệp cao thượng
Hãy trả tự do cho những tù nhân yếu đuối
Sau một ngày hay năm ngày
Đừng nghĩ về những người khác
không được trả tự do dưới bất cứ điều kiện nào.
Khi mà những tù nhân không được thả ra
Họ nên được làm cho thoải mãi
Với thợ hớt tóc, tắm rửa, đồ ăn, thức uống,
Thuốc men và áo quần.
Một khi chúng ta đã phân tích và nhận ra một cách cùng khắp
Những kẻ giết người sân hận
Đày họ đi
Mà không giết hại hay tra tấn họ.
Cung cấp trường học là quan trọng đặc biệt:
Như những phương pháp để gia tăng tuệ trí
Bất cứ nơi nào có trường học trên mặt đất
Cung cấp cho sinh kế của giáo viên
cung ứng đất đai cho họ để dự phòng thực phẩm.

NHỮNG LOẠI BỐ THÍ

Những loại "bố thí" này liên hệ đến một thái độ rộng lượng cũng như những hành vi thân thểlời nói được thúc đẩy bởi lòng rộng lượng. Sự bố thí vị tha đòi hỏi việc từ bỏ tất cả tính keo kiệt, chỉ quan tâm với làm nhẹ bớt sự khốn khó của người khác, và không quan tâm về việc gặt hái bất cứ thứ gì cho mình qua việc làm này. Nếu chúng ta tìm kiếm lợi lạc cho mình từ một hành vi từ thiện trong tương lai, nó sẽ giống như một hành động cho vay với lời lãi. Tốt hơn, chỉ hãy cống hiến đến người khác, thay vì tìm kiếm những nghiệp quả thích ứng thật sự tích lũy lại cho ta. Việc thực hành rộng lượng bố thí kêu gọi phát triển lòng tự nguyện ban cho tất cả tài sản.

Bố thí có ba loại:

1- Tài thí: cung hiến những thứ vật chất chẳng hạn như tiền bạc, áo quần, và thực phẩm; thực hiện những tặng phẩm cho người nghèo khó và người bệnh tật, cùng những hiến tặng cho giáo dục và những dự trử của việc chăm sóc y tế.

2- Pháp thí: cung ứng những giáo huấn rõ ràng về những sự thực tập tâm linh cũng như về những loại sinh kế trần gian thích đáng, chẳng hạn như trong việc trở thành người thực hành y thuật, và ban cho lòng nhiệt tình để đảm đương thái độ đạo đức.

3- Vô úy thí: ban cho sự thư thái khỏi những hoàn cảnh sợ hãi bằng việc bảo vệ con người khỏi bị trộm cướp, chính quyền bất công, thú vật hung dữ, bảo lụt, lửa cháy, v.v... Điều này bao gồm việc bảo vệ súc vật; ngay cả việc giúp một con côn trùng khỏi một vũng nước.

Mặc dù khó khăn, thật quan trọng để tưởng tượng việc ban cho những nghiệp lành của chính chúng ta, là điều giống như gốc rể cho sinh khởi những hoàn cảnh thuận lợi trong tương lai. Bằng việc có một cảm giác mạnh mẽ trong việc cống hiến những gốc rể đạo đức đến người khác, chúng ta sẽ không còn tìm kiếm bất cứ phần thưởng nào cho chính mình. Phần thường, do đó, sẽ to lớn hơn chúng ta có thể tưởng tượng rất nhiều.

Thiền Quán

1- Hãy tưởng tượng nhiều người khốn khó, bần cùng trong nhiều cách, trước mặt mình.

2- Hãy tưởng tượng nhiều loại thức ăn, áo quần, chổ ở, và v.v... mà những người ấy cần đến, và ban bố những thứ này cho họ.

Nếu chúng ta thi hành kỷ năng này thường xuyên, tâm chúng ta sẽ trở nên thấm đẩm một cách sâu sắc với một thái độ rộng lượng.

KHUYẾN TẤN CUỐI CÙNG CỦA TÔI

Từ ái và bi mẫn là quan trọng nhất, quý báu nhất, năng lực nhất, và thánh thiện nhất. Thực hàn những điều này lợi ích không chỉ trong dạng thức của một tôn giáo thật sự mà cũng trong đời sống thế gian cho cả sức khỏe tinh thầnthân thể. Chúng là những yếu tố hổ trợ đời sốnghạnh phúc. Với việc thực hành, chúng trở nên hiệu quảlợi lạc đưa đến những năng lực cho cuộc sống.

***

Nguyên tác: Acting with love trích từ quyển How to Expand Love
Ẩn Tâm Lộ : loạt bài này bắt đầu dịch từ 22-9-2011 đến hôm nay ngày 20-3-2012 là dịch xong!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 215)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 409)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 308)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 337)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 621)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 678)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 636)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 685)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 599)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 540)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 685)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 492)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 574)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 667)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 588)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 590)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 709)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 703)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 768)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 791)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 768)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 960)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 827)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1383)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 912)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1076)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1060)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 991)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 980)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1121)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1397)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1740)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1157)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 966)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 817)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 944)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 971)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1394)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1138)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1171)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 924)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1068)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1518)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1395)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1384)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 979)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1373)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1288)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1250)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant