Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quan Điểm Của Phật Giáo Đối Với Các Tôn Giáo Khác

07 Tháng Sáu 201400:00(Xem: 7956)
Quan Điểm Của Phật Giáo Đối Với Các Tôn Giáo Khác

Quan điểm của Phật giáo
đối với các tôn giáo khác

HT. K. Sri Dhammananda
Thích Nữ Giới Hương dịch

Mục đích của bài viết này là để hổ trợ trong việc gia tăng sự hiểu biết tốt hơn về tôn giáo, sự khoan dungý nghĩa sâu sắc của các tôn giáo khác từ quan điểm của phật giáo, hay nói cách khác là để tìm hiểu thế nào là thái độ của phật giáo đối với các tôn giáo khác .

Ý nghĩa sâu sắc của tôn giáo là ở chỗ duy trìkính trọng tôn giáo của riêng mình nhưng không để mất đi sự kính trọng đối với các tôn giáo khác . Từ đó, chúng ta sẽ thiết lập một sự hiểu biết hổ tương, hợp táckhoan dung giữa những nhà tôn giáo với nhau để tất cả cùng đạt đến sự đòan kết và lợi lạc.

Người ta luôn nói về lòng bác ái của tôn giáo và tầm quan trọng của nó, nhưng ít khi chú trọng đến cách tu tập để đạt đến sự khoan dung độ lượng này. Ở đây cũng hy vọng rằng trong mục tiêu nhắm đến của bài viết, độc giả có thể có được một hình ảnh rõ ràng hơn về tánh cách độ lượng của tôn giáocố gắng để thăng hoa tính độ lượng đó. Chúng ta nên cố gắng lọai bỏ cái gọi là phức cảm tự tôn luôn cho mình là hơn người, ngờ vực lẫn nhau, định kiến tôn giáo và các động cơ ích kỷ, để làm tốt đẹpnâng cao tôn giáo mà mình đang kính trọng. Do đó, tìm hiểu tôn giáo là điều cần thiết.

Tất cả những người có tôn giáo phục vụ cho một nguyên lý chung của nhân lọai là giải thóat và gíac ngộ . Việc truy tìm gíac ngộ và giải thoát là việc tìm cầu chân lý. Bất hạnh thay! Chính trong chúng ta có nhiều cách thực tậpniềm tin tôn giáo buồn cười mà được mô tả giống như tương tợ chân lý, mà thực sự là chúng cách xa chân lý. Đối với những nhà tôn giáo chân chính chúng ta phải có can đảmlòng tin để xác định rằng những gì là nhận thức sai lầmcố gắng để chỉnh lý nó làm cho phù hợp với khoa học và hợp lý để đáp ứng các yếu tố cần thiết của chân lý. Chúng ta sẽ thất bại, nếu chúng ta cố bám víu vào những điều mà chúng ta biết không phải là chân lý. Chúng ta sẽ sai lầm nếu trong việc tu tập tánh khoan dung, mà không tương xứng, không phù hợp với chân lý. Trong việc truy tìm chân lý, chúng ta nên lọai bỏ các thái độ tranh đua hơn thua mà phải hợp tác làm việc để đạt mục tiêu cao thượng của chúng tahòa hợp tôn giáo vì lợi ích của nhân lọai.

Đức Phật đã chỉ ra rằng khi ngài còn tại thế có nhiều cách tu tập tại Ấn không có chấp nhất về các giá trị tôn giáo nào, ngài đã nhã nhặn khuyên những đệ tử của mình bố thí đồ ăn cho các bà la môn cùng những người khất sĩ khác và cổ vũ họ một cách bình đẳng, bất luận họ theo tôn giáo nào. Đức Phật cũng đã khuyên các đệ tử không làm tổn thương đến các tu sĩbà la môn và Ngài đã hòa giải các tu sĩ cũng như các bà la môn hòa hợp lại với nhau. Đức Phật đã nói rằng khi một người lừa gạt bà la môn, một tu sĩ hoặc người nghèo bằng cách nói dối, điều này là nguyên nhân đọa lạc của người đó. Vì vậy, ngài đã cư xử chân thật, tốt bụng đối với tất cả mà không có sự phân biệt nào hết.

Mục đích của phật giáo là hướng dẫn mọi người sống đời sống thánh thiện, không bao giờ có tâm hãm hại người khác, trau giồi phẩm chất con người để đạt chân giá trị nhân bản, tỏa sáng lòng từ bi bao la, bình đẳng đến tất cả không có sự phân biệt, tu tập tâm tránh làm điều ác và thanh tịnh để đạt an lạchạnh phúc.

Phật giáo là một tôn giáo hướng dẫn con người "biết sống và bảo vệ sự sống". Trong lịch sử thế giới không có sự kiện nào cho thấy rằng người phật tử đã làm điều nguy hại đối với tôn giáo khác ở bất cứ nơi nào trên thế giớimục đích truyền bá phật pháp. Người phật tử không xem sự tồn tại của các tôn giáo khác như là một chướng ngại đối với hạnh phúcan lạc của nhân gian.

Thông điệp của Đức Phật là một sự mời gọi tất cả mọi người gia nhập vào tình huynh đệ bao la để tạo sức đòan kết vì an lạchạnh phúc của con người. Ngài đã không có lựa chọn người và chính Ngài cũng không xem mình là người được chọn.

Tăng đòan truyền bá chánh pháp đầu tiên của Đức Phật là những bậc A la hán (những bậc thánh thiện hòan tòan). Họ là những người cao thượng do sự nỗ lực, tinh cần về sự xã ly và tu tập đạt đến sự hòan thiện. Trước khi gởi những đệ tử này, Đức Phật đã khuyên họ như sau:

"Này các tỳ kheo, hãy lên đường vì lợi ích cho số đông, vì an lạc cho số đông, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích an lạc cho chư thiên và lòai người. Này các tỳ kheo, hãy tuyên thuyết giáo pháp cao thượng, để đưa đến một đời sống thánh thiện, hòan tòan thanh tịnh".


Theo lời khuyên này, Đức Phật muốn nói với tất cả mọi người sự khác biệt giữa thiện và ác, Ngài muốn dạy con người phương cách sống để đưa đến một đời sống hạnh phúc an lạclợi ích. Ngài không bao giờ khuyên các đệ tử của mình cải đạo người khác từ tôn giáo này sang tôn giáo khác. Lý tưởng giáo hóa của Ngài là giới thiệu cách sống chân chánh thánh thiện.

Đức Phật không chỉ trích, lên án bất kỳ tôn giáo nào mà trái lại gíac ngộ con người bằng việc chỉ cho họ sự vô ích của hai cực đoan : hành xác và hưởng dục và tránh việc thực hành những điều vô nghĩa hoặc mê tín dưới nhãn hiệu tôn giáo.


1. Tôn giáo chân chánh

Để trả lời cho câu hỏi cái gì cấu thành một tôn giáo đích thực, Đức Phật đã đưa ra một sự khẳng định vô tư rằng bất kỳ nơi nào pháp Tứ diệu đếBát chánh đạo được tìm thấy, nơi nào có người tu tập chân chánh để đạt đến tiến bộ tâm linh thì nơi đó được coi là tôn giáo đích thực. Ngài đã không nói rằng phật giáotôn giáo chân chánh duy nhất trên thế gian này mà ngài lại cổ vũ con người chấp nhậntôn kính chân lý đối với bất kỳ nơi nào chân lý thật sự được tìm thấy. Điều này có nghĩa là chúng ta không nên xem thường các lời dạy hợp lý của những tôn giáo khác. Một thái độ như vậy rõ ràng cho thấy rằng Đức Phật không bao giờ có thành kiến đối với các tôn giáo khác, Ngài cũng không độc quyền nắm giữ chân lý. Ngài muốn chỉ ra một điều duy nhấtchân lý và tất cả các lời dạy của Ngài là dựa trên Tứ diệu đế: chân lý về khổ, nguyên nhân của nó, sự đọan diệt khổcon đường đưa đến sự đọan diệt khổ.

Lúc nào Đức Phật cũng khuyên các đệ tử của Ngài làm những điều cần nên làm, không chỉ vì lợi íchhạnh phúc của riêng mình mà còn vì lợi íchhạnh phúc của những người khác. Ngài đã nói: " Nếu điều đó tốt cho bạn và người khác thì cần nên làm. Ngược lại, nếu điều đó có hại cho bạn và những người khác thì không nên làm". Là một nhà cải cách xã hội, Đức Phật đã khám phá ra cội gốc sâu xa của khổ đau nhân loại – là tham sân si đã cắm sâu trong tâm con người. Do đó, chỉ có sự cải thiện đúng đắn nơi tâm con người mới có thể mang đến hiệu quả. Sự cải thiện dựa trên thế giới bên ngoài bằng thế lực hoặc sức mạnh thì chỉ có thể kéo dài trong một thời gian ngắn, nhưng sự cải cách xuất phát từ chuyển hóa nhận thức bên trong của con người thì lâu bền hơn.

Cái bất thiện có khuynh hướng tăng trưởng tham, sân, si phải được vượt quachuyển đổi bởi sức mạnh của từ bitrí tuệ. Chính ngang qua sự thanh tịnh tâman lạchạnh phúc có thể được mang đến một cách hữu hiệu thông qua tôn giáo.

Phật giáo đã trở thành tôn giáo có tăng đòan truyền giáo đầu tiên trên thế giới. Cách đây gần 2300 năm, nhờ nỗ lực nhiệt tâm của Hòang đế A Dục (305-268 trước Tây lịch) (là người đạt đến đỉnh cao của khát vọng quyền lực, đã từ bỏ chiến tranh bạo động giết người để trở thành một người phật tử thuần thành ủng hộ phật phápvăn hóa phật giáo trong thời gian trị vì của mình). Ngài đã phái các đòan truyền bá chánh pháp, gồm cả con trai và con gái của mình đi khắp đất nước Ấn độ và nước ngòai để mang thông điệp cứu khổ của Đức Phật đến với mọi người. Vận dụng truyền thống cao thượng của Đức Phật, nhà vua đã không bao giờ quên nhắc nhở những sứ gỉa truyền giáo này được chỉ trích hay xem thường bất kỳ tôn giáo khác trong khi đang thuyết giảng phật pháp. Lời khuyên này đã được khắc trên trụ đá của vua A Dục bằng chữ Phạn và ngày nay những tàn tích này vẫn còn được thấy ở Sarnath, Ba La Nại, Ấn Độ.

Trụ đá ghi như sau:

"Chúng ta không nên tôn trọng chỉ riêng tôn giáo của mình và chỉ trích các đạo của những người khác mà nên tôn trọng các tôn giáo khác vì lý do này hay lý do khác . Với việc làm này, chúng ta mới giúp tôn giáo của mình phát triển và làm cho sự nghiệp truyền bá của các tôn giáo khác cũng phát triển. Ngược lại với hành động này, là chúng ta tự chuốc lấy tai họa cho tôn giáo mình và cũng tổn hại cho đạo khác. Bất kỳ ai tôn trọng đạo của mình và chỉ trích các đạo khác, rồi cho rằng làm như vậy là trung thành với tôn giáo của mình, nghĩ rằng "Tôi sẽ mang vinh quang về cho đạo của mình". Vì vậy, sự hòa hợp là tốt nhất: " Hãy lắng nghe tất cả và sẳn lòng lắng nghe những giáo lý mà các tôn giáo khác tuyên thuyết".


Các dân tộc ở Á Châu đã có nhiều lý do để biết ơn vị đại hòang đế này. Là một nhà cai trị, ngài đã làm tròn bổn phận ủng hộ các tôn giáo khác mà không có sự phân biệt.


2. Hòa hợp tôn giáo

Các nguyên lý tôn giáo đều có mục đích phục vụ con người. Nếu có nhóm cá biệt nào của nhân lọai mà không áp dụng các đức tính cao quý được dạy bởi tôn giáo như là từ bi, kiên nhẫn, khoan dunghiểu biết thì sẽ khó cho những người khác chung sống hòa bình.

Đó là điều rất tự nhiên đối với người ích kỷ, xảo quyệt để lợi dụng lòng tốt nhưng hãy để cho tất cả những nhà tôn giáo ngày nay nhớ rằng những người đấu tranh, những cuộc đổ máu dưới danh nghĩa tôn giáo, không theo các nguyên lý tôn giáo và không phục vụ nhu cầu con người. Họ đấu tranh vì lợi ích cá nhân hoặc là quyền lực bởi việc dùng danh nghĩa tôn giáo. Những người tu tập tôn giáo chân chánh không có lý do nào để đấu tranh, họ nên hòa giải các vấn đề của họ trong tánh cách hòa bình. Một tôn giáo chân chánh không bao giờ khuyến khích bất kỳ hình thức bạo động nào dưới bất kỳ hòan cảnh nào. Đồng thời không có sự phân biệt chủng tộc khi người ta thực hành phương pháp tu tập. Người phật tử có thể sống và làm việc với những người khác đạo mà không có bất kỳ thái độ thù địch nào. Người phật tử không bao giờ có máu đổ trong sự phân biệt khác nhau giữa họ với những tôn giáo khác vì lợi ích của tôn giáo.

Ngày nay vì sự hung bạo đã và đang tiếp tục bành trướng dưới danh nghĩa tôn giáo, nhiều người đã trở nên thất vọng khi đề cập đến từ "tôn giáo " .

Chủ nghĩa duy vật, đạo đức giả và sự cuồng tín đang giả trang dưới chiêu bài tôn giáo đã gây ra thảm hại ghê gớm nhất trong lịch sử nhân lọai. Gía trị tôn giáo đích thực là sự biến mất nhanh chóng khỏi tâm con người khi họ đi tìm sự huyền bí sâu kín. Các tôn giáo lớn của thế giới đang lao vào trong vô số hình thức khiến cho một số người nhạo báng tôn giáo . Đã đến lúc các nhà tôn giáo hãy cùng nhau đưa các giá trị tôn giáo vào trong một bối cảnh thích hợp, thay vì chỉ tranh luận trên sự khác biệt của các ý thức hệ hoặc thần học của tôn giáo.

Tôn giáo không nên giới hạn ở sự thờ phượngcầu nguyện. Tôn giáo không có phải là một phương tiện cho sự thuyết giảng suông mà là một phương tiện thực tiễn cho con người họat động vô hại, có đóng góp cho nhân lọai, đạt đến an lạchạnh phúc chân thật.

Các tôn giáo khác nhau có thể có những niềm tin và những quan điểm khác nhau đối với sự khởi đầu và chấm dứt của sự sống, cũng như sự diễn giải khác nhau về việc giải thóat tối thượng. Nhưng chúng ta không nên bận tâm đối với những vấn đề không đồng nhất tạo ra sự xung đột, mâu thuẫn, hiểu lầm, hận thù và đấu tranh.

Có nhiều đức tính chung đủ để các nhà tôn giáo trình bày lý thuyếtthực tập, để con người có thể sống đời sống chân chánh, an lạc và có văn hóa.

Chúng ta không nên xem thường và khiển trách những người khác. Nếu làm như vậy, chúng ta mở đường cho các nhóm chống tôn giáo đang sẳn sàng nhạo bángchỉ trích các tôn giáo. Chúng ta không nên cư sử trong cách như vậy, khi bày tỏ thái độ thù địch của chúng ta đối với các nhà có tôn giáo. Nếu chúng ta làm như vậy, người ta sẽ nói rằng tôn giáo khuyến khích chúng ta chia rẻ.

Phật giáo không cấm đóan việc bày tỏ lòng tôn kính đối với các đạo sư của các tôn giáo khác , cũng không hạn chế họ thăm viếng chiêm bái các nơi thờ phượngthánh tích ngòai phật giáo. Họ có thể bày tỏ sự hợp tác trong khi tu tập các nguyên lý căn bản của phật giáo.

Phật giáo khuyến khích sự hợp táchiểu biết trong các tôn giáo khác. Từ quan điểm này của phật giáo, thì nhãn hiệu tôn giáo không phải là điều quan trọng nhất đối với người được xem là tôn giáo, nhưng một người hướng dẫn đời sống tâm linh thánh thiện, vô hại có thể được xem nhưtôn giáo.

Những người vạch lỗi và chỉ trích phật giáo chỉ có thể làm được điều đó ở mức độ cạn cợt. Họ có thể chỉ trích các pháp môn tu tập truyền thống, các cách thức và lễ nghi nhưng không thể chỉ trích nguyên lý đã được Đức Phật thiết lập. Vì những nguyên lý này là hòan thiện ở mọi thời. Mọi người có thể tu tập được những nguyên lý này nếu họ muốn.

Các phương pháp dùng để giới thiệu giáo pháp của Đức Phật đều khế lý và khế cơ. Đức Phật đưa ra chân lý này ngang qua lí trí và thực nghiệm. Lời dạy này được trình bày rõ ràng, giản dị, gây ấn tượng sâu sắc và rõ ràng giúp cho tâm con người chúng ta không điên đảo và trở nên sáng suốt. Phương pháp này hiển nhiên làm sáng tỏ những nghi ngờ và lọai bỏ những mê tín mù quáng, hạn hẹp. Vì vậy, lời dạy của Đức Phật đã thuyết phục tâm và trí của những người thiết tha tìm cầu chân lý. Quan điểm phật giáo về sự khoan dunghiểu biết cũng đã thuyết phục những nhà tư tưởng lớn, triết gia, nhà duy lý, nhà tư tưởng tự do, nhà theo thuyết bất khả tri… đều đánh giá phật giáo là một phương thức sống an lạc.

Theo Đức Phật, con người do tính tự ngã mạnh mẽ nên phân biệt có sai khác. Khi điều này lắng dịu thì mối quan hệ lành mạnh giữa những con người với nhau sẽ phát triển. Tìm cầu cách sống hòa bình, an lạc phải bắt đầu từ bên trong buông xã những thủ chấp này chứ không phải bên ngoài mà được.

Nếu các nhà tôn giáo ngày nay không thể cùng nhau làm việc trong sự hòa hợp, bình đẳng không có sự phân biệt hoặc thái độ thù nghịch đối với người khác thì hòa bình mà chúng ta nói đến sẽ chỉ là trong giấc mơ mà thôi.

Khi những nhà tôn giáo chân chánh, thật lòng nối vòng tay lớn, hợp nhất những nỗ lực lại với nhau thì sẽ loại trừ được tất cả những tranh luận, và phân biệt giáo lý sai khác, và sẽ cố gắng phổ biến những giá trị tâm linh của những tôn giáo khả kính của chúng ta vì sự an lạchạnh phúc cho con người, mà không phân biệt tín ngưỡng hoặc chủng tộc nào. Chúng ta cũng nên nhớ rằng tôn giáo hiện hữu vì lợi ích của nhân loại và như vậy không nên lạm dụng một cách quá mức trong bất cứ cách nào chỉ vì cho lợi íchvinh quang của cá nhân.


3. Sự hợp nhất

Hãy để những nhà tôn giáo hòa hợp mà không dùng chủ nghĩa quân phiệt tôn giáo. Hãy để họ hợp nhất để chấm dứt tất cả hành động hung bạo và sát nhân trong danh nghĩa chiến tranh. Hãy để các tôn giáo hòa hợp để mang lại tự do cho con người, và để tìm thấy một tôn giáo theo đức tin của họ. Hãy để các tôn giáo đòan kết lại với nhau để loại trừ tư tưởng độc quyền tôn giáo. Hãy để các tôn giáo thống nhất lại không dùng tôn giáo ở nơi buôn bán cho việc thuyết phục những người khác bằng cách tuân theo những phương thức không rõ ràng. Hãy để các tôn giáo hòa hợp lại để tôn trọng niềm tinphương pháp tu tập của người khác, miễn là tín ngưỡng và sự tu tập này không tổn hại và lừa dối mọi người. Hãy để các tôn giáo hòa hợp để tẩy sạch những thái độ thách thức của việc chạy đua tôn giáo không lành mạnh. Hãy để các tôn giáo hòa hợp để loại trừ những đồi bại, những cách tu trái luân lý đang phổ biến trong xã hội hiện đại. Hãy để các tôn giáo hòa hợp để giới thiệu cách sống ôn hòa giữa những tín đồ của họ và khuyên họ không đi vào các cực đoan.

Các nhà sáng lập của mỗi tôn giáo đã có những mục tiêu căn bảnhòa hợp nhân loại – để nuôi dưỡng sự đòan kết, thiện chí và sự hiểu biết giữa tất cả mọi người trên thế giới.

Theo đường hướng này, nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo khác cũng đã tìm cách để phát triển lãnh vực sâu sắc này vì đức tin của người khác. Tuy nhiên, bất hạnh thay, một số tín đồ nào đó của mỗi tôn giáo, vì những lý do ích kỷ cá nhân và tâm hẹp hòi, không độ lượng đã đi ngược với tôn chỉ đích thực của tôn giáo và do vậy đã tạo ra sự hỗn độn, hiểu lầm, phân biệt và không khoan dung.

Chúng tôi tha thiết hy vọng từ sự nhận thức các sự kiện này, một ngày nào đó nhân loại sẽ bắt tay nhau làm việc hòa hợp trong tình huynh đệ bao la vì lợi íchan lạc của tất cả mọi con người trên hành tinh này.

Cuối cùng, kính trọng tôn giáo của người khác sẽ làm nảy sinh sự tự tin cho tôn giáo của chính mình.

{Dịch từ nguyên tác tiếng Anh "The Buddhist Attitude towards other Religions" của Đại lão HT. K. Sri Dhammananda, trong tác phẩm " Các Viên Ngọc Trí Tuệ của phật giáo "( Gems of Buddhist Wisdom), CBBEF, Taiwan, 1996, trang 497-508}

(Đạo Phật Ngày Nay)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1613)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1529)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1479)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1061)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1450)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1388)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1304)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1354)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1683)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1892)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1408)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1075)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1413)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 1972)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1445)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1535)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1366)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2825)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1357)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1395)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1699)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1652)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1610)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1454)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2617)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1597)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1595)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1393)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1410)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1594)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1530)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1422)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1395)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1492)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2170)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1525)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1472)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1589)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1813)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1502)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1363)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1641)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1380)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1668)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2343)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1439)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1927)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1654)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1726)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1596)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1921)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1647)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1407)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1699)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1555)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1515)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1305)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1230)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1273)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1505)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant