Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quan Điểm Của Phật Giáo Đối Với Các Tôn Giáo Khác

07 Tháng Sáu 201400:00(Xem: 7977)
Quan Điểm Của Phật Giáo Đối Với Các Tôn Giáo Khác

Quan điểm của Phật giáo
đối với các tôn giáo khác

HT. K. Sri Dhammananda
Thích Nữ Giới Hương dịch

Mục đích của bài viết này là để hổ trợ trong việc gia tăng sự hiểu biết tốt hơn về tôn giáo, sự khoan dungý nghĩa sâu sắc của các tôn giáo khác từ quan điểm của phật giáo, hay nói cách khác là để tìm hiểu thế nào là thái độ của phật giáo đối với các tôn giáo khác .

Ý nghĩa sâu sắc của tôn giáo là ở chỗ duy trìkính trọng tôn giáo của riêng mình nhưng không để mất đi sự kính trọng đối với các tôn giáo khác . Từ đó, chúng ta sẽ thiết lập một sự hiểu biết hổ tương, hợp táckhoan dung giữa những nhà tôn giáo với nhau để tất cả cùng đạt đến sự đòan kết và lợi lạc.

Người ta luôn nói về lòng bác ái của tôn giáo và tầm quan trọng của nó, nhưng ít khi chú trọng đến cách tu tập để đạt đến sự khoan dung độ lượng này. Ở đây cũng hy vọng rằng trong mục tiêu nhắm đến của bài viết, độc giả có thể có được một hình ảnh rõ ràng hơn về tánh cách độ lượng của tôn giáocố gắng để thăng hoa tính độ lượng đó. Chúng ta nên cố gắng lọai bỏ cái gọi là phức cảm tự tôn luôn cho mình là hơn người, ngờ vực lẫn nhau, định kiến tôn giáo và các động cơ ích kỷ, để làm tốt đẹpnâng cao tôn giáo mà mình đang kính trọng. Do đó, tìm hiểu tôn giáo là điều cần thiết.

Tất cả những người có tôn giáo phục vụ cho một nguyên lý chung của nhân lọai là giải thóat và gíac ngộ . Việc truy tìm gíac ngộ và giải thoát là việc tìm cầu chân lý. Bất hạnh thay! Chính trong chúng ta có nhiều cách thực tậpniềm tin tôn giáo buồn cười mà được mô tả giống như tương tợ chân lý, mà thực sự là chúng cách xa chân lý. Đối với những nhà tôn giáo chân chính chúng ta phải có can đảmlòng tin để xác định rằng những gì là nhận thức sai lầmcố gắng để chỉnh lý nó làm cho phù hợp với khoa học và hợp lý để đáp ứng các yếu tố cần thiết của chân lý. Chúng ta sẽ thất bại, nếu chúng ta cố bám víu vào những điều mà chúng ta biết không phải là chân lý. Chúng ta sẽ sai lầm nếu trong việc tu tập tánh khoan dung, mà không tương xứng, không phù hợp với chân lý. Trong việc truy tìm chân lý, chúng ta nên lọai bỏ các thái độ tranh đua hơn thua mà phải hợp tác làm việc để đạt mục tiêu cao thượng của chúng tahòa hợp tôn giáo vì lợi ích của nhân lọai.

Đức Phật đã chỉ ra rằng khi ngài còn tại thế có nhiều cách tu tập tại Ấn không có chấp nhất về các giá trị tôn giáo nào, ngài đã nhã nhặn khuyên những đệ tử của mình bố thí đồ ăn cho các bà la môn cùng những người khất sĩ khác và cổ vũ họ một cách bình đẳng, bất luận họ theo tôn giáo nào. Đức Phật cũng đã khuyên các đệ tử không làm tổn thương đến các tu sĩbà la môn và Ngài đã hòa giải các tu sĩ cũng như các bà la môn hòa hợp lại với nhau. Đức Phật đã nói rằng khi một người lừa gạt bà la môn, một tu sĩ hoặc người nghèo bằng cách nói dối, điều này là nguyên nhân đọa lạc của người đó. Vì vậy, ngài đã cư xử chân thật, tốt bụng đối với tất cả mà không có sự phân biệt nào hết.

Mục đích của phật giáo là hướng dẫn mọi người sống đời sống thánh thiện, không bao giờ có tâm hãm hại người khác, trau giồi phẩm chất con người để đạt chân giá trị nhân bản, tỏa sáng lòng từ bi bao la, bình đẳng đến tất cả không có sự phân biệt, tu tập tâm tránh làm điều ác và thanh tịnh để đạt an lạchạnh phúc.

Phật giáo là một tôn giáo hướng dẫn con người "biết sống và bảo vệ sự sống". Trong lịch sử thế giới không có sự kiện nào cho thấy rằng người phật tử đã làm điều nguy hại đối với tôn giáo khác ở bất cứ nơi nào trên thế giớimục đích truyền bá phật pháp. Người phật tử không xem sự tồn tại của các tôn giáo khác như là một chướng ngại đối với hạnh phúcan lạc của nhân gian.

Thông điệp của Đức Phật là một sự mời gọi tất cả mọi người gia nhập vào tình huynh đệ bao la để tạo sức đòan kết vì an lạchạnh phúc của con người. Ngài đã không có lựa chọn người và chính Ngài cũng không xem mình là người được chọn.

Tăng đòan truyền bá chánh pháp đầu tiên của Đức Phật là những bậc A la hán (những bậc thánh thiện hòan tòan). Họ là những người cao thượng do sự nỗ lực, tinh cần về sự xã ly và tu tập đạt đến sự hòan thiện. Trước khi gởi những đệ tử này, Đức Phật đã khuyên họ như sau:

"Này các tỳ kheo, hãy lên đường vì lợi ích cho số đông, vì an lạc cho số đông, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích an lạc cho chư thiên và lòai người. Này các tỳ kheo, hãy tuyên thuyết giáo pháp cao thượng, để đưa đến một đời sống thánh thiện, hòan tòan thanh tịnh".


Theo lời khuyên này, Đức Phật muốn nói với tất cả mọi người sự khác biệt giữa thiện và ác, Ngài muốn dạy con người phương cách sống để đưa đến một đời sống hạnh phúc an lạclợi ích. Ngài không bao giờ khuyên các đệ tử của mình cải đạo người khác từ tôn giáo này sang tôn giáo khác. Lý tưởng giáo hóa của Ngài là giới thiệu cách sống chân chánh thánh thiện.

Đức Phật không chỉ trích, lên án bất kỳ tôn giáo nào mà trái lại gíac ngộ con người bằng việc chỉ cho họ sự vô ích của hai cực đoan : hành xác và hưởng dục và tránh việc thực hành những điều vô nghĩa hoặc mê tín dưới nhãn hiệu tôn giáo.


1. Tôn giáo chân chánh

Để trả lời cho câu hỏi cái gì cấu thành một tôn giáo đích thực, Đức Phật đã đưa ra một sự khẳng định vô tư rằng bất kỳ nơi nào pháp Tứ diệu đếBát chánh đạo được tìm thấy, nơi nào có người tu tập chân chánh để đạt đến tiến bộ tâm linh thì nơi đó được coi là tôn giáo đích thực. Ngài đã không nói rằng phật giáotôn giáo chân chánh duy nhất trên thế gian này mà ngài lại cổ vũ con người chấp nhậntôn kính chân lý đối với bất kỳ nơi nào chân lý thật sự được tìm thấy. Điều này có nghĩa là chúng ta không nên xem thường các lời dạy hợp lý của những tôn giáo khác. Một thái độ như vậy rõ ràng cho thấy rằng Đức Phật không bao giờ có thành kiến đối với các tôn giáo khác, Ngài cũng không độc quyền nắm giữ chân lý. Ngài muốn chỉ ra một điều duy nhấtchân lý và tất cả các lời dạy của Ngài là dựa trên Tứ diệu đế: chân lý về khổ, nguyên nhân của nó, sự đọan diệt khổcon đường đưa đến sự đọan diệt khổ.

Lúc nào Đức Phật cũng khuyên các đệ tử của Ngài làm những điều cần nên làm, không chỉ vì lợi íchhạnh phúc của riêng mình mà còn vì lợi íchhạnh phúc của những người khác. Ngài đã nói: " Nếu điều đó tốt cho bạn và người khác thì cần nên làm. Ngược lại, nếu điều đó có hại cho bạn và những người khác thì không nên làm". Là một nhà cải cách xã hội, Đức Phật đã khám phá ra cội gốc sâu xa của khổ đau nhân loại – là tham sân si đã cắm sâu trong tâm con người. Do đó, chỉ có sự cải thiện đúng đắn nơi tâm con người mới có thể mang đến hiệu quả. Sự cải thiện dựa trên thế giới bên ngoài bằng thế lực hoặc sức mạnh thì chỉ có thể kéo dài trong một thời gian ngắn, nhưng sự cải cách xuất phát từ chuyển hóa nhận thức bên trong của con người thì lâu bền hơn.

Cái bất thiện có khuynh hướng tăng trưởng tham, sân, si phải được vượt quachuyển đổi bởi sức mạnh của từ bitrí tuệ. Chính ngang qua sự thanh tịnh tâman lạchạnh phúc có thể được mang đến một cách hữu hiệu thông qua tôn giáo.

Phật giáo đã trở thành tôn giáo có tăng đòan truyền giáo đầu tiên trên thế giới. Cách đây gần 2300 năm, nhờ nỗ lực nhiệt tâm của Hòang đế A Dục (305-268 trước Tây lịch) (là người đạt đến đỉnh cao của khát vọng quyền lực, đã từ bỏ chiến tranh bạo động giết người để trở thành một người phật tử thuần thành ủng hộ phật phápvăn hóa phật giáo trong thời gian trị vì của mình). Ngài đã phái các đòan truyền bá chánh pháp, gồm cả con trai và con gái của mình đi khắp đất nước Ấn độ và nước ngòai để mang thông điệp cứu khổ của Đức Phật đến với mọi người. Vận dụng truyền thống cao thượng của Đức Phật, nhà vua đã không bao giờ quên nhắc nhở những sứ gỉa truyền giáo này được chỉ trích hay xem thường bất kỳ tôn giáo khác trong khi đang thuyết giảng phật pháp. Lời khuyên này đã được khắc trên trụ đá của vua A Dục bằng chữ Phạn và ngày nay những tàn tích này vẫn còn được thấy ở Sarnath, Ba La Nại, Ấn Độ.

Trụ đá ghi như sau:

"Chúng ta không nên tôn trọng chỉ riêng tôn giáo của mình và chỉ trích các đạo của những người khác mà nên tôn trọng các tôn giáo khác vì lý do này hay lý do khác . Với việc làm này, chúng ta mới giúp tôn giáo của mình phát triển và làm cho sự nghiệp truyền bá của các tôn giáo khác cũng phát triển. Ngược lại với hành động này, là chúng ta tự chuốc lấy tai họa cho tôn giáo mình và cũng tổn hại cho đạo khác. Bất kỳ ai tôn trọng đạo của mình và chỉ trích các đạo khác, rồi cho rằng làm như vậy là trung thành với tôn giáo của mình, nghĩ rằng "Tôi sẽ mang vinh quang về cho đạo của mình". Vì vậy, sự hòa hợp là tốt nhất: " Hãy lắng nghe tất cả và sẳn lòng lắng nghe những giáo lý mà các tôn giáo khác tuyên thuyết".


Các dân tộc ở Á Châu đã có nhiều lý do để biết ơn vị đại hòang đế này. Là một nhà cai trị, ngài đã làm tròn bổn phận ủng hộ các tôn giáo khác mà không có sự phân biệt.


2. Hòa hợp tôn giáo

Các nguyên lý tôn giáo đều có mục đích phục vụ con người. Nếu có nhóm cá biệt nào của nhân lọai mà không áp dụng các đức tính cao quý được dạy bởi tôn giáo như là từ bi, kiên nhẫn, khoan dunghiểu biết thì sẽ khó cho những người khác chung sống hòa bình.

Đó là điều rất tự nhiên đối với người ích kỷ, xảo quyệt để lợi dụng lòng tốt nhưng hãy để cho tất cả những nhà tôn giáo ngày nay nhớ rằng những người đấu tranh, những cuộc đổ máu dưới danh nghĩa tôn giáo, không theo các nguyên lý tôn giáo và không phục vụ nhu cầu con người. Họ đấu tranh vì lợi ích cá nhân hoặc là quyền lực bởi việc dùng danh nghĩa tôn giáo. Những người tu tập tôn giáo chân chánh không có lý do nào để đấu tranh, họ nên hòa giải các vấn đề của họ trong tánh cách hòa bình. Một tôn giáo chân chánh không bao giờ khuyến khích bất kỳ hình thức bạo động nào dưới bất kỳ hòan cảnh nào. Đồng thời không có sự phân biệt chủng tộc khi người ta thực hành phương pháp tu tập. Người phật tử có thể sống và làm việc với những người khác đạo mà không có bất kỳ thái độ thù địch nào. Người phật tử không bao giờ có máu đổ trong sự phân biệt khác nhau giữa họ với những tôn giáo khác vì lợi ích của tôn giáo.

Ngày nay vì sự hung bạo đã và đang tiếp tục bành trướng dưới danh nghĩa tôn giáo, nhiều người đã trở nên thất vọng khi đề cập đến từ "tôn giáo " .

Chủ nghĩa duy vật, đạo đức giả và sự cuồng tín đang giả trang dưới chiêu bài tôn giáo đã gây ra thảm hại ghê gớm nhất trong lịch sử nhân lọai. Gía trị tôn giáo đích thực là sự biến mất nhanh chóng khỏi tâm con người khi họ đi tìm sự huyền bí sâu kín. Các tôn giáo lớn của thế giới đang lao vào trong vô số hình thức khiến cho một số người nhạo báng tôn giáo . Đã đến lúc các nhà tôn giáo hãy cùng nhau đưa các giá trị tôn giáo vào trong một bối cảnh thích hợp, thay vì chỉ tranh luận trên sự khác biệt của các ý thức hệ hoặc thần học của tôn giáo.

Tôn giáo không nên giới hạn ở sự thờ phượngcầu nguyện. Tôn giáo không có phải là một phương tiện cho sự thuyết giảng suông mà là một phương tiện thực tiễn cho con người họat động vô hại, có đóng góp cho nhân lọai, đạt đến an lạchạnh phúc chân thật.

Các tôn giáo khác nhau có thể có những niềm tin và những quan điểm khác nhau đối với sự khởi đầu và chấm dứt của sự sống, cũng như sự diễn giải khác nhau về việc giải thóat tối thượng. Nhưng chúng ta không nên bận tâm đối với những vấn đề không đồng nhất tạo ra sự xung đột, mâu thuẫn, hiểu lầm, hận thù và đấu tranh.

Có nhiều đức tính chung đủ để các nhà tôn giáo trình bày lý thuyếtthực tập, để con người có thể sống đời sống chân chánh, an lạc và có văn hóa.

Chúng ta không nên xem thường và khiển trách những người khác. Nếu làm như vậy, chúng ta mở đường cho các nhóm chống tôn giáo đang sẳn sàng nhạo bángchỉ trích các tôn giáo. Chúng ta không nên cư sử trong cách như vậy, khi bày tỏ thái độ thù địch của chúng ta đối với các nhà có tôn giáo. Nếu chúng ta làm như vậy, người ta sẽ nói rằng tôn giáo khuyến khích chúng ta chia rẻ.

Phật giáo không cấm đóan việc bày tỏ lòng tôn kính đối với các đạo sư của các tôn giáo khác , cũng không hạn chế họ thăm viếng chiêm bái các nơi thờ phượngthánh tích ngòai phật giáo. Họ có thể bày tỏ sự hợp tác trong khi tu tập các nguyên lý căn bản của phật giáo.

Phật giáo khuyến khích sự hợp táchiểu biết trong các tôn giáo khác. Từ quan điểm này của phật giáo, thì nhãn hiệu tôn giáo không phải là điều quan trọng nhất đối với người được xem là tôn giáo, nhưng một người hướng dẫn đời sống tâm linh thánh thiện, vô hại có thể được xem nhưtôn giáo.

Những người vạch lỗi và chỉ trích phật giáo chỉ có thể làm được điều đó ở mức độ cạn cợt. Họ có thể chỉ trích các pháp môn tu tập truyền thống, các cách thức và lễ nghi nhưng không thể chỉ trích nguyên lý đã được Đức Phật thiết lập. Vì những nguyên lý này là hòan thiện ở mọi thời. Mọi người có thể tu tập được những nguyên lý này nếu họ muốn.

Các phương pháp dùng để giới thiệu giáo pháp của Đức Phật đều khế lý và khế cơ. Đức Phật đưa ra chân lý này ngang qua lí trí và thực nghiệm. Lời dạy này được trình bày rõ ràng, giản dị, gây ấn tượng sâu sắc và rõ ràng giúp cho tâm con người chúng ta không điên đảo và trở nên sáng suốt. Phương pháp này hiển nhiên làm sáng tỏ những nghi ngờ và lọai bỏ những mê tín mù quáng, hạn hẹp. Vì vậy, lời dạy của Đức Phật đã thuyết phục tâm và trí của những người thiết tha tìm cầu chân lý. Quan điểm phật giáo về sự khoan dunghiểu biết cũng đã thuyết phục những nhà tư tưởng lớn, triết gia, nhà duy lý, nhà tư tưởng tự do, nhà theo thuyết bất khả tri… đều đánh giá phật giáo là một phương thức sống an lạc.

Theo Đức Phật, con người do tính tự ngã mạnh mẽ nên phân biệt có sai khác. Khi điều này lắng dịu thì mối quan hệ lành mạnh giữa những con người với nhau sẽ phát triển. Tìm cầu cách sống hòa bình, an lạc phải bắt đầu từ bên trong buông xã những thủ chấp này chứ không phải bên ngoài mà được.

Nếu các nhà tôn giáo ngày nay không thể cùng nhau làm việc trong sự hòa hợp, bình đẳng không có sự phân biệt hoặc thái độ thù nghịch đối với người khác thì hòa bình mà chúng ta nói đến sẽ chỉ là trong giấc mơ mà thôi.

Khi những nhà tôn giáo chân chánh, thật lòng nối vòng tay lớn, hợp nhất những nỗ lực lại với nhau thì sẽ loại trừ được tất cả những tranh luận, và phân biệt giáo lý sai khác, và sẽ cố gắng phổ biến những giá trị tâm linh của những tôn giáo khả kính của chúng ta vì sự an lạchạnh phúc cho con người, mà không phân biệt tín ngưỡng hoặc chủng tộc nào. Chúng ta cũng nên nhớ rằng tôn giáo hiện hữu vì lợi ích của nhân loại và như vậy không nên lạm dụng một cách quá mức trong bất cứ cách nào chỉ vì cho lợi íchvinh quang của cá nhân.


3. Sự hợp nhất

Hãy để những nhà tôn giáo hòa hợp mà không dùng chủ nghĩa quân phiệt tôn giáo. Hãy để họ hợp nhất để chấm dứt tất cả hành động hung bạo và sát nhân trong danh nghĩa chiến tranh. Hãy để các tôn giáo hòa hợp để mang lại tự do cho con người, và để tìm thấy một tôn giáo theo đức tin của họ. Hãy để các tôn giáo đòan kết lại với nhau để loại trừ tư tưởng độc quyền tôn giáo. Hãy để các tôn giáo thống nhất lại không dùng tôn giáo ở nơi buôn bán cho việc thuyết phục những người khác bằng cách tuân theo những phương thức không rõ ràng. Hãy để các tôn giáo hòa hợp lại để tôn trọng niềm tinphương pháp tu tập của người khác, miễn là tín ngưỡng và sự tu tập này không tổn hại và lừa dối mọi người. Hãy để các tôn giáo hòa hợp để tẩy sạch những thái độ thách thức của việc chạy đua tôn giáo không lành mạnh. Hãy để các tôn giáo hòa hợp để loại trừ những đồi bại, những cách tu trái luân lý đang phổ biến trong xã hội hiện đại. Hãy để các tôn giáo hòa hợp để giới thiệu cách sống ôn hòa giữa những tín đồ của họ và khuyên họ không đi vào các cực đoan.

Các nhà sáng lập của mỗi tôn giáo đã có những mục tiêu căn bảnhòa hợp nhân loại – để nuôi dưỡng sự đòan kết, thiện chí và sự hiểu biết giữa tất cả mọi người trên thế giới.

Theo đường hướng này, nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo khác cũng đã tìm cách để phát triển lãnh vực sâu sắc này vì đức tin của người khác. Tuy nhiên, bất hạnh thay, một số tín đồ nào đó của mỗi tôn giáo, vì những lý do ích kỷ cá nhân và tâm hẹp hòi, không độ lượng đã đi ngược với tôn chỉ đích thực của tôn giáo và do vậy đã tạo ra sự hỗn độn, hiểu lầm, phân biệt và không khoan dung.

Chúng tôi tha thiết hy vọng từ sự nhận thức các sự kiện này, một ngày nào đó nhân loại sẽ bắt tay nhau làm việc hòa hợp trong tình huynh đệ bao la vì lợi íchan lạc của tất cả mọi con người trên hành tinh này.

Cuối cùng, kính trọng tôn giáo của người khác sẽ làm nảy sinh sự tự tin cho tôn giáo của chính mình.

{Dịch từ nguyên tác tiếng Anh "The Buddhist Attitude towards other Religions" của Đại lão HT. K. Sri Dhammananda, trong tác phẩm " Các Viên Ngọc Trí Tuệ của phật giáo "( Gems of Buddhist Wisdom), CBBEF, Taiwan, 1996, trang 497-508}

(Đạo Phật Ngày Nay)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1641)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1623)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1026)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1506)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1474)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1666)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1923)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1517)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1349)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1368)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1539)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1138)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1263)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1270)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1692)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1637)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2979)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1820)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1361)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1218)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1274)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1402)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1316)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1917)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1677)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1885)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1812)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2384)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1778)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2111)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2186)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2293)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1849)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1969)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2027)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1951)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2588)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1940)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1879)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1939)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1884)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2154)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2295)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1962)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2072)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1865)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1901)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2405)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2315)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3980)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2468)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3181)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2465)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2042)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1794)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3301)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2340)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3020)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2698)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant