Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Cầu XinHiệu Quả Không?

18 Tháng Hai 201508:10(Xem: 8600)
Cầu Xin Có Hiệu Quả Không?
CẦU XIN CÓ HIỆU QỦA KHÔNG?

Toàn Không



Cầu Xin Có Hiệu Quả Không Thời đức Phật du hoá tại vườn A-nan-Đà trong rừng Tương-thôn-Mại, có một vị Trời Ca-Di-Ni (Vị này từ cung Phạm Thiên đến) với sắc tướng uy nghi, chiếu sáng rực rỡ, lúc đêm gần về sáng đến nơi đức Phật cúi đầu lễ rồi thưa:

- Thưa đức Thế-Tôn, các người cao ngạo nói rằng: “Nếu có người nào chết đi, họ có thể làm cho tự do sinh lên cõi Trời”. Đức Thế-Tôn là đấng Pháp-chủ của Trời và Người, con mong muốn đức Thế-Tôn làm cho người chết được sinh lên cõi Trời.

Đức Phật hỏi:

- Này Ca-Di-Ni, Ta hỏi ông tùy theo sự hiểu biếttrả lời., nếu trong thôn-ấp có người làm ác về thân khẩu (lời nói) ý. Thân làm ác như sát sanh, trộm cướp, tà dâm; miệng nói ác như nói dối, nói lời thêu dệt, nói giọng hai lưỡi, nói lời độc ác; ý nghĩ ác như tham lam không cho mà lấy cướp đoạt cho mình, sân hận thù hằn, nghĩ và hành động tà vạy ngu si; người ấy khi chết, nếu có một người hay một số người van xin, kêu gọi, cầu xin để người ấy được sinh lên cõi Trời, liệu có được không?

Trời Ca-Di-Ni đáp:

- Không thể được, thưa đức Thế-Tôn.

Đức Phật khen:

- Đúng thế, nếu người chết ấy khi còn sống đã làm mười điều ác, mà khi chết lại được sinh lên cõi Trời, việc đó không thể có, hoàn toàn không thể xảy ra; cũng như có người ôm tảng đá lớn ném vào trong hồ nước, nếu có một người hay một số người chắp tay cầu nguyện, van xin, khẩn khoản nài xin v.v... mong cho tảng đá nổi lên mặt nước, như vậy tảng đá có nổi lên không?

Trời Ca-Di-Ni trả lời:

- Không thể được, thưa Thế-Tôn.

Ngài hỏi tiếp:

- Nếu như có người tinh tấn siêng tu, làm mười điều lành, thành tựu diệu pháp; nghĩa là không giết người hại vật, không lấy của người không cho, không dâm đãng. Không nói dối, không nói thêu dệt, không nói hai lưỡi, không nói lời độc ác mà chỉ nói lời hiền hòa và đúng sự thật; không tham lam, không giận dữ thù hằn, không tà kiến ngu si mà chỉ suy nghĩ hành động chân chính. Khi người ấy chết đi, có một số người nguyền rủa, cầu xin mong cho người ấy sa vào Địa-ngục, liệu có được không?

Trời Ca-Di-Ni đáp:

- Thưa đức Thế-Tôn, không thể được.

Ngài khen:

- Đúng thế, nếu một người đã đoạn trừ làm mười điều ác, chỉ làm điều lành, siêng tu diệu pháp; khi người ấy qua đời, nếu có một số người nguyền rủa, cầu xin cho người ấy đọa vào địa ngục thì điều này không thể xảy ra. Ngược lại: người ấy sẽ được sinh đến cõi tốt, cũng như có người đổ dầu mỡ xuống nước, dầu mỡ tự nhiên nổi lên, không thể cầu nguyện, van xin mà dầu mỡ chìm xuống được.

Sau khi nghe giảng: vị Trời phấn khởi, vui vẻ, cúi đầu lễ Phật, rồi trong khoảnh khắc biến mất.

LỜI BÀN:

Cầu xin mà có hiệu qủa, chẳng có ai không cầu, cứ ngồi đó mà cầu nguyện là tự có tất cả, chẳng phải làm việc vất vả, cần gì phải học hành cực nhọc; ta cứ thủng thẳng làm việc, cứ từ từ mà học hành, đâu cần chạy đua với cái đồng hồ cho khổ trí, đâu cần thức khuya dậy sớm cho mệt thân, vì sao? Vì cứ tin tưởng tuyệt đối vào sự cầu nguyện là có, là được tất cả những gì ta mong muốn, một số người nghĩ như vậy; nhưng thử hỏi cứ ngồi đấy mà cầu nguyện, không chịu làm việc, không chịu học hành, không chịu làm các việc thiện, liệu có được kết qủa mà ta mong cầu không?, hay như người ngủ mơ, tưởng có thật, nhưng khi thức dậy chẳng có gì; đó là mong cầu hão huyền, không tưởng, thật là mất thời giờ vô ích.

Nói rằng: Đạo Phật cũng có cầu nguyện, cầu vãng sinh chẳng hạn, như vậy cũng vô ích sao? Không phải thế, sự cầu này nếu ai hiểu đúng ý nghĩa, trước nhất phải làm cácđiều lành, tránh làm các điều ác, thứ đến là trong khi cầu tâm phải trong sạch, thanh tịnh, nhất tâm không loạn tưởng thì mới ứng nghiệm, còn không được như vậy sẽ chỉ như vẹt kêu suốt ngày chẳng ích gì.

Một số người tới chùa lễ Phật để xin phù hộ buôn may bán đắt, xin cho con cháu đỗ đạt v.v..., đây là sự cầu xin không đúng, chúng ta cần sửa lại bằng cách chỉnh đốn việc buôn bán sao cho khách hàng đến tiệm của mình nhiều hơn trước tự nhiên phát triển lên. Bằng cách khuyến khích, hay nhờ người dạy dỗ con cháu chăm học sẽ đỗ đạt, Phật không bao giờ phù trợ cho những kẻ làm ác, lười biếng mà mong cầu được cái nọ cái kia.

Chúng ta không nên tin tưởng một cách mù quáng, như mới nghe người này hay người kia nói chỗ này linh, chỗ kia thiêng là tin liền, mà phải xem xét kỹ lưỡng hư thực ra sao? Như có người nói: “Trong cục đá kia có vàng”, nếu không có gì chứng minh được ta không nên tin. Những loại tin như thế là tin mù quáng, có biết bao nhiêu người vì tin người mất hết gia tài sự nghiệp v.v...

Đến chùa lễ Phật để tỏ lòng tôn kính Phật là bậc hy sinh cả cuộc đời cho sự nghiệp giáo hóa chúng-sanh, chúng ta tôn kính Ngài là bậc giác ngộ, trí tuệ tối thắng nhất, hiểu biết cùng tận tất cả mọi vấn đề trong vũ trụ; chúng ta kính lễ Phật để tỏ lòng biết ơn Ngài đã mở mang sự hiểu biết, phá màn mây đen tối bao phủ lên sự hiểu biết của con người. Chúng ta chỉ xin Ngài gia trì cho chúng ta sự sáng suốt, tính chịu đựng, lòng khoan dung và tâm an bình mà thôi....,.

Toàn Không


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 132)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 192)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 215)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 281)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 193)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 241)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 256)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 259)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 290)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 368)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 602)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 460)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 478)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 569)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 752)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 821)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 851)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 838)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 729)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 709)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 712)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 812)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 833)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 936)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 714)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 609)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 705)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 823)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 707)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 707)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 821)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 847)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 823)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 863)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 893)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 884)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1077)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 951)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1654)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1065)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1210)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 954)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1210)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1115)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1122)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1276)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1546)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2027)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1093)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1352)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1095)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 944)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1062)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1092)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1530)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1282)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1287)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1022)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1181)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant