Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tam Qui Ngũ Giới

27 Tháng Mười 201507:00(Xem: 8817)
Tam Qui Ngũ Giới
TAM QUY NGŨ GIỚI

TT. Thích Chơn Tính

TAM QUY NGŨ GIỚI

I. Tam quy

Trong cuộc sống, hằng ngày mỗi buổi sáng khi thức dậy, chúng ta suy nghĩ làm sao có tiền, có tình, có địa vị, có thức ăn ngon, có ngủ nghỉ thỏa thích. Để được hưởng thụ những thứ đó, chúng ta phải tính toán, làm việc vất vả, thậm chí nhúng tay vào tội lỗi. Rồi một ngày nào đó theo định luật sinh, trụ, dị, diệt, chúng ta nhắm mắt tắt hơi, bỏ lại những thứ mình ham muốn, suốt đời khổ cực tìm cầu. Đến cõi đời này với hai bàn tay trắng, ra đi cũng hai bàn tay trắng, chỉ còn nghiệp theo mình, đưa mình đến một trong sáu đường: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A–tu–la, người và trời. Từ vô thỉ kiếp đến nay, chúng ta quanh quẩn mãi trong sáu đường này; mỗi lần sinh, mỗi lần tử là mỗi lần tạo nghiệp, dẫn đến quả báo đau khổ. Máu và nước mắt của chúng ta, nếu tích tụ lại nhiều như nước biển. Xương và thịt của chúng ta, nếu gom lại chất cao như núi. Vì sao chúng ta phải chịu đau khổ sinh tử trong sáu đường này? Vì vô minh. Như người đi trong đêm tối không biết phương hướng, cứ đi mãi vào con đường hiểm nạn, nên bị sụp hầm té hố. Nếu khôngánh đuốc soi đường, chúng ta sẽ mãi mãi đi vào con đường hiểm không có lối ra. Sáu nẻo luân hồi là những con đường hiểm nạn. Tam bảo là ngọn đuốc soi đường, hướng dẫn chúng ta ra khỏi đường hiểm đến chỗ an vui giải thoát.

Phật là bậc đã giác ngộ, giải thoát khỏi sáu đường, Ngài chỉ cho chúng ta lối ra. Pháp là ngọn đuốc sáng soi đường. Tăng là những vị thầy hướng dẫn chúng ta đi đúng đường. Cho nên, chúng ta cần phải quy y Tam bảo để cứu mình ra khỏi đường hiểm khổ đau, đến chỗ an vui giải thoát.

1. Tam quy là gì?

Tam quy nói cho đủ là quy y Tam bảo.
Quy y: Quy là trở về, quay đầu. Y là nương tựa. Quy ytrở về nương tựa.
Tam bảo: Tam là ba, bảo là báu. Tam bảo là ba ngôi báu Phật, Pháp, Tăng.

Quy y Tam bảochúng ta quay về nương tựa vào Phật, Pháp và Tăng. Như người con vì si mê đã bỏ cha mẹ đi hoang, bị cuộc đời vùi dập, chịu biết bao đau khổ, đói rách; nay quay về nương tựa cha mẹ để được che chở, thương yêuhạnh phúc. Như người lái xe đi lầm đường, quay đầu trở lại đi đúng đường. Như người bị đắm thuyền, trôi dạt trên biển cả, bỗng gặp chiếc thuyền khác đến cứu mạng. Sắp chết chìm trong lòng đại dương được thuyền đến cứu vớt, được sống yên ổn trên thuyền, được đưa vào bờ an toàn sinh mạng thì còn niềm vui nào lớn hơn.

2. Tại sao Phật, Pháp, Tăng quý báu?

a. Phật có những đặc điểm:
- Nhận thức nỗi khổ sinh, già, bệnh, chết của con người, từ bỏ cung vàng điện ngọc, dứt bỏ hưởng thụ ngũ dục, chẳng ham vương vị quyền thế, vào rừng tu hành khổ hạnh, tìm cầu chân lý để cứu độ chúng sinh.
- Chứng được Tam minh: Thiên nhãn minh, Túc mạng minhLậu tận minh. Thiên nhãn minh là có thể nhìn thấu suốt ba cõi sáu đường, thấy biết rõ thật tướng của vũ trụ, nhân sinh. Túc mạng minh là biết được quá khứ của mình và của tất cả chúng sinh từ một kiếp đến vô lượng kiếp về trước. Lậu tận
minh là dứt sạch tất cả mọi phiền não cấu uế.
- Luôn tỉnh giác, làm chủ ba nghiệp. Thân, khẩu, ý trong sạch không có tỳ vết. Thân tướng trang nghiêm với 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp.
- Đầy đủ phước đức, trí tuệ. Có khả năng hướng dẫn chúng sinh ra khỏi biển khổ sinh tử, đạt đến giác ngộ, giải thoát rốt ráo.
- Tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn.

b. Pháp có những đặc điểm:
- Pháp là lời dạy của Phật, là chân lý.
- Pháp giúp ta thấy được nhân quả nghiệp báonguyên nhân của sinh tử luân hồi.
- Pháp là con đường đưa người đến chỗ an vui, hạnh phúcgiải thoát khỏi ba cõi sáu đường.
- Pháp là những phương pháp giúp ta chuyển hóa si mê thành trí tuệ, đau khổ thành hạnh phúc, phiền não thành Bồ đề, chúng sinh thành Phật.

c. Tăng có những đặc điểm:
- Là một đoàn thể sống hòa hợp thanh tịnh (lục hòa).
- Cắt ái ly gia, từ bỏ đời sống hưởng thụ ngũ dục, xuất gia tu học, sống đời phạm hạnh.
- Là người giữ gìn giới luật của Phật. Là mô phạm cho chúng sinh noi gương học tập.
- Xem tất cả mọi người là thân bằng quyến thuộc.
- Sống trọn đờilý tưởng phục vụ chúng sinh, hoằng truyền Phật pháp, hướng dẫn mọi người tu học.
Tóm lại, Phật được gọi là Lưỡng Túc Tôn vì đầy đủ phước huệ. Pháp được gọi là Ly Dục Tôn vì có thể khiến cho hết thảy chúng sinh thoát ly dục lạc. Tăng được xưng là chúng trung tôn vì làm bậc thầy, là khuôn mẫu cho chúng sinh noi theo, bậc tôn quý trong đại chúng. Công đức của Phật, Pháp, Tăng rất nhiều, chúng ta chỉ nêu một vài đặc điểm để dẫn chứng, đủ chứng minh Phật, Pháp, Tăng là quý báu. Ở thế gian này, vàng bạc, ngọc ngà, châu báu tuy quý, nhưng chỉ giúp chúng ta được an vui hạnh phúc tạm thời, không thể giúp chúng ta thoát khỏi sinh tử luân hồi, đau khổ trong sáu đường. Phật, Pháp, Tăng có đủ năng lực hướng dẫn chúng ta ra khỏi sinh tử luân hồi, đến chỗ an vui giải thoát rốt ráo. Cho nên, Tam bảoquý báu, chúng ta cần phải nương tựa.

3. Tam bảo có ba bậc:

Có ba bậc Tam bảo chúng ta cần phải biết

a. Thế gian trụ trì Tam bảo: Là Phật, Pháp, Tăng tại thế gian.
* Phật tại thế gian:hình tượng Phật mà chúng ta tôn thờ.
* Pháp tại thế gian:tam tạng kinh, luật, luận ghi chép trên giấy hoặc băng đĩa hình.
* Tăng tại thế gian: Là những vị xuất gia tu học Phật pháp, sống đời phạm hạnh.

b. Xuất thế gian Tam bảo: Là Phật, Pháp, Tăng ra khỏi thế gian.
* Phật xuất thế gian:đức Phật Thích Ca Mâu Ni và chư Phật đã vượt ra khỏi Tam giới, chứng quả Vô sinh bất diệt.
* Pháp xuất thế gian:giáo pháp của Phật như Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, Lục độ vạn hạnh v.v… có khả năng chuyển phàm thành Thánh, chúng sinh thành Phật.
* Tăng xuất thế gian: Là những vị Tăng đã chứng quả A–la–hán, vượt ra khỏi thế gian, như các ngài Ca Diếp, Xá Lợi Phất, A–nan v.v…

c. Đồng thể Tam bảo: Là chúng sinh cùng thể tánh với Phật.
* Đồng thể Phật bảo: Phật là bậc giác ngộ, có đầy đủ trí tuệ, Tam minh Lục thông. Chúng sinh cũng có đầy đủ trí tuệ và khả năng thành Phật như Phật.
* Đồng thể Pháp bảo: Phật là bậc có đầy đủ đức tính từ bi, nhẫn nhục, tinh tấn… chúng sinh cũng có đầy đủ những đức tính ấy.
* Đồng thể Tăng bảo: Phật có đầy đủ đức tính thanh tịnh, hòa hợp. Chúng sinh cũng có đầy đủ đức tính ấy.

4. Sự Lý quy y Tam bảo:

Quy y Tam bảo có Sự và Lý. Sự là hình thức, Lý là nội dung. Nhờ có Tam bảo bên ngoài, chúng ta mới biết Tam bảo bên trong. Nhờ đức Phật Thích Ca Mâu Ni chúng ta mới ngộ được Phật tính trong mình. Nhờ kinh, luật, luận chúng ta mới biết pháp chân chính trong mình. Nhờ chư Tăng chỉ dẫn chúng ta mới thấy được vị thầy thanh tịnh trong mình. Muốn ngộ Phật tính, trọn đời chúng ta phải tuân theo đức Phật. Muốn chứng pháp chân chính, trọn đời chúng ta phải học kinh, luật, luận. Muốn thấy tự tính thanh tịnh, trọn đời chúng ta phải nương theo sự hướng dẫn của chư Tăng. Chúng ta phải thể hiện đầy đủ Sự Lý quy y Tam bảo thì việc tu học mới có lợi ích thiết thực.

* Sự quy y Phật: Đức Phật là người đã chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vượt khỏi Tam giới, tự tại giải thoát. Chúng ta là những người còn chìm đắm trong bể khổ sinh tử luân hồi sáu nẻo, cần phải nương nhờ vào chiếc thuyền để qua khỏi biển khổ. Người có đủ khả năng để đưa chúng ta đến bờ an vui giải thoátđức Phật. Do vậy, chúng ta phải quy y Phật. Muốn trở thành người Phật tử, chúng ta phải quy y Tam bảo, phải đối trước hình tượng đức Phật để phát nguyện trọn đời nương tựa, phải tự mình dự lễ quy yphát nguyện trước Tam bảo. Có những người quy y Tam bảo bằng cách nhờ người nhà quy y dùm là sai nguyên tắc. Trừ trường hợp người muốn quy y bị bại liệt, bệnh nặng hoặc già yếu không thể đến đàn quy y được. Chúng ta có thể phương tiện bằng cách thu hình hoặc thu âm buổi lễ quy y đem về mở cho họ xem, nghe và yêu cầu họ phát nguyện như trong đĩa ghi âm, ghi hình. Có như vậy, người già, bệnh đó mới thật sự hiểu biết ý nghĩa quy y Tam bảo và mới có lợi ích. (Hiện chùa Hoằng Phápthực hiện đĩa VCD, DVD lễ quy y Tam bảo, quý vị nên tìm xem).

Trường hợp có những em còn nhỏ tuổi, chưa nhận thức được ý nghĩalợi ích của quy y Tam bảo, cha mẹ vì muốn các em gieo duyên với Phật pháp nên đã đưa đến chùa dự lễ quy y. Khi lớn lên các em không có ấn tượng về buổi lễ quy y và cũng không biết những lời nguyện, những giới điều đã thọ nên giảm đi sự lợi ích của việc quy y Tam bảo. Trường hợp này cha mẹ phải có trách nhiệm hướng dẫn con cháu của mình hiểu biết Phật pháp. Mỗi năm một lần nên đưa các em đến đàn quy thính giới, để ôn lại những giới điều đã thọ. Tốt hơn hết nên để các em đủ hiểu biết hãy khuyến khích quy y Tam bảo.

* quy y Phật: Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Hết thảy chúng sinh vốn sẵn đủ đức tướng, trí tuệ của Như Lai, nhưng vì vọng tưởng chấp trước nên chẳng thể chứng đắc. Nếu lìa vọng tưởng thì nhất thiết trí, tự nhiên trí, vô ngại trí đều sẽ hiện tiền”. Đức Phật là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành. Mỗi người đều có đầy đủ Phật tính, đều có khả năng thành Phật. Như mặt trăng luôn tỏa sáng, vì mây che khuất nên tối tăm, chỉ cần gió thổi tan mây mù thì ánh sáng hiện ra. Như viên ngọc bị bụi đất bám vào, chúng ta chịu khó lau chùi, mài dũa thì viên ngọc sẽ hiển lộ.

Tự quy y Phật là quay trở về bản tính giác ngộ, cảnh giới tuyệt đối của tâm linh. Từ vô thỉ kiếp đến nay, chúng ta bị vô minh che lấp Phật tính, gây tạo biết bao nghiệp chướng để phải trả quả, trôi lăn trong vòng luân hồi sinh tử. Ngày nay, chúng ta quay trở lại xem xét chính mình, hằng tỉnh thức, làm chủ thân khẩu ý, ba nghiệp thanh tịnh, dứt sạch các lậu hoặc thì mình chính là Phật, không phải tìm Phật đâu xa.

* Sự quy y Pháp: Pháp là những lời dạy của đức Phật, là chân lý. Pháp được ghi chép trong kinh, luật, luận. Hằng ngày, chúng ta đọc tụng, nghiên cứu học hỏi; trong lúc đọc tụng kinh, ý không nghĩ điều ác, khẩu không nói lời ác, thân không làm việc ác; ba nghiệp chúng ta sẽ được thanh tịnh. Tụng kinh hằng ngày giúp chúng ta thâm nhập kinh tạng, khai mở trí tuệ. Sở dĩ chúng ta hành động sai lầm dẫn đến khổ đau là do suy nghĩ, hiểu biết sai lầm. Chúng ta đọc tụng kinh điển là để có được nhận thức đúng đắn về nhân sinh vũ trụ, về nhân quả nghiệp báo. Từ chỗ nhận thức đúng, chúng ta sẽ có lời nói đúng, hành động đúng. Khi thân, khẩu, ý hành động đúng sẽ đem lại an vui hạnh phúc cho chúng ta trong hiện tại và tương lai.

Ngày nay, ngoài việc đọc tụng kinh điển, chúng ta còn có các phương tiện nghe nhìn Phật pháp như băng cassette, băng video, hoặc đĩa CD, VCD, DVD do quý thầy giảng giải giúp chúng ta dễ hiểu, dễ thâm nhập Phật Pháp. Chúng ta phải thường xuyên trau dồi sự nghiệp trí tuệ này.

* quy y Pháp: Chuyển đổi hiểu biết sai lầm của mình thành hiểu biết chân chính. Sở dĩ chúng ta chìm đắm trong ngũ dục, tham luyến thế gian này là do vô minh, do hiểu biết sai lầm. Ngày nay, chúng ta chuyển hiểu biết sai lầm đó thành cái thấy sáng suốt, chân chính, không còn tham ái, chấp trước, cống cao, dục nhiễm, gọi là tự quy y Pháp.

Trong tâm của chúng ta có đầy đủ các pháp từ bi, trí tuệ, bình đẳng, nhẫn nhục, tinh tấn. Chúng ta phải làm cho những pháp này nảy nở bên trong chúng ta, như phải nuôi dưỡngmở rộng tình thương đến với chúng sinh, phải thường quán sát về nhân duyên, quả báo để thấy rõ thật tướng của vũ trụ nhân sinh. Phải có tâm bình đẳng đối với kẻ oán người thân, kẻ tốt người xấu vì ai cũng có Phật tính. Phải có sức chịu đựng để vượt qua những khó khăn thử thách. Phải tinh tấn tu hành để thành tựu Phật quả. Phải chuyển hóa hiểu biết sai lầm thành hiểu biết chân chính, sống thật sự với giáo pháp để khai mở trí tuệ, gọi là Lý quy y Pháp.

* Sự quy y Tăng: Cung kính vâng lời những vị xuất gia tu học Phật pháp. Những Tăng Ni đã cắt ái ly gia, xa lìa ngũ dục, hiến trọn đời mình tu học, hoằng dương chánh pháp, phụng sự chúng sinh. Khi đã quy y Tăng, không chỉ riêng thầy mình cung kính, mà tất cả chư Tăng đều phải cung kính, vì Tăng là một đoàn thể hòa hợp thanh tịnh từ bốn vị trở lên. Người thầy quy y cho mình chỉ là đại diện cho chư Tăng. Cho nên, dù là Tăng thanh tịnh hay không thanh tịnh chúng ta đều phải cung kính, không khởi tâm phân biệt hoặc phỉ báng. Đức Phật đã nhập diệt, giáo pháp nằm trong ba tạng kinh điển, chỉ có Tăng là người thay Phật hoằng truyền chánh pháp, làm cho hình bóng Tam bảo thường trụ tại thế gian, chúng ta phải hết lòng tôn kính cúng dường.

*quy y Tăng:quay về với tự tính thanh tịnh sẵn có xưa nay của mình. Hằng ngày, do sáu căn tiếp xúc với sáu trần sinh ra phân biệt, chấp trước, đắm mê khiến cho tâm của chúng ta bị ô nhiễm. Tâm ô nhiễm dẫn đến thân ô nhiễm. Do thân tâm ô nhiễm chúng ta tạo nghiệp ác, trở lại làm mê mờ tự tính thanh tịnh của mình. Ngày nay, chúng ta quay về với tự tính thanh tịnh của mình, không phân biệt chấp trước, không khởi tâm tham, sân, si, dần dần tâm của chúng ta trở lại thanh tịnh. Tự quy y Tăng là quay trở về với bản tính thanh tịnh, hòa hợp của chính mình.

5. Lợi ích của quy y Tam bảo:

Muốn trở thành một người Phật tử, bước đầu tiên chúng ta cần phải quy y Tam bảo. Ba ngôi báu Phật, Pháp, Tăng được xem như ba chỗ nương tựa vững chắc nhất cho mình. Khi phát nguyện quy y trước Tam bảo, nhờ năng lực thanh tịnh của chư Phật và sự chứng minh trang nghiêm của chư tôn đức hiện tiền sẽ giúp chúng ta tinh tấn giữ trọn lời nguyện. Có những người sống không quen với những phép tắc, giáo pháp của nhà Phật, nghĩa là họ sống một cuộc đời tự do theo bản năngdục vọng. Nhưng từ khi phát nguyện quy y, họ sẽ tự ý thức được mình đã quy y Tam bảo rồi, cho nên trong cuộc sống thường ngày, họ luôn luôn biết dè dặt, biết cẩn trọng hơn trong từng lời nói, việc làm.

Hiện nay, chúng ta được làm người, sống trong cuộc đời này là nhờ đã gieo nhiều nhân lành ở quá khứ. Điều này trong nhà Phật thường nói tới, đó là luật nhân quả. Nghĩa là chúng ta gieo nhân nào sẽ gặt quả đó. Ví dụ mình gieo nhân xấu chắc chắn sẽ bị quả xấu, gieo nhân tốt sẽ được quả tốt. Cũng như muốn vài năm nữa có cam để ăn, thì ngay hôm nay, chúng ta phải biết trồng nhân cam. Luật nhân quả Phật dạy rất rõ ràng, không có gì mơ hồ cả. Nếu biết quy y Tam bảo đời nay, đời sau chúng ta sẽ không bị đọa vào những đường dữ. Do nhận thức được tầm quan trọng và lợi ích như vậy, chúng ta nhất định phải quy y, phải nương vào Tam bảo.

Còn một điều quan trọng nữa, là nếu biết quy y Tam bảo, biết trở về dưới ánh sáng trí tuệ và từ bi của Phật, Pháp, Tăng, hiện đời chúng ta sẽ có một cuộc sống hết sức bình yên, ngày sau chắc chắn chúng ta sẽ tiến dần lên quả vị Chánh giác.

Tại sao biết quy y Tam bảo thì cuộc sống đời này được bình yên? Điều này cũng rất dễ hiểu. Ví như, trước kia chưa biết quy y Tam bảo, chúng ta cứ mặc sức gây tạo những điều xấu ác. Còn bây giờ biết quy y Tam bảo rồi, chúng ta sẽ không dám liều lĩnh hành động trái phép, không dám làm những việc gây phiền muộnđau khổ cho người. Đã không gây đau khổphiền muộn cho người thì người cũng sẽ không gây đau khổphiền muộn lại cho mình. Vậy cho nên, có quy y Tam bảo, cuộc sống của chúng ta sẽ được an vui và thanh thản hơn.

Còn nói quy y Tam bảo ngày sau chắc chắn chúng ta sẽ tiến lên quả vị Chánh giác là sao? Quả vị Chánh giác tức là quả vị Phật. Người nào muốn hướng đến quả vị Phật không thể không quy y Tam bảo. Vì có quy y Tam bảo, như đã nói ở trước, là nền tảng đầu tiên hết sức căn bản để bước dần lên những nền tảng khác. Có quy y Tam bảo, chúng ta mới thọ trì được Ngũ giới, Bát quan trai giới hay Thập thiện giới, cho đến những giới cao hơn v.v… Thọ giớigiữ giới càng cao, chúng ta sẽ đi gần đến quả vị tối thượng, tức là Phật quả. Cho nên, muốn tiến lên quả vị Phật, chúng ta cần phải có giới nhiều; muốn có giới nhiều, đầu tiên chúng ta phải quy y Tam bảo.

Trong kinh Phật có kể một câu chuyện rất hay. Hồi đó, trong một khu rừng nọ, có một ông tiều phu, ngày nào cũng vào rừng đốn củi, mang về làng để đổi gạo nuôi thân. Một hôm, ông cũng tiếp tục với công việc cũ, nhưng hôm đó xui xẻo cho ông, ông đang đốn củi bỗng nghe tiếng hổ gầm, ông hoảng hốt nhìn dáo dác, chợt thấy từ xa có một con hổ đang nhìn ông với bộ mặt thèm thuồng, giận dữ. Không nghi ngờ gì nữa, ông vội leo lên một cây cao để trốn. Con hổ cũng không bỏ cuộc, nó đứng dưới gốc cây, gặm qua gặm lại mãi. Ông tiều phu trong giờ phút đó hoảng kinh tột độ, chẳng biết phải làm gì để thoát thân, bỗng dưng ông la lớn lên: “Nam mô Phật!”, tức thì, con hổ nghe thấy, tự nhiên hoảng sợ, chạy thẳng một mạch vào rừng. Sau này, nhờ câu niệm Nam mô Phật lần đó mà ông đủ duyên được đức Phật cho xuất gia tu hànhcuối cùng ông cũng được chứng quả A–la–hán.

Chúng ta thấy, ông tiều phu chỉ cần một lần niệm “Nam mô Phật”, sau này nhờ nhân đó gặp Phật tu hành được chứng Thánh quả, huống gì chúng ta bây giờ đã biết Tam bảo, biết quy y! Thế nên, quy y Tam bảo nghĩa là chúng ta đang gieo nhân lành để sau này gặt được quả lành. Hay nói khác hơn, biết quy y Tam bảochúng ta đang gieo nhân để sau này thành Phật.

Vì những lợi ích thiết thựchết sức căn bản ấy của Tam bảo, cho nên chúng ta cần phải quy y.

quy y Tam bảo rồi, bước tiếp theo, chúng ta mới có thể thọ trì Ngũ giới.

II. Ngũ giới

Sau khi chúng ta quy y Tam bảo rồi, cần phải thực hành những lời Phật dạy, những giới điều để ngăn ngừa việc ác, thúc liễm thân tâm, trau dồi đạo đức, nhân cách của người Phật tử. Khi đã quy y Tam bảo, chúng ta chính thứcđệ tử của Phật. Đệ tử Phật phải học theo hạnh Phật, con phải giống cha. Phật là người đạo đức mẫu mực, chúng ta cũng phải có đạo đức. Đạo đức có từ oai nghi giới luật. Do vậy, người Phật tử phải giữ gìn năm giới cấm căn bản là: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu. Năm giới cấm này là nền tảng xây dựng tòa nhà hạnh phúc cho bản thân, gia đìnhxã hội.

1. Không sát sinh: Là không giết chết mạng sống chúng sinh từ loài người đến loài vật. Chẳng những không giết mà còn không được khởi ý nghĩ làm tổn hại sinh mạng. Nếu tự mình giết, hoặc bảo người giết, hoặc thấy người giết mình vui theo đều phạm vào tội sát sinh cả. Vì mạng sống quý báu hơn bất cứ thứ gì tại thế gian. Chúng ta biết đau, biết sợ khi có người đánh giết mình, mình biết chống trả, bảo vệ. Thú vật cũng tham sống, sợ chết. Chúng ta không ỷ mạnh hiếp yếu, không vì khoái khẩu mà giết ăn thịt. Người có tâm sát hại sinh mạng là thiếu lòng từ bi, không tôn trọng Phật tính. Vì tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Người có lòng từ không thể cầm dao giết hại mạng sống, không thể đâm, chặt, cắt, mổ chúng sinh, không nỡ lòng nào nhìn thấy những súc vật vì mình bị chết đau đớn, rên la quằn quại. Giết chết mạng sống là tội ác, là gây nhân quả, oán thù đời này đời khác. Hiện đời, giết người sẽ bị quả báo tù tội, tử hình. Giết những động vật khác chắc chắn sẽ bị quả báo đền mạng trong tương lai. Người giết thú vật, thú vật chuyển kiếp làm người giết lại, khiến cho thế giới này không bao giờ chấm dứt chiến tranh.

Người không sát sinh là không gây nhân quả báo ứng đền mạng, được trường thọ, ít bệnh, lòng từ tăng trưởng, thương yêu chúng sinh như bản thân mình. Đó là giới thứ nhất người Phật tử cần phải giữ.

2. Không trộm cắp: Là không lấy những vật thuộc quyền sở hữu của người, từ cây kim cho đến vàng bạc của cải và những đồ vật quý báu. Nếu người ta không cho mà mình lấy, với bất kì hình thức nào cũng đều gọi là trộm cắp, như cân non, đong thiếu, trốn thuế, tích trữ đầu cơ, hối lộ móc ngoặc, ỷ mạnh cậy thế để thâu đoạt của người… đều là trộm cắp. Đồ vật, của cải mình tạo ra bằng mồ hôi nước mắt mình biết bảo vệ, giữ gìn để sử dụng. Đồ vật của người, người ta cũng cần có để sử dụng, không vì lợi dưỡng của bản thân mà chiếm đoạt của kẻ khác. Một khi chúng ta làm việc bất chính, gây đau khổ cho kẻ khác thì sẽ bị quả báo đau khổ. Người có tâm gian tham trộm cắp hiện đời sẽ bị người khinh chê, bị luật pháp giam cầm tù tội, đời sau làm trâu ngựa để đền trả. Nếu được tái sinh làm người thì nghèo cùng khốn khổ, cơm không đủ no, áo không đủ ấm.

Người giữ giới không trộm cắp được mọi người tin dùng, có thể giao trách nhiệm lớn, bản thân không lo sợ tù tội. Đó là giới thứ hai người Phật tử cần phải giữ.

3. Không tà dâm: Tà dâm là quan hệ tình dục bất chính. Chánh dâm là quan hệ tình dục hợp tình, hợp pháp. Như nam nữ tình nguyện sống với nhau được gia đìnhxã hội công nhận là vợ chồng gọi là chánh dâm. Những hành động dụ dỗ, lừa gạt, cưỡng ép, ngoại tình, bỏ tiền mua… để thỏa mãn tình dục đều gọi là tà dâm. Đến như những người đồng giới tính quan hệ tình dục với nhau cũng là tà dâm. Tội lỗi nhất trong các thứ tà dâm là phá phạm hạnh người giữ tịnh giới, như dụ dỗ quan hệ tình dục với người xuất gia, những người đang thọ trì Bát quan trai giới. Đê tiện nhất trong các thứ tà dâm là việc quan hệ tình dục giữa cha và con. Điều này trên thực tế đã xảy ra. Hành động này tưởng như thú vật mới có, không ngờ một số người cũng hành động như thú vật. Trong gia đình, người vợ hay chồng có tâm tà dâm, sẽ gây mất niềm tin với nhau. Vợ chồng chung sống với nhau mà cứ tưởng nguyệt mơ hoa thì chắc chắn tình cảm vợ chồng sẽ rạn nứt, hạnh phúc gia đình sẽ đổ vỡ, dẫn đến ly dị, gây đau khổ cho con cái.

Để bảo vệ nhân phẩm, bảo vệ sức khỏe, bảo vệ hạnh phúc gia đình, đức Phật dạy người Phật tử không được tà dâm. Đó là giới thứ ba người Phật tử cần phải giữ.

4. Không nói dối: Tâm nghĩ miệng nói trái nhau gọi là nói dối. Nói dối có bốn cách:

a. Nói không đúng sự thật: Là chuyện không nói có, chuyện có nói không; thấy nói không thấy, không thấy nói thấy; nghe nói không nghe, không nghe nói nghe; làm nói không làm, không làm nói làm v.v… nói sai sự thật đều là nói dối. Có những trường hợp có thể nói dốilời nói dối xuất phát từ lòng từ bi, đem lại lợi ích an vui cho người, không làm tổn hại cho ai. Ngoài ra không nên nói dối.

b. Nói thêu dệt:lời nói hoa mỹ trau chuốt làm người nghe đắm nhiễm. Nói những lời ngọt ngào để lợi dụng tình cảm, những lời kích dục, những lời dụ dỗ người sa vào con đường dâm ô, xì ke, trộm cắp v.v…

c. Nói hai chiều: Đến người này nói xấu người kia, đến người kia nói xấu người này; gây chia rẽ, đấu tranh, mất đoàn kết. Những lời nói làm cho bạn bè xa lìa, vợ chồng ly dị, anh em bất hòa, cho đến đất nước này thù oán đất nước kia, chiến tranh lẫn nhau.

d. Nói lời thô ác:lời nói thô lỗ, mắng nhiếc, hủy nhục, chửi tục v.v... làm cho người nghe phải đau khổ, buồn rầu, sợ hãi.
Người không nói dối sẽ được mọi người tin yêu, công việc làm ăn thuận lợi dễ dàng, không gây thù oán với người. Đó là giới thứ tư người Phật tử cần phải giữ.

5. Không uống rượu: Rượu là thứ làm say mê người, làm mất giống trí tuệ, làm tăng sự nóng giận, làm hư hoại cơ thể. Người uống rượu say rất dễ gây tạo các điều tội lỗi như: sát sinh, trộm cắp, tà dâm… Đến những thứ làm say mê như xì ke, ma túy… có hại thân tâm cũng không được dùng. Ngay cả đến những loại thuốc kích dục cũng không được sử dụng. Những chất gây say này làm cho người ta mất sáng suốt dẫn đến hành động tội lỗi. Biết bao tai họa xảy ra cho bản thân, cho gia đình, xã hội đều từ những chất gây say này. Phật tuy cấm uống rượu nhưng cũng có trường hợp cho phép như khi bệnh cần có rượu làm thuốc thì được dùng.

Để giữ gìn hạt giống trí tuệ, bảo vệ sức khỏehạnh phúc của bản thân, đức Phật dạy người Phật tử không được uống rượu. Đó là giới thứ năm người Phật tử cần phải giữ.

Tóm lại, năm giới cấm này là nền tảng của trí tuệ, đạo đức, tình thươnggiải thoát. Người có nhận thức rõ ràng nhân quả tội báo mới giữ giới luật được, nên gọi là người có trí tuệ. Người không phạm vào các hành động trộm cắp, tà dâm, uống rượu là người có đạo đức. Người không giết hại thú vật để ăn thịt là người có tình thương. Người giữ giới luật nghiêm túc sẽ không gây tạo ác nghiệp, không bị quả báo luân hồi trong ba ác đạo, là nhân của giải thoát, vì có giới sẽ có định, có định sẽ có huệ. Giới định huệ là nền tảng của giải thoát. Như vậy, người giữ giới luật đầy đủ là người có trí tuệ, có đạo đức, có tình thươnggiải thoát. Một người giữ trọn vẹn năm giới này là một người an vui hạnh phúc. Một nhà giữ trọn vẹn năm giới này là một nhà được hạnh phúc. Một xã hội giữ trọn vẹn năm giới này là một xã hội hạnh phúc. Một đất nước giữ trọn vẹn năm giới này là một đất nước hạnh phúc. Cả thế giới giữ được năm giới này thì thế giới biến thành Tịnh độ.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2008)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 3003)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2621)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3525)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3344)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4190)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3700)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
(Xem: 4259)
Khi chúng ta mới học lần đầu rằng cứu cánh của sự tu tập đạo Phật có tên gọi là Nibbana (Nirvana, Niết-bàn),
(Xem: 2344)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
(Xem: 3491)
Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn.
(Xem: 4181)
Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác.
(Xem: 3958)
“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.
(Xem: 2893)
Trong các kinh thường ví chân tâm là viên ngọc, như viên ngọc như ý, viên ngọc ma ni, lưới Trời Đế Thích…Bài kệ này chỉ thẳng Viên Ngọc Tâm
(Xem: 3362)
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
(Xem: 3506)
Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào?
(Xem: 4561)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 3894)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”
(Xem: 4783)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 4054)
Mất 11 năm khổ công tầm đạo, Đức Phật Thích Ca đã đạt đại giác ngộ sau 49 ngày quyết tâm thiền định dưới cội cây bồ đề.
(Xem: 3039)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”...
(Xem: 3793)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao?
(Xem: 3936)
Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ, tánh tướng tịch nhiên, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt.
(Xem: 3105)
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phậtdi giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.”
(Xem: 3626)
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN).
(Xem: 4462)
Đức Phật, một nhân vật lịch sử 3000 năm về trước, ra đời tại Bắc Ấn, là bậc giác ngộ toàn triệt, là bậc đạo sư với nghi biểu đặc biệt xuất hiện ở đời.
(Xem: 3737)
Con người sanh ra để hưởng thụ qua lục dục như tài, sắc, danh, thực, thùy (Ngủ nghỉ), .v.v. Con người trải qua một chu kỳ già, bệnh và cuối cùng là chết.
(Xem: 2270)
Nguyên bản: Teachings On The Eight Verses On Training The Mind. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Anh dịch: Thupten Jinpa. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 2630)
Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được.
(Xem: 3031)
Kinh Tiểu Duyên (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp.....
(Xem: 2732)
Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất.
(Xem: 4600)
“Thiên đường có lối sao chẳng đi Địa ngục không cửa dấn thân vào”
(Xem: 4933)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 2839)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê,
(Xem: 5292)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 2862)
Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật.
(Xem: 3303)
Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất.
(Xem: 4387)
Nguyên tử giải phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
(Xem: 4955)
Luân hồinhân quả là hai sự kiện tương quan. Bởi chúng sanh còn nghiệp trái của nhân quả thiện ác nên mới bị luân hồi.
(Xem: 4718)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 3257)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa...
(Xem: 4564)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 4292)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 6156)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(Xem: 3514)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(Xem: 4033)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(Xem: 6024)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(Xem: 5424)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(Xem: 4068)
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
(Xem: 33133)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 3183)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(Xem: 4159)
Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này
(Xem: 4741)
Kinh Biệt Giải Thoát Giới - tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya
(Xem: 3097)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(Xem: 3818)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(Xem: 3558)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(Xem: 6560)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 2775)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
(Xem: 3233)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
(Xem: 4591)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
(Xem: 3462)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant