Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bảo Vệ Chánh Pháp

22 Tháng Hai 201506:00(Xem: 9018)
Bảo Vệ Chánh Pháp
BẢO VỆ CHÁNH PHÁP

Chân Thường


Bảo Vệ Chánh Pháp1- Hầu hết những nhà nghiên cứu kinh điển Phật giáo đều công nhận rằng bản kinh Phạm Võng (Brahmajala Sutta) là một trong những văn bản Phật học quan trọng vào bậc nhất của toàn bộ hệ thống văn học Phật giáo, bất kể tông phái hay dòng truyền thừa. Quả thật, kinh Phạm Võng – được các dịch giả phương Tây chuyển ra tiếng Anh là The Perfect Net, Tấm Lưới Toàn Hảo – chính là bản tóm lược đầy đủ một cách có hệ thống được trình bày hết sức khoa học về mọi luận điểm căn bản của tư tưởng giới Ấn Độ thời Đức Phật. Bản Việt dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu chỉ trong phạm vi 13.000 từ đã thuật lại toàn bộ những ý kiến chủ đạo của các vị luận sư thời bấy giờ đối với những vấn đề luôn luôn làm con người băn khoăn về vũ trụ, về nhân sinh, về hiện tượng, về bản chất… Toàn thể những luận điểm ấy không ra ngoài những chủ trương như thường kiến hay đoạn kiến, hữu biên hay vô biên, hữu nhân hay vô nhân, ngẫu nhiên hay quyết định… Không chỉ tư tưởng giới cổ Ấn Độ, mà đến tận ngày nay, 26 thế kỷ đã trôi qua, hầu như những vấn đề tương tự vẫn khiến con người phải loay hoay với những câu hỏi và những lời giải đáp chưa ra khỏi nội dung kinh Phạm Võng; trong đó, những kiến giải thời cổ đã bị Đức Phật liệt vào hạng tà kiến. Có thể thấy giải thưởng Nobel Vật lý năm 2011 được trao cho những công trình nhằm xác định vũ trụ đang tiếp tục giãn nở cũng thể hiện sự loay hoay của tư tưởng con người về những vấn đềĐức Phật đã giải quyết từ thế kỷ thứ năm trước Tây lịch. Nói lên điều này không phải để ca ngợi kinh Phạm Võng, mà để thấy rằng kinh Phạm Võng là một trong những bản kinh không thể bị bỏ qua khi cần thảo luận về các vấn đề Phật học. Riêng đối với vấn đề bảo vệ Chánh pháp, điều quan trọng không nằm ở nội dung chính của kinh Phạm Võng, mà nằm ở bối cảnh khiến Đức Phật đã tuyên thuyết nội dung Phạm Võng, những điều được thuật lại ngay ở đầu bản kinh, liên quan đến thái độ của người con Phật trước những lời khen tiếng chê đối với Đức Phật, đối với giáo pháp của Ngài, và đối với Tăng đoàn do Ngài đã xây dựng.

2. Kinh Phạm Võng thuật rằng khi Đức Phật cùng khoảng 500 vị Tỳ-kheo đi trên đường từ Rajagaha đến Nalanda thì có hai thầy trò của một vị Bà-la-môn đi chung đường. Suốt dọc đường, vị Bà-la-môn ấy kiếm hết mọi lời lẽ để hủy báng Đức Phật, hủy báng giáo pháp của Đức Phật, và hủy báng Tăng đoàn do Đức Phật đã xây dựng. Trả lời thầy của mình, người đệ tử của vị Bà-la-môn ấy cũng kiếm hết mọi lời lẽ để tán dương Đức Phật, giáo pháp, và Tăng đoàn của Ngài. Vì họ cùng đi chung đường với các Tỳ-kheo, thái độcâu chuyện của họ không qua khỏi cặp mắt và đôi tai của chư Tỳ-kheo. Đêm xuống, Đức Phật cùng các Tỳ-kheo đến nghỉ tại một hành cung của nhà vua; hai thầy trò Bà-la-môn kia cũng đến nghỉ ở đấy. Tại chỗ nghỉ, hai thầy trò họ tiếp tục cuộc nói chuyện, cũng với thái độ như lúc trên đường. Khi đêm vừa tàn, chư Tỳ-kheo thức sớm, đến tại hội trường, thảo luận với nhau về thái độ của hai thầy trò Bà-la-môn. Có lẽ đã có những vị cảm thấy vui mừng trước những lời tán dương và cũng có những vị bực tức trước những lời hủy báng. Giữa lúc chư Tỳ-kheo còn bàn luận thì Đức Phật cũng đến tại hội trường. Sau khi hỏi để biết rõ nội dung thảo luận của chư Tỳ-kheo, Đức Phật dạy,

Này các Tỷ-kheo, nếu có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay hủy báng Tăng, các ngươi chớ có vì vậy sanh lòng công phẫn, tức tối, tâm sanh phiền muộn. Này các Tỷ-kheo, nếu có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay hủy báng Tăng, và nếu các ngươi sanh lòng công phẫn, tức tối, tâm sanh phiền muộn, thời như vậy sẽ có hại cho các ngươi”.…. “… khi có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay hủy báng Tăng, các ngươi phải nói rõ những điểm không đúng sự thật là không đúng sự thật: ‘Như thế này, điểm này không đúng sự thật; như thế này, điểm này không chính xác; việc này không có giữa chúng tôi; việc này không xảy ra giữa chúng tôi’”1 và “Này các Tỷ-kheo, nếu có người tán thán Ta, tán thán Pháp, hay tán thán Tăng, thời các ngươi không nên hoan hỷ, vui mừng, tâm không nên thích thú. Này các Tỷ-kheo, nếu có người tán thán Ta, tán thán Pháp hay tán thán Tăng, mà nếu các ngươi hoan hỷ, vui mừngthích thú thời sẽ có hại cho các ngươi. Này các Tỷ-kheo, nếu có người tán thán Ta, tán thán Pháp hay tán thán Tăng, thời các ngươi hãy công nhận những gì đúng sự thật là đúng sự thật: ‘Như thế này, điểm này đúng sự thật, như thế này, điểm này chính xác, việc này có giữa chúng tôi, việc này đã xảy ra giữa chúng tôi’1.

Tiếp theo, Đức Phật mới giải thích rõ những gì khiến kẻ phàm phu có thể vì thế mà tán thán Đức Phật; và để làm rõ những điều ưu việt trong giáo pháp của bậc Đạo sưĐức Phật đã tổng kết những tà kiến của toàn thể tư tưởng giới đương thời, điều được thể hiện trong nội dung chính của kinh Phạm Võng.

3 Vài năm trở lại đây, Phật giáo ngày càng nhận được sự trân trọng của xã hội và nhất là của hệ thống chính trị đương đại. Gần đây nhất, trong cuộc Đại lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam được tổ chức tại Sóc Sơn ngày 7-11-2011, vị đại diện cho Chính phủ đã trang nghiêm đảnh lễ trước ảnh tượng Đức Phậtthành tâm niệm hồng danh Đức Bổn Sư trước sự cảm kích và trân trọng không chỉ của những người có mặt trong buổi lễ mà còn của tất cả những khán giả may mắn theo dõi đầy đủ trên màn ảnh truyền hình trực tiếp. Điều đó cho thấy tư tưởng Phật giáo đang ngày càng củng cố được chỗ đứng trong xã hội Việt Nam hiện đại sau một thời kỳ dài bị hiểu lầm. Đó có thể là kết quả của những nỗ lực thể hiện giáo pháp của Đức Phật mà người Phật tử Việt Nam đã kiên trì thực hiện suốt mấy chục năm qua. Đó cũng có thể là điều tất nhiên, vì tư tưởng Phật giáo vốn là một thành tố không thể tách rời trong tư tưởng văn hóa truyền thống của dân tộc; cho nên khi xã hội Việt Nam hướng tới an lạc và hòa bình thì việc xiển dương và phổ biến tư tưởng Phật giáo là điều cần thiết bởi lẽ tư tưởng Phật giáotư tưởng hòa bình, thái độ Phật giáothái độ khoan dung, quan điểm Phật giáoquan điểm nhân bản, quan điểm “nhất thiết duy tâm tạo” mà tâm ở đây rõ ràng là tâm chúng sinhchúng sinhtrạng thái thích hợp nhất với việc xây dựng một xã hội an lạc chính là con người. Tuy nhiên, hướng tâm đến lời dạy của Đức Phật trong kinh Phạm Võng, trước thái độ trân trọng đó, người Phật tử Việt Nam cũng không nên hoan hỷ, vui mừng, hay sinh tâm thích thú; mà càng thấy cần phải sống đúng với những lời dạy của Đức Bổn Sư, để tư tưởng Phật giáo thật sự tác động tích cực hơn đến xã hội, từ việc nhỏ đến việc lớn. Có lẽ thái độ thích hợp nhất của người Phật tử Việt Nam là, thấy Phật giáo được xã hội trân trọng, càng thêm trân trọng xã hội.

4 Nhưng cũng vài năm gần đây, thỉnh thoảng lại thấy xuất hiện một số hiện tượng bị coi là mang tính bài bác hay biếm nhẽ Phật giáo; cũng có cả những hiện tượng vận động quần chúng Phật tử bỏ đạo để tìm đến một chỗ dựa tâm linh nơi các truyền thống tôn giáo hay tín ngưỡng khác. Cũng đã có những ý kiến bình luận các hiện tượng ấy, xuất phát từ người Phật tử hoặc từ các vị chức sắc Phật giáo. Có những ý kiến ôn hòa nhưng cũng không thiếu những lời lẽ thể hiện sự bực tức. Đâu đó đã có những chỉ trích việc giáo phái nào đó tìm cách khuyến dụ người Phật tử Việt Nam cải đạo. Khi một vài nhóm người sử dụng các hình tượng liên quan đến Phật giáo trong việc quảng cáo hay tiếp thị, cũng đã có những ý kiến phê bác khá nặng nề; chẳng hạn, việc một cơ sở kinh doanh bia rượu nào đó sử dụng hình ảnh Đức Phật Di Lặc trên nhãn bia, một quán bar nào đó lấy tên The Funky Buddha Bar…

5 Việt Nam hiện nay đang xây dựng một xã hội dân chủ. Đất nước Việt Nam là một cộng đồng đa dân tộc. Người Việt Nam theo nhiều tôn giáo khác nhau.
Phật giáo được xã hội trân trọng thì cũng chỉ là một thành tố của cả cộng đồng dân tộc. Trong mọi xã hội, luôn có những con người thật sự văn minh, biết trân trọng những giá trị khác biệt với những giá trị mà mình theo đuổi, biết đối xử với những người có ý kiến khác biệt với mình bằng lòng khoan dung; nhưng cũng không thiếu những con người hẹp hòi, thiếu một nền tảng văn hóa, chưa hòa nhập được với tinh thần đa tạp của một cộng đồng đa dân tộc. Những người ấy có thể hằn học trước sự kiện Phật giáo đang được xã hội quan tâm, có thể do thiếu hiểu biết, có thể do có khả năng hài hước quá cao, có thể bị xuy động bởi một nhãn quan thiển cận, có thể không ý thức được việc rằng mình làm là thể hiện một trình độ bán khai về văn minh, có thể chỉ biết đến mình và đoàn thể của mình mà không biết đến người khác và đoàn thể của người khác… đã có những hành vi hay thái độ thiếu tế nhị, kể cả là thật sự ác ý. Tuy nhiên, không vì vậy mà người Phật tử cần phải bày tỏ sự bực tức của mình, đúng như lời Phật dạy trong kinh Phạm Võng, “… nếu có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay hủy báng Tăng, các ngươi chớ có vì vậy sanh lòng công phẫn, tức tối, tâm sanh phiền muộn. Thay vào đó, thái độ đúng của người Phật tử có lẽ là phải củng cố hơn nữa bản lĩnh nhẫn nhục và tâm thái khoan dung của mình, đồng thời xem lại mình đã thật sự xứng đáng với sự trân trọng của xã hội hay chưa, nếu chưa, phải cố gắng làm thế nào cho xứng với sự trân trọng ấy; được như thế, sau đó, hẳn là những ai chưa trân trọng đúng mực đối với Phật giáo phải nghĩ lại, nhưng đó cũng không phải là điều mà người Phật tử phải quan tâm.

6 Ở một góc độ nào đó, đúng là người Phật tử Việt Nam hết sức cần tự nhìn lại mình. Đã có những khẳng định cho rằng khi Phật giáo được quảng bá trong một xã hội nào đó, tư tưởng hiền thiện của đạo Phật sẽ tác động đến xã hội ấy, khiến con người trong xã hội ấy sống với nhau hòa hợp hơn, thuần phong mỹ tục nơi đó được phát triển hơn. Nhiều Phật tử Việt Nam vẫn tự hào rằng Phật giáo đã đến với dân tộc này từ hai ngàn năm qua và suốt thời gian ấy luôn đồng hành cùng dân tộc. Trong vài chục năm trở lại đây, các phong trào xây chùa dựng tượng đúc chuông được thực hiện đều khắp; số lượng kinh sách, băng đĩa có nội dung Phật học được phát hành nhiều hơn bao giờ hết; những cuộc hành hương chiêm bái Phật tích trong và ngoài nước được tổ chức quy mô; những cuộc lễ lạt, rước xách tốn kém được tiến hành với sự tham dự của hàng chục ngàn đến hàng trăm ngàn người. Thế nhưng có phải xã hội Việt Nam đã từ hòa hơn, đã phát triển được thuần phong mỹ tục, đã bảo vệ và phát triển được về mặt văn hóa? Người ta vẫn thấy không ít chùa chiền Tăng sĩ khuyến khích các hoạt động mang tính cách mê tín dị đoan như đốt vàng mã, xem xăm quẻ, bói toán, lên đồng, cầu hồn. Chưa kể nội dung Phật học trong các sách báo băng đĩa phát hành tràn lan không qua hiệu đính của cơ quan thực sự có thẩm quyền về Phật học, đã làm rộ lên những nghi vấn về tính trí tuệ của đạo Phật. Trong xã hội, những chuyện đau lòng về hiếu đạo, về sự vô cảm, về thái độ nhẫn tâm, về tính độc ác của con người, hiện tượng sa đọa chẳng những của giới trẻ mà cả của người trưởng thành và quan chức… hình như không thiếu.

7 Giáo pháp của Đức Phật vô cùng rộng lớn và có tới tám vạn bốn ngàn cửa để vào. Tuy nhiên, ở tầm vóc của người Phật tử tại gia, việc giữ được đủ năm giớithực hành mười điều thiện hàng ngày cũng không phải là dễ dàng; và chẳng phải ai cũng dám khẳng định mình không hổ thẹn khi đứng trước tượng Đức Bổn Sư. Thế nhưng người Phật tửtín tâm sẽ không vì thế mà thoái thất bồ-đề tâm của mình; vì người ấy biết rằng mình hoàn toàn có khả năng mỗi ngày mỗi sửa chữa chút ít, với kiên tâm trì chí thì cũng sẽ có lúc đặt được chân vào dòng Thánh. Việc tự điều chỉnh hàng ngày mọi hành vi thân khẩu ý của mình chính là việc bảo vệ Chánh pháp một cách tích cực nhất của người Phật tử tại gia; chứ không cần bảo vệ Chánh pháp bằng việc phê bác những người thiếu thiện chí, biếm nhẽ đạo Phật; hoặc tìm cách đối phó với những khuyến dụ cải đạo đến từ các tôn giáo khác. Trong tập tiểu luận What Makes You Not a Buddhist? của ngài Dzongsar Jamyang Khyentse2 có một câu rất đáng chú ý rằng, “… là một Phật tử bạn không có nhiệm vụ hay bổn phận phải cải đạo phần còn lại của thế giới sang đạo Phật”. Quả thật, giáo pháp của Đức Phật không cần ai bảo vệ, vì tất cả những lý thuyết căn bản của Phật giáo không phải là vật sáng tạo của Đức Phật mà là những luật tắc thường hằng trong cõi đời được Đức Phật phát hiện với sự truy vấn nghiêm ngặt và miên mật của Ngài. Đó là những sự thật luôn luôn có sẵn trong trời đất chẳng ai có thể cướp đoạt hay xóa bỏ được mà cần phải bảo vệ. Điều cần bảo vệ chính là cái tâm của người con Phật, biết kiên trì thực hành những lời Phật dạy để đem lại an lạc cho chính mình và những người chung quanh mình trên tinh thần tôn trọng những giá trị của người khác.

Trong mùa Phật thành đạo, người Phật tửtín tâm càng phải ghi nhớ những lời dặn dò của Phật trước khi Đức Bổn Sư vào Niết-bàn rằng, Này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp do Ta chứng ngộ và giảng dạy, các ngươi phải khéo học hỏi, thực chứng, tu tập và truyền rộng để cho phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người? Chính là Bốn Niệm xứ, Bốn Chánh cần, Bốn Thần túc, Năm căn, Năm lực, Bảy Bồ-đề phần, Tám Thánh đạo phần. Này các Tỷ- kheo, chính những pháp này do Ta chứng ngộ và giảng dạy, mà các ngươi phải khéo học hỏi, thực chứng, tu tập và truyền rộng để phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng của đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người3. Đó mới thật là bảo vệ Chánh pháp.

Chú Thích

1. Kinh Phạm Võng, bản kinh số 1 trong tuyển tập Kinh Trường Bộ tập I, Hòa thượng Thích Minh Châu dịch.

2. Tác phẩm đã được dịch ra tiếng Việt với tựa đề“Thế nào là phật tử”, dịch giả Trần Tuấn Mẫn và Nguyễn Thị Tú Oanh, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành, quý IV năm 2011.

3. Kinh Đi t Niết-Bàn, bản kinh cuối cùng của tuyển tập Kinh Trường Bộ tập I, Hòa thượng Thích Minh Châu dịch.


Chân Thường
(TC. Văn Hóa Phật Giáo)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12247)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11014)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10904)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13349)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11772)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13652)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11887)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11156)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12172)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12380)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20565)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12398)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12433)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11699)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11565)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22387)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13550)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29622)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11536)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16706)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 11981)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16814)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12054)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17904)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12618)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13141)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14735)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22590)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10567)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14032)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13865)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13696)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13841)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13904)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14813)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13832)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18400)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22778)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15382)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17302)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22395)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14241)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12562)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11144)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17746)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13187)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13088)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18777)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17165)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13485)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12892)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14691)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14637)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15841)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13496)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27409)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13211)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16673)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
(Xem: 21367)
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
(Xem: 18798)
Bồ Tát Quan Thế Âmhiện thân của Từ Bi, Ngài phát đại nguyện thực hiện từ bi cùng tận trong đời vị lai, nếu chúng sinh còn đau khổ. Vì chỉ có từ bi mới giải trừ đau khổ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant