Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bài Học Giác Ngộ

19 Tháng Hai 201507:28(Xem: 8271)
Bài Học Giác Ngộ
BÀI HỌC GIÁC NGỘ

Thích Thông Phương


Bài Học Giác NgộLâu nay, đa số Phật tử quan trọng ngày Phật Đản Sinh hơn là ngày Phật Thành Đạo. Đúng ra, ngày Phật Thành Đạo quan trọng hơn vì nhân giác ngộ thành đạo nên Phật mới chuyển pháp luân nói pháp, rồi có Phật pháp, có đạo Phật và có Phật tử, đó quả là một ngày rất trọng đại. Cụ thểThánh tích Bồ-đề Đạo tràngẤn Độ là một Thánh tích thiêng liêng nhất của đạo Phật vẫn còn tồn tại. Vì vậy, nhân ngày Phật Thành Đạo năm nay, quý thầy sẽ nói về đề tài: BÀI HỌC GIÁC NGỘ để nhắc nhở tất cả thấy được ý nghĩa, giá trị của ngày trọng đại này.

I/ Ở Trong Trần Lao Mà Vượt Khỏi Trần Lao.

Đây là bài học mà chúng ta nhận hiểu được từ ngay cuộc đời của đức Phật. Khi Ngài còn là Thái tử sống trong cung vua, từ trên vua cha đến ngay như công chúa Da Du Đà La không ai muốn Ngài đi tu cả. Điển hình là vua cha luôn tìm đủ mọi phương cách cột chân Ngài ở lại để giữ ngai vàng, vì vậy khi Ngài vừa lớn lên là đã vội lập gia đình cho Ngài và tạo nhiều thú vui, ngõ hầu làm cho Ngài quên lãng ý nguyện xuất gia. Nhưng dù ngũ dục đầy đủ, ngai vàng chờ sẵn vẫn không cột giữ được Ngài. Thái tử đã vượt ra bỏ lại hết tất cả, chỉ bao nhiêu đó thôi là chúng ta lạy Ngài suốt đời vẫn chưa đủ.

Quí vị thử kiểm lại bản thân mình xem đã bị cột mấy phần so với sự trói buộc của Ngài? Ít hơn, nhẹ hơn đối với Ngài nhiều lắm! Vậy mà chúng ta không thể vượt ra được. Còn Ngài, nhiều sự trói buộc như thế mà vẫn vượt qua hết.

Ngài đã vượt qua hết mọi chướng ngại, vượt thành xuất gia để giải quyết việc lớn của thế gian này là vấn đề sanh tử, không phải chỉ riêng cho bản thân mình mà còn vì ích lợi cho tất cả chúng sinh. Đó đúng là ý nghĩa ở trong trần lao mà vượt khỏi trần lao. Và sức mạnh đó mới là sức mạnh tinh thần phi thường, còn sức mạnh của người lực sĩ mạnh nhất thế gian vẫn không thể sánh.

Nhà thiền có kể câu chuyện về Thiền sư Thâm và Hòa thượng Minh. Hai vị trên đường đi đến sông Hoài nhìn thấy một người lưới cá, chài được con cá to. Con cá ấy từ trong lưới nhảy vọt ra về sông lại, Thiền sư Thâm nhìn thấy bèn thốt: “Giỏi thay! Này huynh Minh, giống hệt một nạp tăng.” Hòa thượng Minh nói: “Đâu bằng buổi đầu đừng vào trong lưới thì hay hơn.” Khi ấy, Thiền sư Thâm nói: “Huynh Minh, ông vẫn còn chưa ngộ.”

Hòa thượng Minh vẫn còn chưa tỉnh. Đến khi hai huynh đệ về nhà trọ nghỉ đến khuya thì Hòa thượng Minh mới nhận ra được điều ấy.

Quí vị chọn trường hợp nào? Như có nhiều người cũng nghĩ như Hòa thượng Minh là buổi đầu đừng bị mắc lưới để khỏi tốn công vượt ra thì hay hơn. Lý luận này mới nghe thì hay nhưng nghĩ lại thì chưa. Chỗ thực tếchúng ta đang ở trong lưới mà từ trong đó nhảy ra được mới hay, còn nếu chỉ lý luận thì suốt đời cũng ở trong lưới. Vì vậyThiền sư Thâm mới nói: “Huynh Minh chưa ngộ.”

Đây là điểm để chúng ta thấy dù lý luận cao siêu hay trí thức thế gian cũng rất dễ gạt người. Vừa mới nghe điều gì đó thấy có lý nhưng thực tế ngẫm lại thì không phải. Bởi thực tế chúng ta đang ở trong cái lưới sanh tử trần lao, điều quan trọng là chúng ta khéo vượt ra được thì mới quý, nếu chỉ lo lý luận: “Phải chi trước kia đừng vào hay hơn, vào làm gì để ngày nay phải nhọc tìm cách thoát ra …,” nếu lý luận như vậy suốt đời thì vẫn ở mãi trong lưới.

Chúng ta thường bị lý luận gạt gẫm, bởi trí thức thế gian thì luôn ở trong chiều tương đối, nên nhiều khi nghe thì thấy hợp lý nhưng cần phải xét sâu để khỏi bị lý luận gạt. Xin nhắc tất cả là chúng ta đang ở trong lưới trần lao, trong bùn lầy sanh tử đây mà vượt ra được thì đó mới là người giỏi. Đây là “bài học” để tất cả chúng sanh sau này thấy gương sáng đi theo. Cho nên, Đức Phật ra đời không giống các vị thần linh hiện xuống liền thành Phật, mà Ngài ở thế gian giống như một con người, cũng có sinh ra lớn lên, có cha mẹ, có hưởng ngũ dục mà vẫn từ đó vượt ra. Qua đó, chúng ta thấy rằng Đức Phật là một con người như mọi người mà vẫn giác ngộ, chúng ta bắt chước theo thì cũng sẽ giác ngộ được như Ngài. Nếu như Ngài ở trên trời hiện xuống liền thành Phật thì ngày nay sẽ không có mấy ai tu để cầu giác ngộ thành Phật hết vì nghĩ : ‘Ngài là siêu nhân, là Thánh thiện quá, còn ta là phàm phu thì làm sao theo được!’. Ở đây, Ngài hiện thân là một con người khéo biết vượt qua trần lao.

Như câu chuyện Ngài dạo bốn cửa thành, khi thấy cảnh người già, người bệnh, người chết liền thức tỉnhhình ảnh giải thoát của vị Sa-môn đã thúc đẩy Ngài quyết tâm xuất gia cầu giải thoát. Ngược lại, chúng ta thấy cảnh người già, bệnh, chết ấy được bao lần rồi? Và tỉnh được bao nhiêu? Chính nhờ Đức Phật đi trước, Ngài để lại đầy đủ công thứccon đường đi đến giác ngộ, vậy mà chúng ta vẫn chưa chịu đi. Còn lúc ấy, Đức Phật chưa có gì phải tự mò mẫm, và Ngài băn khoăn thắc mắc tìm phương tiện để giải quyết vấn đề.

Ngài thấy người sống trên đời tại sao lại phải già, phải chết …, nên hỏi Sa-nặc: “Có phải ai trên đời này cũng đều phải bị già bệnh rồi chết không?”, Sa-nặc đáp: “Thưa Thái tử, đúng như vậy.”

Khi ấy, Ngài nghĩ là phải tìm cho ra phương cách giải quyết vấn đề này, không chịu cúi đầu chấp nhận. Đó, chính là chỗ khác người của Ngài. Còn chúng ta vì thấy ông bà tổ tiên của mình đều như vậy thì mình cũng như vậy là việc thường nên dễ chấp nhận. Còn Ngài thì không chấp nhận như vậy mà quyết tìm con đường vượt ra, quyết tìm cho được nguyên nhân đưa đến sanh già bệnh chết, tìm được nguyên nhân thì có cách giải quyết và Ngài đã thành công. Chính lý 12 nhân duyên mà Ngài đã phát minh là nguyên nhân sanh tử, nếu cắt được 12 nhân duyêngiải thoát.

Như vậy để thấy rằng đức Phật đã mở đường đi và để lại công thức cho chúng ta rồi nên chúng ta chỉ còn một việc là đi theo bài học giác ngộ đó. Tức là không để đời mình phải đắm mê trong sanh tử này mãi, người giác khác người mê là ở chỗ biết vươn lên. Đó là điểm thứ nhất.

II/ Buông Tất Cả Tìm Cầu Bên Ngoài Mà Quay Trở Về Tìm Lại Chính Mình.

Đọc lịch sử Đức Phật, chúng ta thấy khi Ngài vượt thành xuất gia tìm đạo, ban đầu, trên đường đến Tỳ-xá-ly Ngài học đạo với tiên nhân Bạc-già-bà. Nhóm này tu khổ hạnh như: Có vị đứng co chân suốt ngày, có vị nằm trên gai, đất hay miểng chai, có người nằm trên lửa … Quý vị so thấy chúng ta không thể sánh kịp với công hạnh cần khổ của những vị ấy, chỉ tiếc là các vị chưa có chánh kiến, chưa tìm được con đường giải thoát rõ ràng.

Khi ấy, Ngài hỏi: “Các ông tu khổ hạnh như vậy để cầu quả báo gì”, tiên Bạt-già-bà đáp: “Chúng tôi cầu tiêu nghiệp khổ được sanh lên cõi trời.” Ngài nói: “Chư thiên tuy hưởng nhiều sự vui nhưng khi phước hết cũng phải chịu luân hồi, cũng lạc vào trong khổ thú. Lối tu của các ông là đem cái khổ để đổi lấy cái vui giả tạm. Ví như khách hàng hải vì của báu mới chịu khó nhọc ra biển, vị quốc vương vì đất đai mới đem binh đánh dẹp các nơi, nhưng của báu và đất đai không phải lúc nào chúng cũng thuộc về mình. Vậy lý tưởng của các ông không phải là con đường giải thoát cứu cánh.”

Ý nói những người đi buôn ngoài biển cốt tìm của báu, và vị vua đem quân mở rộng bờ cõi để có đất đai. Nhưng sự giàu cóuy quyền chỉ được thời gian nào thôi, rồi cũng tắt thở, cũng bỏ lại tất cả, nào có đem theo được gì! Đó chỉ là cái vui giả tạm, chưa phải là con đường giải thoát cứu cánh, nên Ngài chưa mãn nguyện, lại từ giã và tiếp tục đi tìm đạo giác ngộ.

Kế đó, Ngài đi đến gặp đạo sĩ A-la-la-ca-lan dạy về pháp thiền Vô sở hữu xứ. Đối với thế gian thì đây là pháp thiền rất cao, người Phật tử chúng ta chưa chắc đã đạt đến trình độ này. Bởi đây là kiếp sống chót của đức Phật nên chỉ trong thời gian ngắn là Ngài đã học hết sở học, giáo lý của vị thầy. Và Ngài cũng chứng đạt được đến trạng thái định Vô sở hữu xứ của ông thầy, tức thấu suốt và thực chứng những điều thầy đã dạy chứ không phải chỉ trên lý thuyết. Cuối cùng, Ngài đến hỏi: “Này đạo hữu Ca-la-ma có phải đây là mức tận cùng của giáo lýđạo hữu nói rằng đạo hữu đã chứng ngộ bằng trí tuệtrực giác và sống ẩn náu trong sự thành đạt ấy chăng?”. Đạo sĩ đáp: “Đúng vậy, đây chính là giáo lý mà tôi đã chứng ngộẩn náu trên sự thành đạt ấy. Đây là mức sâu rộng tận cùng của giáo lý.” Ngài nói: “Hỡi đạo hữu, tôi đã chứng ngộ và cũng ẩn náu trong sự thành đạt ấy rồi.”

Nếu ở thế gian, khi người học trò chỉ trong thời gian ngắn mà đã học hết chỗ sở trường của thầy thì sao? Thì người thầy sẽ không vuiđố kỵ. Thường người thầy thế gian luôn để lại một ít nghề phòng thân mà không dạy hết cho học trò, nhưng vị đạo sĩ này rất tốt, nghe học trò trình bày như thế mà không khởi lòng ganh tị, lại vui vẻ mời học trò ở lại để cùng chia phần giáo hóa.

Đạo sĩ nói: “Hỡi này đạo hữu, tôi lấy làm hoan hỉ! Thật vậy tôi vô cùng hoan hỉ được gặp một người bạn đồng tu đáng kính như đạo hữu.”

Đây là điểm mà từ người cư sĩ cho đến người xuất gia nên học bài học này. Nếu có được một người đồng tu như vậy là quá hay rồi! Nhưng thường người ta hay đố kỵ, sợ người sau bằng mình hay hơn mình, đó là điều không tốt. Ở đây, ông mừng vui nói: “Giáo lý mà tôi đã chứng ngộtuyên bố thành đạt, đạo hữu cũng chứng ngộ bằng tuệ giácẩn náu trong sự thành đạt ấy thì chính tôi cũng chứng ngộ bằng tuệ giáctuyên bố thành đạt. Và như vậy giáo lý mà tôi đã biết thì đạo hữu cũng biết, ngược lại giáo lýđạo hữu biết thì tôi cũng đã biết, tôi như thế nào thì đạo hữu cũng như thế ấy, vậy hãy đến đây để cùng nhau hợp sức dẫn dắt nhóm đạo sĩ này.”

Đây là điều khiến chúng ta phải kính nể. Thấy học trò bằng mình vẫn không có lòng đố kỵ, lại mời ở lại để cùng nhau giáo hóa, đó chính thật là tâm của người thầy.

Bấy giờ, Thái tử không chấp nhận vì Ngài thấy giáo lý này chưa đáp ứng được con đường giải thoát rốt ráo nên Ngài lại từ giã đi tìm gặp đạo sĩ Uất-đầu-ca-ma-la-tử, có chỗ gọi là Uất-đầu-lam-phất tại khu rừng ngoài thành Vương-xá. Vị đạo sĩ này dạy cho Ngài pháp định Phi tưởng phi phi tưởng xứ, là pháp định cao nhất thế gian. Cũng như lần trước, học không bao lâu là Ngài học hết của ông thầy và chứng đạt được thiền định cao nhất, song Ngài cũng thấy đây chưa phải là rốt ráo viên mãn. Nên trong kinh Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả, Ngài có kể một đoạn là Ngài hỏi vị tiên nhân: “Môn định Phi tưởng phi phi tưởng mà đạo trưởng nói là có ta hay không có ta? Nếu không có ta thì chẳng gọi là phi phi tưởng, nếu có ta thì cái ta ấy là có biết hay không có biết? Nếu không biết thì đồng với gỗ đá, còn có biết thì tâm đó phan duyên, tâm đã theo duyên thì tất có nhiễm trước mà đã nhiễm trước thì đâu phải là giải thoát.” Vị tiên nhân nghe Ngài nói im lặng không trả lời. Ngài biết chưa rốt ráo nên cuối cùng cũng từ giã luôn.

Đây cũng là những bài học giác ngộ cho chúng ta. Nếu người ham danh một chút thì gặp trường hợp này liền cho là đủ rồi liền ở lại, vì được vậy là mình đã ngang bằng thầy rồi, được chia phần giáo hóa với thầy. Nhưng Ngài thấy rằng nếu ở lại thì không tiến nữa, chưa đến được giải thoát.

Riêng Ngài khi nhận thấy lối tu chưa rốt ráo liền sẵn sàng bỏ đi không hối tiếc, cuối cùng Ngài từ giã hết và quay lại chính mình. Rồi Ngài tự mình tu tập bằng con đường khổ hạnh suốt 6 năm, thấy chưa có kết quả lại buông bỏ và đến cội Bồ-đề ngồi thiền định suốt 49 ngày đêm và cuối cùng được giác ngộ viên mãn.

Do vậy, mà sau này Ngài thường tuyên bố là “Ta học đạo không thầy”. Vì đạo này không ai chỉ cho Ngài, những lối tu khác đều có thầy hướng dẫn thì Ngài đã từ giã tất cả. Sau khi thành đạo, trên đường từ Bồ-đề đạo tràng đến thành Già-da, vị đạo sĩ Upaka tu khổ hạnh nhìn thấy vẻ mặt của Phật sáng sủa khác người nên cảm kích liền hỏi: “Này đạo hữu, ngũ quan của đạo hữu thanh tịnh, nước da của đạo hữu thật tươi sáng. Đạo hữu xuất gia với ai? Thầy đạo hữu là ai? Và đạo hữu truyền bá giáo pháp của ai?”. Đức Phật liền nói bài kệ đáp: “Như Lai đã vượt qua tất cả, đã thông suốt tất cả, đã thoát ly tất cả mọi ràng buộc, từ bỏ tất cả không còn ái nhiễm, tự mình từ bỏ tất cả thì không còn ai là thầy.”

Ngài học đạo không thầy, nhờ vượt qua tất cả nên Ngài đã thành tựu. Tức là phải từ ngay nơi mình phát ra, sự giác ngộ chân thật không có từ bên ngoài. Nghĩa là không ai có thể thay thế điều này cho mình được, giác ngộtừ tâm giác ngộ chứ đâu thể tìm bên ngoài. Ông thầy đâu thể giác ngộ cho mình được; Kinh điển cũng không giác ngộ cho mình được. Quí vị có thể học kinh điển nhưng giác ngộ không có trong kinh điển. Kinh điển chỉ là văn tự ghi chép lại sự giác ngộ chứ không có giác ngộ trong đó, những mẫu tự ABC thì đâu thể giác ngộ. Con người hiện nay dễ lầm điều này, chỉ lo phân tích trên kinh điển, trên ý nghĩa giác ngộ… nhưng không tìm sự giác ngộ nơi chính mình. Đó là đi xa, là mất gốc nên tìm hoài không thấy giác ngộ. Đôi khi trong quá trình tìm và nghiên cứu nhiều sanh lao nhọc nên chẳng những không thấy giác ngộ mà còn thêm phiền não. Như quí vị đọc tụng kinh hay dụng công nhiều quá sẽ bị mệt mỏi, nếu khi ấy ai nói động đến thì dễ nổi sân hơn lúc bình thường.

Khi chúng ta đã hiểu được ý nghĩa giác ngộ chân thật không có từ bên ngoài, thì phải tìm lại ngay tự tâm của mình mới có sự giác ngộ. Bởi tánh giác ở ngay nơi tự tâm của mỗi chúng sanh, tức là tự tánh của chúng sanh vốn thanh tịnh, sáng suốt không hề ô nhiễm nên gọi là Phật tánh, chính đó là chỗ mà mỗi người cần phải phát minh để sống trở lại, là chỗ giác ngộ chân thật. Còn tìm những sự giác ngộ bên ngoài thì chỉ là phương tiện, là giác ngộ trên chữ nghĩa.

Nên trong kinh Vô Thượng Y, phẩm Như Lai Giới có đoạn nói: “Tất cả các đức Như Lai thuở xưa, lúc còn ở địa vị tu nhân khi chưa thành quả Phật, thì các ngài đã biết chúng sanh giới tự tánhthanh tịnh mà bị khách trần phiền não làm vẩn đục. Các đức Như Lai đều nghĩ rằng khách trần phiền não chẳng vào trong tánh thanh tịnh của chúng sanh được, bợn nhơ phiền não này ngăn che bên ngoài là do sự suy tư hư vọng tạo thành. Chúng ta vì tất cả chúng sanh mà nói pháp vi diệu sâu xa để trừ phiền não chướng cho họ. Chúng ta chẳng nên sanh tâm khinh thường mà vì lòng đại lượng đối với các chúng sanh khởi tâm tôn trọng, cung kính như bậc thầy. Khởi Bát-nhã, khởi trí huệ, khởi đại bi, Bồ-tát y theo năm pháp này được vào ngôi vị bất thối chuyển.”

Tức lúc còn là Bồ-tát tu hành Phật nhân thì biết rõ tự tánh của chúng sanhthanh tịnh, có sẵn tánh Phật nên các Ngài không dám khinh chúng sanh. Ngài nói chúng ta chẳng nên khinh thường một ai, đối với các chúng sanh khởi tâm tôn trọng … được vậy là Bồ-tát vào ngôi vị bất thối.

Nếu các vị hiểu sâu nghĩa đó thì sống với nhau rất tốt, không dám khinh ai. Giống như Bồ-tát Thường Bất Khinh trong kinh Pháp Hoa không dám khinh ai vì Ngài thấy ai cũng đều có tánh Phật. Mọi người sở dĩ có sự khác biệt là do mê lầm của nghiệp riêng, Phật tánh thì không có tướng này, tướng kia, không có tướng lớn nhỏ, đen trắng nên đâu có sai biệt, vậy đâu dám khinh ai. Mỗi khi có niệm khinh thường ai thì tánh Phật bị che rồi, đây là lẽ thật.

Điều này không phải do Ngài suy tư rồi lý luận ra mà chính nó là như vậy, Ngài giác ngộ nó là như vậy, lẽ thật là như vậy. Mỗi chúng sanh và tất cả chúng ta đều có tự tánh thanh tịnh sáng suốt dù bị những bợn nhơ che đậy nhưng phải biết nó chỉ che bên ngoài chớ không dính gì trong đó hết. Chính vì không dính nên khi mọi người tu hành tương ứng thì liềncó giác ngộ, nếu có dính mắc thì nó làm hư mất tánh giác, rồi lại bị vô thường nên khó có giác ngộ. Còn đây dù có bợn nhơ nhưng chỉ dính bên ngoài giống như cái gương, bụi chỉ dính bên ngoài mà không liên quan gì đến ánh sáng của gương, nếu chúng ta lau thì gương sáng trở lại. Thường chúng ta hay dùng ngôn ngữ thế gian khi lau gương thì nói “Tôi lau gương” lời này chưa chính xác. Nếu gương mà lau được thì nó không còn là gương. Lau được thì nó sẽ mất sáng của gương, là lau được cái sáng luôn rồi. Sự thật lau là lau bụi chớ không phải lau gương nhưng ngôn ngữ thế gian thường nói là lau gương, dùng từ đúng là phải nói “lau bụi”. Bụi dính bên ngoài, lau hết bụi thì gương sáng chớ đâu phải lau gương. Thì đây cũng vậy, bợn nhơ phiền não dính bên ngoài, những phiền não bị gạn lọc thì tự tánh thanh tịnh tự hiện chớ không phải do mình tu mà nó sáng.

Nhà thiền thường nhắc đến tinh thần “vô sở đắc”(không chỗ được). Tức không phải do mình tu mà được, thấy có được là bị bệnh. Nhà thiền luôn nhắc nếu cho mình “được” là bị bệnh, bởi đâu có gì đâu là được. Chỉ gạn những cái dối ra và tánh giác đã sẵn có. Mỗi người đều có tự tánh thanh tịnh, là cái gốc sáng suốt cao quý như vậy, tại sao mình không sống với cái cao quý mà lại sống với bợn nhơ bên ngoài rồi than thở? Cho nên, chư Phật luôn nhắc chúng sanh phải hằng nhớ lại tánh thanh tịnh sáng suốt sẵn có của mình để trở về nguồn giác.

Vậy, sự giác ngộ này không thể tìm cầu bên ngoài mà phải tìm ngay chính mình, nên Thượng sĩ Tuệ Trung ở Việt Nam là người cư sĩ nhưng tâm giác ngộ đạt đến trình độ cao siêu, đó cũng là tấm gương để nhắc Phật tử đừng mặc cảm mình là người cư sĩ khó tu đến giác ngộ. Ngài Tuệ Trung vốn là một vị tướng, tuy bận nhiều việc mà vẫn giác ngộ được. Thượng sĩ có làm bài kệ “Thị Chúng” để nhắc nhở mọi người cũng giống như ý này:

Thôi tìm Thiếu Thất với Tào Khê
Thể tính sáng tròn chẳng từng mê.
Nào ngại xa gần trăng vẫn chiếu
Thấp cao gió thổi chẳng ưa chê.
Ánh thu đen trắng tùy duyên hiện
Sen nở hương nồng chẳng dính nhơ.
Khúc nhạc xưa nay nên gảy hát
Chớ tìm Nam Bắc với Đông Tây.

Thôi tìm Thiếu Thất với Tào Khê, thể tính sáng tròn chẳng từng mê. Ý nói không cần phải tìm đến Thiếu Thất nơi Tổ Bồ-đề-đạt-ma ngụ hay chốn ở của Lục Tổ cho xa xôi, bởi thể tính sáng tròn chưa từng mê, không phải chạy tìm bên ngoài.

Nào ngại xa gần trăng vẫn chiếu, thấp cao gió thổi chẳng ưa chê. Tức trăng lúc nào cũng chiếu mà không nói xa gần. Gió thổi cũng chẳng chê chỗ cao chỗ thấp, vẫn bình đẳng.

Ánh thu đen trắng tùy duyên hiện, sen nở hương nồng chẳng dính nhơ. Sen từ trong bùn mọc lên, hương sen tỏa ra không dính trong bùn. Để chỉ tánh giác của mình ở trong bùn lầy trần gian nhưng không dính. Tìm là tìm chỗ đó chớ đừng tìm xa xôi.

Khúc nhạc xưa nay nên gảy hát, chớ tìm Nam Bắc với Đông Tây. Khỏi phải tìm đâu xa hết. Không cần chạy qua đến Thiếu Lâm Tự hay đến Tào Khê để tìm giác ngộ nơi đó, cũng vậy không phải qua đến Bồ-đề đạo tràng để tìm giác ngộ, đó chỉ là di tích. Chúng ta đến viếng lễ di tích của Phật Tổ thôi chớ không phải tìm giác ngộ ở những nơi đó, mà chính vì giác ngộ chỉ có ở chính mình. Đó là nhắc chúng ta phải soi lại chính mình chớ chạy tìm bên ngoài, thể tánh vốn tự tròn sáng chưa từng mê, phải nhớ để sống trở lại. Tức là khách trần phiền não không thể đến được trong đó, cho nên phải buông những cái bên ngoài, những cái hư dối thì tự nó sáng.

Vì vậy, Ngài nhắc chớ tìm Nam Bắc với Đông Tây. Chạy tìm bên ngoài thì không thể thấy được mà càng lạc. Nhắc chúng ta tìm giác ngộ là tìm ngay tự tâm của mỗi người chớ không thể tìm ở bên ngoài. Chính cái tâm đi tìm đó là chỗ cần tìm chớ không đâu khác. Chúng ta lo đi tìm cái này cái kia, giờ chỉ cần tìm lại chính cái tâm đi tìm đó là xong. Nhưng mọi người thường lo đi tìm lung tung bên ngoài còn chính cái tâm đi tìm này lại bỏ quên, trong khi chính nó là gốc. Nhà thiền gọi đó là đem tâm đi tìm tâm, còn ngay cái tâm đi tìm nhớ lại nó là liền sáng, là xong việc. Tóm lại, chúng ta phải xoay lại ngay tự tâm chính mình.

Phật dạy trong kinh Kim Cang, Bồ-tát phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên sanh tâm không có chỗ trụ. Còn chúng ta phát tâm thì phải có chỗ này chỗ kia để trụ, ở đây dạy là không có chỗ trụ. Mà sanh tâm không chỗ trụ tức là sao? Tức là buông hết tất cả để trở về chính mình. Có chỗ trụ là bên ngoài, sanh tâm không chỗ trụ tức là buông hết không trụ nơi nào cả, trở về chính mình thì đó là tâm Bồ-đề.

Học đạo rất là đơn giản nhưng chúng ta không chịu đơn giản, muốn trụ chỗ này chỗ kia chỗ nọ, trụ đủ thứ hết thành phức tạp. Khi buông hết thì sẽ trở về chính mình. Như trong kinh Kim Cang nói Bồ-tát không trụ nơi nào cả tức là an trụ. Tâm mà không trụ chỗ nào hết là an trụ, mà an trụ là tâm Bồ-đề. Vì có trụ là còn đang chạy nên phải trụ, còn buông hết không chỗ nào trụ thì tự nó an trụ, đó là tâm Bồ-đề. Học giác ngộ là học trở lại chỗ này thôi chứ không gì khác.

III/ Quyết Tiến Không Lùi.

Đây là điểm quan trọng. Đọc sử Phật, khi Ngài tu khổ hạnh không mãn nguyện nên cuối cùng nhận bát cháo sữa của nàng Sujata rồi đến tòa kim cang ngồi và phát nguyện: “Nếu không thành đạo thì quyết không rời khỏi đây.” Đó là bài học giác ngộ lớn cho chúng ta. Chúng ta nên học theo Ngài nhưng cũng nên học vừa sức thôi, phải liệu sức. Vì đây là cuộc đời cuối cùng của Ngài trước khi thành Phật nên sức mạnh tròn đủ, chắc chắn thành Phật. Còn sức chúng ta chưa bằng Phật mà muốn bắt chước thì không nổi đâu. Nhưng ở đây chúng ta học tinh thần quyết tiến không lùi đó, chớ đừng bắt chước hôm nay về ngồi thiền không thành đạo thì không đứng dậy. Phải lượng sức mình.

Người phát tâm học đạo tu hành cần học tinh thần tiến tới, tức học đạo càng lâu, càng sâu thì phiền não càng bớt chớ không thể thêm. Học đạo lâu phải thêm sức tỉnh giác chớ không thể thêm sức mê, đó là tinh thần phải học theo. Phải tiến lên chớ không được lùi. Chúng ta tự kiểm học đạo được mấy năm rồi thì phiền não thêm hay bớt? Nếu không bớt hoặc đứng tại chỗ cũng không được, ít nhất là phải nhích tới một chút chớ không được đứng tại chỗ. Đó là tinh thần cần phải học theo.

Phải quyết tiến, khi gặp khó khăn khổ nạn chừng nào thì chí mình càng kiên cố, đừng gặp khó khăn rồi buông xuôi, mà càng gặp khó thì chí mình càng cứng chắc, càng vững để vươn lên như cá nhảy khỏi lưới. Nên mỗi năm khi lễ kỷ niệm ngày Phật thành đạo thì chúng ta phải thế nào? Là phải tiến sâu thêm vào đạo, rồi đem tâm đó để dâng lên cúng Phậtlễ Phật thì mới thật có ý nghĩa. Mỗi người phải luôn nhớ bài kệ Tứ Hoằng Thệ Nguyện để luôn luôn sách tấn chính mình.

- Chúng Sanh Vô Biên Thệ Nguyện Độ: Chúng sanh dù nhiều vô biên không có bờ mé nhưng phải thệ nguyện độ hết chứ không phải độ nửa chừng, không phải nhìn ai đó không thích rồi không độ, đó mới là tinh thần tiến tới. Tinh thần Bồ-tát là dù chúng sanh thuận hay nghịch cũng đều nguyện độ hết, chớ không phải chúng sanh này nghe lời nên độ, còn chúng sanh kia không nghe lời nên không độ. Phải tập mình có cái tâm rộng lớn để vươn lên và đây cũng là tinh thần phá ngã. Phật tử trong đạo tràng học theo tinh thần như vậy thì sống với nhau rất là vui vẻ. Chúng sanh nguyện độ hết thì huynh đệ trong đạo tràng chẳng lẽ không độ? Do đó lâu lâu có buồn vui chút chút thì nên xóa, hiểu được vậy rồi thì luôn tiến chớ không lùi.

- Phiền Não Vô Tận Thệ Nguyện Đoạn: Thệ nguyện độ hết phiền não, độ sạch chớ không phải độ một chút, phần còn lại thì để dành. Có nhiều Phật tử sợ độ hết phiền não rồi buồn, theo tinh thần này thì phải độ sạch hết, chưa hết thì chưa thôi. Thông thường ở thế gian nếu ai đó làm cho mình bực tức nóng giận thì hay nói là tôi chỉ nhịn lần thứ nhất thôi chứ lần hai lần ba thì không nhịn nữa, vì người đó chỉ đoạn lần thứ nhất chứ những lần sau thì không đoạn nữa, còn đây là phải nguyện đoạn dứt. Đó là tinh thần quyết tiến không lùi.

- Pháp Môn Vô Lượng Thệ Nguyện Học: Nghĩa là pháp môn nhiều vô lượng thệ học hết, không phải học chút ít rồi cho là đủ mà phải học hoài, không được học nửa chừng. Có người thấy mình học vài bộ kinh là thấy đủ, nhưng đây thì càng học càng thấy mình còn mê, không có là tinh thần tự mãn nên sẽ tiến bộ luôn luôn.

- Phật Đạo Vô Thượng Thệ Nguyện Thành: Dù Phật đạo vô thượng nhưng chúng ta vẫn quyết phải thành tựu, không phải chỉ tu cầm chừng để được quả báo cõi trờimãn nguyện. Phải quyết tu đến thành Phật đạo mới thôi.

Đây là bốn thệ nguyện rộng lớn nhằm mở rộng lòng người tu hành để luôn tiến không lùi.

Kinh Duy Ma có câu: “Trực tâm thị đạo tràng”, tức tâm ngay thẳng chất trực đó là đạo tràng. Nếu tất cả khéo học đạo như vậy thì mau có kết quả tốt. Trực tâm tức là tâm ngay thẳng. Từ khi mới phát tâm cho đến hết cuộc đời hiện tại chỉ thẳng một tâm là bảo đảm học Phật rất tinh tiến. Nhưng thường thì chúng ta không được như vậy. Khi mới phát tâm thì rất dũng mãnh, đến nửa chừng thì cong cong trở lại. Người tu mới quyết tâm xuất gia rất mạnh, không ai cản được, nhưng vào chùa ít lâu rồi thì một hai cái nhỏ nhỏ cản cũng được nữa, đó là tâm đã cong rồi. Chúng ta phải giữ “Trực tâm là đạo tràng”, ngay đây là đạo tràng chớ không phải tìm đạo tràng đâu xa hết. Học Phật là học theo tinh thần đó, cũng là những bài học giác ngộ. Quý Phật tử thấy ba điểm đó chúng ta học suốt đời đủ chưa?

Đây xin nhắc lại lời của Thiền sư Đạo Nguyên: “Học đạo là học tự ngã, học tự ngã là để quên tự ngã.” Nói học đạo chủ yếu là học tự ngã chớ không gì hết! Tức là để sáng tỏ lại chính mình, rõ được mê lầm của mình, biết cái nào là thật - không thật, cái nào là lầm - không lầm để rõ lại chính mình. Nếu chúng ta sáng tỏ chính mình thì càng sáng đạo, còn chúng ta chỉ lo học điều này điều kia, tìm ở đâu đâu có khi tìm hoài không thấy đạo.

Khi đã rõ được cái mê tức là giác, bởi vì giác là giác cái mê. Phật cũng từ chúng sanhthành Phật, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tức đều có tánh giác, điều này đã được đức Phật xác nhận trong kinh Đại Bát Niết-bàn. Vậy thì ai ai cũng đều có cội nguồn giác ngộ, trí tuệ sáng suốt như Phật, chớ không phải là chúng sanh tối tăm này. Và quê hương của chúng ta là tánh giác, còn tánh chúng sanh không phải là quê hương của chúng ta. Nên chúng ta hiện giờ cần phải trở về quê giác chớ không thể sống mãi trong kiếp lầm mê, tức là không thể làm khách phong trần, lang thang xứ người mãi. Như trong kinh Pháp Hoa nói chàng cùng tử gốc là con ông trưởng giả chứ không phải là người đi xin ăn, là sở hữu cả gia tài đồ sộ, vì vậy mà cần trở về nhận lấy gia tài đó, đừng để đi xin ăn từng ngày.

IV/ Tóm Kết.

Xin nhắc lời Phật vừa thành đạo đã thốt lên: “Xuyên qua nhiều kiếp sống luân hồi, Như Lai thênh thang đi và đi mãi. Như Lai đi tìm mãi mà không gặp, Như Lai đi tìm mãi người xây cất nhà này. Lặp đi lặp lại mãi đời sống thật là phiền muộn. Này hỡi người thợ làm nhà, Như Lai đã tìm được người rồi, từ nay ngươi không còn cất nhà cho Như Lai được nữa. Tất cả sườn nhà đều gãy, cây đòn dông của người dựng lên cũng bị phá tan. Như Lai đã chứng quả vô sanh bất diệtNhư Lai đã tận diệt mọi ái dục.”

Đó là lời “tuyên ngôn chiến thắng” trong kiếp luân hồi. Ngài kể là đã đi qua và đi mãi trong nhiều kiếp sống luân hồi. Giống như chúng ta hiện nay đã đi được mấy lần rồi? Thật ra chúng ta đã đi không biết bao nhiêu lần rồi, nhưng đã thấy đủ chưa? Vẫn còn muốn tiếp tục nữa!!!

Ngài nói là Như Lai đi tìm mãi mà không gặp người thợ cất căn nhà, bởi vậy mà đời sống này cứ lập đi lập lại. Cứ mỗi lần sanh ra rồi chết, sanh ra rồi chết mãi. Đến đây Ngài lại nói: “Này hỡi người thợ làm nhà, Như Lai đã tìm được ngươi rồi, không thể cất nhà cho Như Lai nữa.” Ngang đây Ngài giải thoát không còn sanh tử nữa, dứt khoát không xây nhà ngũ uẩn này. Ngài chứng vô sanh, tận diệt mọi ái dục nên mới gọi là tuyên ngôn chiến thắng trong kiếp luân hồi. Tất cả người học Phật nhất định phải có một lần tuyên ngôn chiến thắng này. Trên lịch sử nhân loại đây là lần đầu tiên Đức Phật đã mở màn đạo giác ngộ trên thế gian, Ngài là con ngườilịch sử, còn những vị Phật như Phật Ca-diếp, Phật Nhiên Đăng thì đã quá xa, nên sự thành đạo của Ngài là sự kiện rất trọng đại.

Đây là điều nhắc cho tất cả chúng ta chớ có đi theo con đường mê lầm này mãi, mà phải quay đầu trở lại không để cho kẻ làm nhà này gạt. Dù chưa được như Phật dứt khoát không làm nhà, nhưng chúng ta cần điểm mặt nó để không bị gạt.

Tất cả chúng ta có duyên lành lớn là có người mở đường đi trước rồi chỉ lối đi nên không phải mò mẫm khó khăn như Phật. Chúng ta đã có sẵn bản đồ, đã vượt qua một giai đoạn khó, nên việc tu hành dễ dàng hơn Phật nhiều, mà không chịu đi nữa thì đúng là đáng trách. Cho nên, mỗi người nhớ mình đã đi qua dòng luân hồi quá lâu quá nhiều, bây giờ trở về là vừa, không có thiệt thòi hay tiếc nuối gì nữa, đã quá đủ rồi! Nếu chúng ta có được túc mệnh thông hay chịu khó xét kỹ thì sẽ thấy mình đi đủ hết sáu cõi luân hồi không sót cõi nào. Như vậy, thì ngang đây dừng lại là vừa rồi, không có gì phai tiếc cả.

Tất cả chúng ta đều có duyên lớn được gặp Phật pháp, được học Phật, được có người chỉ đường, có bản đồ sẵn hết rồi, chỉ còn một việc là bước đi để trở về. Nói đi trở về cũng là nói theo ngôn ngữ thế gian, chớ không trở về đâu hết, mà về ngay tại chỗ ngồi đây, rất là đơn giản, vậy mà không chịu trở về thì không biết nói sao!

Kết thúc lại, mong rằng tất cả quý vị học bài học giác ngộ này để được thuần thục cho đến khi không cần đợi ai nhắc nhở. Chúc tất cả lên đường và thành công!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 44)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 216)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 410)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 310)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 338)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 623)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 679)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 640)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 687)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 600)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 546)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 686)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 492)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 575)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 670)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 589)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 711)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 704)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 769)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 795)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 770)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 962)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 829)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1389)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 914)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1080)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1063)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 994)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 981)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1122)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1400)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1750)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 972)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1161)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 972)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 827)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 950)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 973)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1395)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1145)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1175)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 925)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1070)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1521)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1399)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1392)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 981)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1375)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1290)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant