Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chứng NgộVãng Sanh Cực Lạc

21 Tháng Hai 201511:57(Xem: 8617)
Chứng Ngộ Và Vãng Sanh Cực Lạc
CHỨNG NGỘVÃNG SANH CỰC LẠC

Nguyễn Xuân Chiến


CHỨNG NGỘ VÀ VÃNG SANH CỰC LẠCĐiểm đến của người tu học Phật thường là chứng ngộ (đắc đạo). Nhưng tại sao gần đây, ta cũng hay nghe nói Vãng sanh Cực Lạc như một kết quả cho việc hành trì. Vậy, Chứng ngộVãng sanh khác nhau thế nào, và có gì chống trái giữa hai từ ngữ ấy?

Vãng sanhmục tiêu chân chánh và khẩn thiết nhất của những người hướng đến đạo giải thoát và là ước mong nhiệt thành của hành giả Niệm Phật, sau những năm tháng tu tập.

Trong giáo lý Nguyên thủy, để xiển dương năng lực thọ trì Bát quan trai, kinh điển Nikaya ghi rằng: “Một Phật tử nọ sau khi thọ trì Bát quan trai nửa ngày, đi ra khỏi tịnh xá và bị xe bò húc chết. Đức Phật tuyên bố rằng, ông ta được thác sanh lên cõi Trời, nhờ vào công đức thọ Bát quan trai dù chỉ một buổi”. (Trích The Buddha and His Teachings của Hòa thượng Narada, Phạm Kim Khánh dịch Đức PhậtPhật pháp)

Trong buổi sơ khai của đạo Phật, biết dân chúng vốn có thói quen của Bà-la-môn, (tập quán ưa thích sanh lên cõi trời) nên Đức Phật đã khuyến dụ các đệ tử tại gia là: thực hiện Bát quan trai thì được sanh Thiên (sanh lên cõi trời). Thật ra, ngay khi rời Bồ- đề đạo tràng, Ngài đã xác quyết mục tiêucon đường diệt tận khổ đau, phiền nãogiải thoát chúng sanh khỏi luân hồi trong ba cõi, cho nên giáo lý “sanh Thiên” chỉ là giáo lý thi thiết tạm thời.

Do đó, nhiều Phật tử đã nhầm lẫn rằng, “Vãng sanh Cực Lạc” có ý nghĩa tương tự như thác sanh lên cõi Trời (thiên đường), nhưng có thể là một thiên đường khác! Ngay cả một số người theo pháp môn Tịnh độ cũng vậy, họ nhận thức cuộc đờikhổ não, giả tạm, chỉ đưa đến những kết quả ngoài ý muốn, nên họ phát tâm tịnh tu để lúc lâm chung, được Phật rước về sống nơi an vui vĩnh hằng!

Thái độ này vẫn còn nhiều sơ sót. Lý do: thứ nhất,vẫn tỏ ra mình chưa hiểu mấy về ý hướng chân chánh của Phật khi ban tặng pháp môn Tịnh độdanh hiệu A Di Đà cho tất cả chúng ta! Thứ hai, trong khi thực hành niệm Phật, họ đã quên gắn bó Bồ-đề tâm vào thái độ sống của mình. Mà kinh Hoa Nghiêm dạy: “Quên mất Bồ-đề tâmtu hành các thiện pháp, thì đó là hành động theo ma vương”. Thứ ba, đạo Phật không phải là một tôn giáo thần quyền luôn hứa hẹn một cõi thiên đường khoái lạc sau khi chết để ru ngủ tín đồ, như lắm người lầm tưởng!

Do những khúc mắc như vậy, chúng tôi đã cố gắng sưu tầm những kinh sách hiện có trong tay, để tìm hiểu ý nghĩa của từ ngữ “vãng sanh Cực Lạc”, rồi đối chiếu với từ ngữ “chứng ngộ”. Và kính mong sự góp ý của chư vị thiện hữu tri thức.

“Vãng sanh Cực Lạc” có nhiều ý nghĩa:

1. Cực Lạc là cõi Tâm Linh, vãng sanh là đi về Cõi Tâm Linh

Có thể nói rằng, đạo Phậtđạo Tâm, cho nên cõi lý tưởng của nhà Phật tạm gọi là cõi Tâm. Cõi Tâm không có địa chỉ, chỗ đến (không phương sở), không tên gọi, không thể đo đạc, ước lượng được, chỉ cảm nhận mà thôi…

Mà tâm rộng lớn như hư không, bao trùm cả pháp giới và nói nhỏ thì nhỏ hơn hạt cải. Muôn sự không ngoài tâm. Điều này dường như khó hiểu đối với những người duy lý, những người tìm hiểu mọi sự qua suy luận, bằng cứ cụ thể, xác đáng. Đó gọi là “không thể nghĩ và bàn”, nghĩa là vượt lên trên mọi suy tư và diễn tả. Hình như cái gì gọi là Tâm Linh thì ta không thể sử dụng bất cứ phương tiện thế gian nào để nắm bắt, ngoại trừ cái trực cảm của mình và Cơ Duyên của mỗi người.

Thân Loan, Tổ sư Tịnh độ Chân tông Nhật Bản, cũng nói rằng: Cõi Cực Lạc của A Di Đà không phải là một thế giới vật chất được tìm thấy giữa các thiên hà xa xôi, mà chỉ là một trạng thái thanh bình hạnh phúc thực sự của Tâm Linh, vượt lên trên tất cả tư duydiễn tả của thế gian tầm thường. (Trois Sutras et Un Traité sur La Terre Pure, Jean Eracle, Editions de Seuil, 1994)

Như vậy, vãng sanh Cực Lạc nghĩa là tái sanh về cõi của tâm linh của Phật, Bồ-tát.

2. Vãng sanh Cực Lạc là tên gọi khác của từ ngữ “đi vào Niết-bàn”

Theo lời dạy của Đức Phật, Niết-bàn đâu phải là một chỗ dành cho các linh hồn trú ẩn? Niết-bàn là trạng thái Giác Ngộ. Đức Phật Thích Ca đạt Niết-bàn khi giác ngộ, tại ngay thế gian này. Sau đó nhiều đệ tử của Ngài (Xá-lợi-phất, Tu- bồ-đề, Ma-ha Ca-diếp, Mục-kiền-liên, A-nan…) cũng đạt Niết-bàn, trở thành A-la-hán, ngay khi còn sống.

Tổ Huệ Năng xác định Niết-bàn nằm ngay trước mắt ta (Pháp Bảo Đàn kinh). Người tu ThiềnNhật Bản đi từ trạng thái giác ngộ (satori) này đến giác ngộ khác, khi còn sống. Mặt khác, đạo Phật cũng có một trú xứ gọi là Cực lạc của Phật A Di Đà, dành cho những tâm linh niệm Phật trước khi lâm chung, nhưng không phải là thiên đàng như mọi người hiểu.

Người tu Tịnh độ chỉ hướng vào Cực Lạc cũng như đắc Niết-bàn. Thật ra, chỉ khác nhau tên gọi chứ không khác nhau ở nội dung giải thoát. Vãng sanh Cực lạc tức là cách nói khác của “nhập Niết-bàn”.

Vấn đề ở đây là Niết-bàn theo cấp độ nào, trình độ nào… thì tùy thuộc việc tu chứng của từng cá nhân.

3. Vãng sanh Cực Lạc theo tông Tịnh Độ

Trong lời tựa bản dịch cuốn Hai thời công phu ngài

Trí Quang thượng nhân viết (khá cô đọng!):

Người tu pháp môn niệm Phật Tịnh độ thì hoặc sinh Cực Lạc rồi trở lại hoá độ ta-bà trước hết, hoặc sinh Cực Lạc ngay nơi ta-bà mà hóa độ trước, mặt nào cái nguyện sinh Cực Lạc cũng là vì thế giới ta-bà này, nên tôn giả A- nan đã nói, “ngũ trược ác thế thệ tiên nhập”.

Như vậy, vãng sanh Cực Lạc luôn luôn có hai ý nghĩa: chứng ngộgiải thoát. Bởi vì đó là cốt lõi của đạo Phật, cho nên vãng sanh tức là: một, chứng ngộgiải thoát ngay lúc lâm chung, gọi là lâm chung vãng sanh, hai, chứng ngộgiải thoát ngay trong đời sống hiện tại, gọi là hiện tiền vãng sanh.

a) Lâm chung vãng sanh: Chứng ngộgiải thoát ngay khi lâm chung, nghĩa là:

Vãng sanh nghĩa là từ bỏ thân xác phàm phu nghiệp báo này, để tái sanh trong cảnh giới an lành của Cực lạc Tây phương. Mà Cực lạc Tây phương là nơi an trú của Phật, Bồ-tát, với những thuộc tính Đại Từ Bi, Đại Trí Tuệ, Đại Giải Thoát, Đại Nguyện Lực… Cho nên cõi ấy không bao giờ là chốn yên nghỉ cho những tâm hồn sật sờ ngái ngủ, bệnh hoạn, mà ngược lại, đó là nơi tập kết của các tâm hồn thao thức, có chí rộng lớn, cường liệt, nhiệt thành, để cùng nhau tu tập dưới sự hướng dẫn và hộ trì của Phật, Bồ-tát. Hơn nữa, Cực lạc Tây phương mãi mãi còn là một thao trường vĩ đại để chúng ta rèn luyện bồ-đề tâm, bồ-đề nguyện trước khi bước vào con đường độ sanh vô cùng dài xa và khó nhọc.

An lạc tập, ngài Đạo Xước ghi: “Hiện nay là đời có năm thứ trược ác, con đường tu tập của các bậc thông tuệ, giới đức (thánh đạo môn) thì nghĩa lý sâu xa, khó thực hành, không hợp thời cơ, chỉ có Tịnh độ môn (con đường tu tập bằng Đức Tin) là đạo lý quan trọng mà mọi người có thể cùng vào. Với lòng đại từ bi, Đức Phật khuyên chúng sanh nên cầu sinh Tịnh độ: dù cho một đời tạo ác, nhưng lúc lâm chung mà định ý, chuyên tâm, mười niệm liên tục tiếp nối nhau mà xưng danh hiệu Phật, thì tất cả chướng nạn được tiêu trừ, nhất định được vãng sanh. Đây thuộc về tha lực dị hành đạo”.

Ngài Tỉnh Am đại sư, vị Tổ sư 11 của Tịnh độ Trung Hoa, dạy rằng: “Tu hành tại cõi thế gian này thì sự tiến đạo rất khó. Vì là khó, cho nên lắm kiếp chưa chắc đã hoàn thành. Vãng sanh cõi Cực Lạc thì sự thành Phật cũng dễ. Vì là dễ, cho nên một đời chắc chắn sẽ thực hiện được. Thánh giả ngày xưa, hiền nhân ngày trước, ai cũng quay đầu hướng về Tịnh Độ. Kinh cả ngàn, luận cả vạn, văn bản nào cũng chỉ lối cho chúng ta đến Tây phương”.

Huống chi đối với hạng phàm phu chúng ta, thì vãng sanh Cực Lạc phải là con đường tất yếu vậy.

b) Hiện tiền vãng sanh

Nghĩa là chứng ngộgiải thoát ngay khi còn sinh hoạt với tư cách một người bình thường. Khi còn đang mang xác thân nghiệp báo của con người mà đã giải thoátchứng ngộ rồi, mặc dù thân còn ở đây nhưng tâm đã ở Cực Lạc.

Theo giáo sư Suzuki, trong tác phẩm Thiền luận, thì vãng sanh là cải biến tâm linh, chuyển hóa tâm thức. Trong thế gian hỗn loạndơ bẩn này, từ thân tâm cho đến môi trường sinh hoạt, không có cái gì là chẳng bị nhiễm ô. Mục tiêu chân chính của đạo Phật vẫn là giúp chúng ta cải biến tâm thức của mình, vì khi tâm thức được chuyển hóa thì mọi sự sẽ được chuyển hóa ngay lập tức, và hành giả sẽ đạt Tam-muội (Sâmadhi) ngay trong đời sống.

Đối với những người đầy đủ cơ duyên, thì họ có thể vãng sanh ngay trong đời sống hàng ngày, tuy báo thân vẫn còn quanh quẩn trong thế gian này nhưng tâm thức đã là người Tịnh độ.

4. Theo ngài Suzuki: “Chứng tam-muội và vãng sanh là một”

Cuốn sách Thiền luận, nổi tiếng thế giới vì đã đem nhiều người Âu Mỹ đến ngưỡng cửa Thiền, tác giả của nó, Suzuki, là một nhà nghiên cứu đồng thời cũng là người tu thiền, đã viết:

Thật ra, tam-muội và vãng sanh là một, nhưng được mô tả theo hai cách khác nhau. Nhưng vì tam-muội có thể đạt được trong đời sống này, còn vãng sanhthể đạt được sau khi lâm chung. Nên phải nói tam-muội đồng nghĩa với vãng sanh theo một chiều hướng hoàn toàn đặc biệt, tức là chúng ta không nên coi vãng sanh như một biến cố khách quan và tùy thời, mà là một thứ đoan quyết chủ quan của những gì chắc chắn phải diễn ra. Nếu vậy, vãng sanh chỉ cho sự tái tạo tâm linh, và theo đó, có thể cho là đồng nhất với tam-muội.

“Lòng tin phải được thiết lập vững chãi bằng sự thể hiện tam-muội, tin tưởng vào bản nguyện của Phật A Di Đà, nhờ đó hành giả vững tin vào số phận tương lai của mình. Bởi vì tam-muội được chứng đắc khi mà tâm hành giả hoàn toàn hợp nhất với tâm của Phật A Di Đà, ý thức nhị nguyên hoàn toàn bị xoá bỏ. Đây là một kết luận phải đến, không những chỉ ở luận lý, mà cả trên phương diện sự thực. Rồi ra, tất cả kiến trúc của triết lý đạo Phật được đặt trên nhất nguyên luận duy tâm; mà thực tại luận của Tịnh độ cũng không thể biệt lệ.

“… Ta thấy rằng, niệm Phật hay danh hiệu hay Nam- mô A Di Đà Phật, là tâm điểm của đức tin. Khi thể nghiệm được điều này, kẻ sùng mộ đạt được “sự kiên cố của đức tin” ngay cả trước khi hắn thực sự được vãng sanh Tịnh độ. Vì vãng sanh Tịnh độ không còn là một biến cố sau khi chết, mà vãng sanh ở ngay trong cái “thế gian giới” này, cái thế giới của những đặc thù này”. (Thiền luận II)

5. Vãng sanh hay chứng ngộ?

Theo Chang Chen Chi (Trương Thiền Trí) là một thiền sư, tác giả cuốn Thiền đạo tu tập, thì:

“Đức Bổn sư thường dạy chư vị Tỳ-kheo phải buộc tâm ý vào sáu chỗ buộc niệm, đó là Lục Niệm Xứ: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí, niệm Thiên. Từ chỗ buộc niệm này, người tu dần dần đi sâu vào chánh định Như Lai, tức là niệm Phật tam-muội. Lúc ấy, chúng ta muốn gọi trạng thái giải thoát ấy là gì cũng được, quan trọng chi đâu? Có thể gọi là Đốn Ngộ, vãng sanh, giải thoát, chứng quả, thành đạo… đều được cả”.

Gần đây, nhiều người có đầu óc phân biệt môn phái, thường rạch ròi giữa Thiền và Tịnh độ. Thật ra, về bản chất và điểm đến, thì hai pháp môn này không có gì chống trái nhau, vì cùng phát xuất từ một gốc chứng ngộgiải thoát như nhau, chỉ khác phương thức tu trì mà thôi.

Đại khái, Thiền chủ trương “Tức tâm tức Phật”, trong khi Tịnh độ chủ trương “Thị tâm tác Phật, thị tâm thị Phật”, như vàng ròng và vàng trang sức, tuy khác mà không khác, chỉ khác ở tên gọi và cách thể hiện bề ngoài. Còn nội dung đều là pháp tu chứng của nhà Phật cả, thì có gì đáng bàn đâu?

Hãy nghe lời dạy của Hư Vân hòa thượng khi ngài trả lời học giả John Blofeld.

Ông John Blofeld là một người Tây Âu đã lưu trú Trung Hoa nhiều năm để tu học, quen thói phân biệt chia chẻ, cho nên ông ta đã cho rằng Tịnh độ và Thiền là hai pháp môn hoàn toàn khác nhau, mà cái gì khác nhau thì không thể dung nhiếp lẫn nhau và hỗ trợ nhau trong việc hành trì (!). Ông ta đã may mắn diện kiến Ngài Hư Vân và đã nghe Ngài giải thích cặn kẽ như sau:

“… khi những dân quê hiền lành chất phác đến nghe ta nói pháp, phải chăng ta sẽ giảng cho họ nghe về Thực Tại Vô Ngã? về tánh Không? hay con đường Bất Nhị? Những điều này có nghĩa gì đối với họ? Phải chăng đó chỉ là những danh từ trừu tượng, trống rỗng, không thể hiểu và chẳng có ích lợi gì.

“Nhưng nếu ta giảng cho họ về Đức Phật A Di Đà, về bản nguyện tiếp dẫn của Ngài, về cõi Tây phương Cực lạc, thì họ sẽ hiểu, sẽ tin và phát tâm muốn được sinh về cõi đó. Nếu suốt ngày họ trì niệm danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật này thì khi làm ruộng, khi nghỉ ngơi, khi gặt lúa, lúc lùa trâu về chuồng, họ trì niệm cho đến lúc Nhất Tâm Bất Loạn, thì cái ảo ảnh nhị nguyên của vô minh, cái tâm phân biệtchúng sanh có chư Phật, sẽ chấm dứt và họ sẽ chứng ngộ thực tại mầu nhiệm ngay. Dù người ta gọi đó là Vãng sanh Cực Lạc, gọi là Chứng ngộ, “tha lực tiếp dẫn của Đức A Di Đà”, gọi là Thiền, hoặc gọi là Nhất Tâm, thì điều này có gì khác biệt đâu?

Cái khả năng giải thoát mà người ta cho rằng vốn ở bên ngoài (tha lực), thật ra vẫn ở bên trong (tự lực), lúc nào cũng vẫn sẵn có kia mà!” (Trích The Wheel Of Life của tác giả John Blofeld, Nguyên Phong dịch, Ngọc sáng trong hoa sen).

6. Kết luận

Tóm lại, chúng ta tạm thời có thể nói: Thiền là pháp tu của những người sống bằng giới định. Còn Tịnh độ là pháp tu của những người sống bằng tín tâm. Cho nên từ ngữ vãng sanh của Tịnh độý nghĩa tương tự như từ ngữ chứng ngộ của Thiền tông, không hai không khác. (Nam-mô A Di Đà Phật chính là lòng tin để thành tựu tình cảm tôn giáo, vừa là năng lực phát triển giới định tuệ).

Từ lâu,Thiền tôngTịnh độ tông dường như kết hợp với nhau rất nhuần nhuyễn trong hành trì, hình thức, nghi lễ… thể hiện Thiền Tịnh song tu suốt trên 1.000 năm nay tại Việt Nam, nghĩa là từ trước thời Lý Trần. Vả lại, điểm đặc sắc của người Việt Nam là không phân biệt môn tường, bè phái, cho nên khi một nhà sư thị tịch đúng chánh pháp, ta có thể nói: Ngài đã chứng ngộ (đắc đạo). Hoặc nói: Ngài đã vãng sanh Cực Lạc – đều thích hợp cả.

Nguyễn Xuân Chiến



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1647)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1578)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1497)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1077)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1467)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1413)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1333)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1381)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1711)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1971)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1436)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1095)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1429)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2027)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1471)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1554)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1390)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2909)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1378)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1410)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1726)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1681)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1634)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1479)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2645)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1604)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1615)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1407)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1424)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1616)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1565)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1445)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1432)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1522)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2203)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1549)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1511)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1624)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1843)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1534)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1414)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1671)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1424)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1702)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2381)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1471)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1959)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1681)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1761)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1620)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1955)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1685)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1441)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1730)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1583)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1549)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1338)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1254)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1297)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1530)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant