Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tính Không Là Gì?

09 Tháng Giêng 201511:01(Xem: 9111)
Tính Không Là Gì?

TÍNH KHÔNG LÀ GÌ?

Pháp Môn Niệm Phật
Kinh Điển Đại Thừa Có Phải Do Đức Phật Thuyết Giảng Không?

HT Thích Giác Quang


hoidapphathoc_thichgiacquangCâu 1:

VẤN: Con nghe mọi người thường hay nói đạo Phật là ở tánh không và tính không? Vậy tánh không là gì và tính không là gì? Có người lại nói với con Phật giáo là “sắc sắc không không, không không sắc sắc.” Vậy câu này có nghĩa là gì ạ và con nên tu như thế nào ạ?

ĐÁP: Tánh khôngTính không cùng một ý nghĩa, một pháp không hai; từ ngữ Phật học “Tánh không” do người miền Nam Việt Nam thuyết giảng biên soạn; còn “Tính không” do người miền Bắc Việt Nam thuyết giảng biên soạn. Cả hai có ý nghĩa:

1/. Nói đến tính chân như thực tướng của các pháp: ví dụ người Phật tử không khởi tâm sát sanh, nên không khởi tâm giữ giới sát sanh, đó mới chính là giữ giới sát sanh.

2/. Các pháp là hư huyển, không thật có: ví dụ nghe tiếng nhạc bên tai, cùng một lúc nghe tiếng kèn xe, cùng một lúc nghe tiếng nói của bố mẹ v.v… Khi tai nghe cái nầy thì cái kia diệt, nghe cái kia thì cái nầy phải diệt… nhưng cùng một lúc nghe các tiếng sanh diệt, diệt sanh liên tục đến với ta nên gọi các pháp là hư huyển.

3/. Các pháp vốn không tự tánh mà có: như nói Phật thị hiện cứu đời là vì có chúng sanh trần luân nên nói có Phật thị hiện; vả như khôngchúng sanh trần luân thì cũng không có Phật thị hiện cứu đời.

4/. Các pháp vốn giả danh do đặt tên mà có: ví dụ như “ban ngày” đối với “ban đêm”, “sáng” đối với “tối”, “tội” đối với “phước”, do mình đặt tên mà có. Các pháp ngày, đêm, sáng, tối, tội, phước tự nó không có.

5/. Hư cấu bời các duyên hợp mà có, nên không thật: như 1 tách trà ngon thơm, xuất phát từ người công nhân lấy đất làm cao lanh, người nắn, người vẽ vời, người nun thành 1 cái tách; người chế trà, người pha trà, rót trà… cộng lại thành “tách trà ngon thơm”. Tách trà thơm ngon do các duyên mà có, chứ tự nó không thật có.

Trong phẩm kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa, Phật dạy: “…Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, Sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị…”

“Sắc sắc, không không”, nghĩa là cũng có đó rồi cũng không đó, tuy có mà không; trong quá trình pháp giới duyên khởi, thân tâm ta tuy có mà không; các pháp thế gian như gia đình, xã hội, giàu sang, quý phái, nghèo hèn, địa vị, danh vọng, quyền cao, tước trọng, tên tuổi, tiền bạc tuy có nhưng giả, không thật có, thế giới nầy hợp để rồi tan, ánh trăng vũ trụ có khi tròn khi khuyết v.v… Người tu hiểu được lý nầy thì không còn tham sân si, ví dụ: khi ta đang có niệm buồn (sắc), có người đến an ủi, tức là niệm vui đến, niệm buồn vụt tắt (không), buồn tuy có nhưng nó nào có thật đâu. Trong một niệm của ta có 4.900.000.000 lần sanh diệt (trích Phật Học Tinh Hoa – Nguyễn Duy Cần), sinh là có, diệt là không, quá trình sinh diệt đó gọi là mộng huyển, mộng ảo, giấc mộng, phù du, ảo giác, cuộc đời chẳng có chi bền chắc, Phật tử quán chiếu như thế thì cuộc đời của ta không còn bị tung hứng theo thế sự buồn vui nữa.

“Không không, sắc sắc”, các pháp vốn không (chân không), nhưng không phải là không có (diệu hữu); tự tánh các pháp vốn không sanh không diệt (tự tính chơn như), các pháp có sanh thì có diệt và có diệt thì có sanh (mộng huyển), với nhãn quan nầy các bậc đại tổ sư như Bồ Đề Đạt Ma, Lục Tổ Huệ Năng đã từng chứng đắc.

Tâm Phật vốn chơn như nên nhìn các pháp bất sanh, bất diệt không còn gì phải có tu, có chứng, có đắc (chơn không), tâm chúng sanh là tâm sanh diệt, nên khi tu hành thấy các pháp như mộng huyển, bào ảnh, như lộ, như điện mà chứng đắc nên thấy có tu, có chứng, có đắc (diệu hữu). Phật tử quán chiếu như thế mà tu hành.

Câu 2:

VẤN: Con thích niệm Phật và thích tu nguyện vãng sanh Tịnh Độ. Tuy nhiên, nhiều bạn tu của con, nhất là các bạn tu thiền thường hay nói với con rằng kinh điển đại thừa và nhiều pháp tu sau này không phải là pháp Phật vì theo kinh điển Pali không có nói đến. Những kinh pháp sau này khi truyền sang Trung Hoa rồi do người Trung Hoa họ theo tôn giáo tín ngưỡng bản địa họ tạo ra sinh ra rất nhiều pháp khác nhau rồi cho là của pháp Phật. Việc tu hành niệm Phật nguyện vãng sanh giống như là của ngoại đạo, mong sự cứu rỗi tâm hồn ở một cảnh giới khác như các đấng cứu thế của các tôn giáo hứa hẹn cho đệ tử của mình. Bạn con còn bảo những pháp tu đó ngày xưa thời Đức Phật trong kinh điển Pali đâu có nói đến đâu. Con thật sự bối rối vì khi niệm Phật con thấy bình an. Mong Sư chỉ dạy thêm cho con ạ. A Di Đà Phật!

ĐÁP: Phật có tám muôn bốn ngàn pháp môn, pháp môn tu nào cũng là của ba đời chư Phật, nếu pháp đó giúp ta tiến đến an tâmgiải thoát, dù pháp đó là Thiền, Tịnh, Luật hay Mật cũng đều là của ba đời chư Phật nói ra.

Người có duyên với tu Thiền thì nói pháp môn Thiền là của Phật, các pháp môn khác không phải của Phật ở xứ khác chế biến chứ không phải xuất sanh từ Ấn Độ; người có duyên với Tịnh độ thì nói pháp tu Thiền là của Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma sáng chế dạy cho dân Đông Độ (Trung Hoa) tu hành chớ Phật không có dạy thiền “Đốn giáo” bao giờ ! Rốt rồi tu đâu chấp đó, đem pháp giải thoát của Phật đấu lý chê bay, thật là đời mạt pháp ngông cuồng !

Phật thì chẳng nói Thiền, nói Tịnh, mà vịn vào căn duyên của đệ tử để giáo hóa. Như buổi ban đầu thuyết giáo, Phật dạy đệ tử quán chiếu đề mục đất, đề mục hoa sen… (tất cả đều nắn từ đất sét) để chánh niệm rồi tiến dần lên từng bậc chánh định (tam muội); từ đó trí tuệ sanh, trí tuệ sanh tức là cứu cánh giải thoát, lúc bấy giờ không có niệm danh hiệu Phật nào cả. Tuy nhiên khoảng 20 năm sau đó, dân trí lên cao, các Tôn giả thông suốt giáo pháp Phật, Đức Phật tiếp tục mở rộng tầm nhìn của đệ tử, nên ngài thuyết các bộ kinh giới thiệu về các thế giới “Tịnh độ”, bên ngoài thế giới “Ta Bà khổ đau” nầy, để các vị giữ vững niềm tin mà nguyện sanh về thế giới đó, nhằm có cơ sở giáo hóa chúng sanh trong khắp mười phương. Đây là ý tứ của Pháp Phật có nhiều pháp môn tu, chớ không chỉ có pháp môn “Thiền” hay “Tịnh”.

Việc nói Thiền chê Tịnh là việc xưa, lạc hậu lắm rồi, Phật tử chưa thấy đó thôi, chúng ta là những đoàn người bị cuộc rượt đuổi của “thời gian vô thường” tới tấp cận kề bên ta, không mau xuống thuyền qua sông thoát nạn, ở đó mà đem Thiền với Tịnh chê nhau.

Pháp Phật lưu truyềnvô biên giới, không có Ấn Độ, Trung Hoa gì cả, ai duyên tu pháp môn nào thì tu pháp môn đó, ai khéo tu thì giải thoát, ai vụng tu thì mê lầm. Người đem Thiền chê Tịnh là người vụng tu, sau không tự chê mình còn ở bên bờ vực thẳm mê lầm nơi bến tử sanh, mà lại chê khen giáo pháp Phật.

Lẽ ra thì Sư không phân trần làm gì, nhưng vì sự kém hiểu biết của những người chê bai Tịnh độ, Sư sẽ trích một vài đoạn kinh trong kinh điển Pali nói đến pháp tu Niệm Phật, để quý vị nghiên cứu tu hành.

Cõi Tịnh Độ qua các kinh nói về Phật Di Đà từ Hán Tạng, vốn được phiên dịch từ kinh điển Sanskrit. Ở đó, cõi Tịnh Độ hay Cực Lạc được mô tả là một cảnh giới tuyệt vời với tất cả những thứ du dương, mát mẻ, thơm ngát và không có chuyện đói lạnh. Con đường dẫn đến cõi này có thể chỉ gói gọn trong công phu trì niệm hồng danh Phật Di Đà.

Chúng ta thử tìm hiểu vấn đề qua kinh điển Pàli, nguồn giáo lý căn bản của Phật Giáo Nam phương xem sao. Dĩ nhiên, trong Tam Tạng Pàli cũng có khái niệm Tịnh Độ với những trình bày thật rõ ràng về cảnh giới này, những bậc thiện tri thức ở đó và con đường dẫn đến cảnh giới Tịnh Độ, tức phép cầu vãng sanh theo kinh điển Nam Truyền.

Thời Đức Phật tại thế, chư Tôn giả thường thường hướng về nơi ngài xưng niệm danh hiệu của Như Lai, đầy đủ thập hiệu, để tỏ lòng cung kính tri âncầu nguyện, chư Tôn giả cản thấy được an lạc nhiều lắm.

Trong kinh An Hàm và các kinh cho thấy niệm Phật, tức là sự cung kính đảnh lễ vâng lời, tán thán, nhớ nghĩ Đức Thích Tôn, các tâm bất thiện từ đó không phát sanh.

Niệm Phật theo kinh tạng Pali có 3 cách: một là nhớ nghĩ, hai là quán tưởng tướng hảo của Phật, ba là xưng niệm danh hiệu Phật.

Kinh Tăng Nhất A Hàm, Phật dạy các Thầy Tỳ kheo: “Hãy tu hành một pháp, hãy quảng bá một pháp. Đã tu hành một pháp rồi, liền có danh dự, thành tựu quả báo lớn, các điều thiện đủ cả, được vị cam lồ, đến chỗ vô vi, liền được thần thông, trừ các loạn tưởng, được quả Sa môn, tự đến Niết Bàn. Một pháp ấy là gì? Đó là niệm Phật” (Đại chính 2, trang 532).

Đức Phật giải thích thế nào là niệm Phật: “Nếu có Tỳ kheo nào chánh thân, chánh ý, ngồi bắt tréo chân,chuyên tinh niệm Phật, không có niệm tưởng nào khác. Quán hình của Như Lai, mắt không hề rời, trong khi mắt không hề rời, niệm tưởng công đức Như Lai”. (Đại chính 2, trang 554).

thời gian khác, Đức Phật dạy: “Có một pháp, nầy các Tỳ kheo, được tu tập, được làm sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, niết bàn. Một pháp ấy là gì?Chính là niệm Phật, Chính một pháp nầy, này các Tỳ kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn,đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, niết bàn” (Tăng chi bộ I.16. HT Minh Châu dịch).

Xin trích một vài lời kinh ngắn để dẫn, xem pháp môn niệm Phật xuất xứ từ Đức Phật hay người Trung Hoa?

Thân chào các Phật Tử

HT Thích Giác Quang
(Hỏi Đáp Phật Học: Quan Âm Tu Viện, Biên Hòa Đồng Nai)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1645)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1575)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1495)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1077)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1466)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1411)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1333)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1381)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1710)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1970)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1434)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1095)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1428)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2024)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1470)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1552)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1389)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2904)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1376)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1410)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1722)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1680)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1632)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1476)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2643)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1603)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1613)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1404)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1423)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1616)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1562)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1444)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1428)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1520)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2202)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1547)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1510)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1620)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1837)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1533)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1412)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1669)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1422)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1700)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2380)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1471)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1954)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1681)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1760)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1620)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1955)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1685)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1441)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1729)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1582)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1548)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1337)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1254)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1297)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1527)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant