Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bản Chất Thật Của Thân

14 Tháng Hai 201509:45(Xem: 7976)
Bản Chất Thật Của Thân
BẢN CHẤT THẬT CỦA THÂN

Thích Thông Phương



BẢN CHẤT THẬT CỦA THÂNTất cả mọi người ai cũng mang thân này và cho đó là thân mình. Chúng ta mang thân suốt cuộc đời và nhận nó là thân mình nhưng nếu xét kỹ thì chúng ta có thật biết rõ về nó chưa? Cho nên cần phải nhìn thật kỹ về nó. Lâu nay chúng ta nhìn thế nào về thân này? Thân này gồm có: đầu, tóc, mắt, tai, mũi, miệng, má, cằm, cổ, vai, ngực, bụng, tay, chân, eo, lưng v.v… mình cho đó là thân phải không? Thường thì ai cũng đều thấy thân như thế, nhưng bản chất của thân chẳng lẽ là vậy sao? Đó là chỗ chúng ta phải thấy cho thật kỹ, thật rõ. Nếu nhìn thấy thân như vậy, nhà Phật gọi là quá hồ đồ, hời hợt, tức là chúng ta chưa thật biết gì về thân mình.

Vậy thân là cái gì? Đó chỉ là tướng ngụy trang bên ngoài để che mắt thiên hạ, không cho người nhìn thấy cái bản chất thật bên trong của nó. Thân tướng ngụy trang bên ngoài chẳng thật, không phải chỉ bấy nhiêu đó, nhưng đa số con người chỉ thấy chừng ấy và cho đó là thân vì đó là tướng dễ thấy.

Tướng ngụy trang bên ngoài che mắt thiên hạ đúng là bấy nhiêu đó. Nhưng cần phải thấy những cái bên trong thân này. Trong kinh Tứ Niệm Xứ, Phật dạy hàng đệ tử cần phải quán xét thân trong thân. Tức là phải quán để thấy rõ cái thân bên trong thân thể, không phải chỉ cái tướng bên ngoài. Do vậy, với tinh thần của người học Phật, tu Phật thì phải thấy đúng lẽ thật của nó chứ không phải chỉ nhìn hời hợt như vậy rồi chấp chặt vào, đó là điều căn bản phải nhớ. Con người nhìn thấy đầu, mắt, mặt, mũi, cổ, ngực, tay, chân v.v… thì chụp bắt lấy rồi say đắm mê mệt, hoặc là chán ghét không muốn đến gần. Hai trường hợp đó đều là cái nhân để sanh phiền não, phiền não từ chỗ đó mà sanh. Chúng ta học Phật là phải quán xét rõ ràng để thấy thấu đến cái thân thể bên trong thân thể này nữa? Không phải chỉ gương mặt này mà bên trong nó còn có cái sọ dừa nữa, nhưng thường thì đâu ai dám nhìn tới cái sọ dừa, mà nếu có nhìn thấy thì chắc bỏ chạy! Thí dụ như ban đêm đang đi, nhìn xa xa chợt thấy cái sọ dừa thì chắc chạy không kịp! Còn những thứ khác như tủy, não, gân, xương, tim, phổi, ruột, gan, phèo v.v… là cả một đống ruột gan lòng thòng trong đó chứ đâu phải chỉ là một khối đặc cứng đâu.

Nếu quý vị mở được con mắt thần thông, hoặc con mắt như máy quang tuyến thì khi nhìn vào sẽ thấy rõ đó là cả một đống ruột gan, một bộ xương làm cái cốt. Nếu không có bộ xương làm cái cốt thì chắc thân này không đi đâu được. Nhưng lâu nay có mấy ai thấy đến được như vậy, nên người ta sống và làm rất nhiều điều điên đảo. Nếu con người thật sự có chút trí tuệ thì chắc các vị bác sĩ tu mau ngộ đạo lắm, vì thường thấy rõ ràng bản chất của thân. Nhưng bác sĩ cũng bị nó gạt, cũng bị lầm như thường, cũng sống điên đảo. Đó là vì con người chỉ thấy cái dáng bên ngoài rồi nhận càn làm thân mình, chứ sự thật thì chúng ta chưa biết gì về thân thật, về bản chất thật của mình. Chính vì cái lầm, cái điên đảo đó mà sanh ra bao nhiêu thứ phiền não khổ đau, ai nói động đến nó một chút là chịu không được. Nhưng nếu hiểu kỹ thì cho dù ai có nói động đến “ta” thì họ chỉ mới thấy cái dáng ngụy trang bên ngoài, chỉ nói động đến cái đầu, mắt, mặt, mũi, tai v.v… chứ chưa nói động đến gan, ruột, phèo, phổi v.v… bên trong thân.

Trong Nhập Bồ-tát Hạnh, Bồ-tát Tịch Thiên chỉ rõ bản chất thật của thân: “Này tâm ý, lúc bầy chim kên kên háo đói tranh nhau gặm thi thể của ngươi, ngươi cũng bỏ qua, vậy sao bây giờ ngươi lại để ý đến thân này? Sao còn ôm giữ cái thân, xem nó là tôi? Ngươi với nó khác nhau, nó có ích gì cho ngươi đâu? Này tâm ý ngu si kia, sao ngươi không giữ một cái thân như cây sạch sẽ mà giữ chi cái khí cụ hư hoại ô uế này? Ngươi cần gì thân này khi ngươi không thể ăn dơ uế trong thân, uống máu trong thân, hút gan ruột trong thân. Lý do duy nhất để tham thân, là nó làm thực phẩm cho chồn và kên kên, vậy thân người chỉ đáng nên chịu sự sai khiến để làm việc thiện”. Tức là lúc bầy chim kên kên háu đói tranh nhau gặm cái thây chết thì lúc đó ngươi bỏ qua hết, còn bây giờ thì tại sao ngươi lại để ý tới nó?

Thế nên, “Trước hãy dùng ý phân tách da ra khỏi thịt, rồi dùng trí tuệ sắc bén mà tách thịt ra khỏi bộ xương. Lại chẻ xương ra mà quan sát sâu vào tủy để tự hỏi, có cái gì sạch và đẹp không? Tìm cho kỹ thì cũng không thấy được cái sạch đẹp thì sao ngươi còn tham luyến mến giữ cái thân này?”. Đây Ngài nói rõ ràng sự si mê khi tham đắm thân này, trong khi nó chỉ đáng dùng làm thực phẩm cho chồn, kên kên. Do vậy, mình chỉ nên khéo dùng nó để làm việc thiện, tạo công đức thì mới xứng đáng vì cuối cùng thì cũng phải đưa nó ra đồng hoặc làm thức ăn cho chồn, cho kên kên hoặc là cho mấy con giòi! Phải quán kỹ, xét sâu để thấy rõ bản chất thật của thân như vậy, chứ đừng nhìn theo cái nhìn điên đảo bấy lâu nay. Thấy thấu như vậy tức là trừ lầm chấp về thân và bớt chấp ngã, mà bớt chấp ngã là bớt khổ. Với tinh thần của người học Phật, bản chất thân như thế nào thì chúng ta phải thấy đúng như thế. Đó mới là lẽ thật, chứ không thể thấy điên đảo như bấy lâu nay nữa. Chúng ta đã bị gạt quá nhiều, tự mình gạt chính mình.

Thứ nhất, thân là vô thường:

Vô thường tức là biến đổi, không bền chắc, không tồn tại lâu dài, nó biến đổi và rồi sẽ hư hoại. Thân này lúc nhỏ khác, khi lớn khác. Lúc mới sinh ra được mấy ký mà bây giờ thì mấy chục ký. Nếu giữa chừng gặp một cơn bệnh nặng thì sụt hết mấy cân. Như vậy, nó luôn luôn biến đổi chứ không phải dừng lặng hoài. Rồi trong mỗi giờ, mỗi phút, mỗi giây thì nó cũng luôn biến đổi chứ không phải đứng dừng một chỗ. Con người nhìn hời hợt nên chỉ thấy cái tướng của nó như vậy là sẽ như vậy hoài, còn chúng ta phải thấy sự thật về nó. Bản chất nó như vậy, dù cố giữ, cố chăm sóc cách mấy, hoặc tìm mọi cách quyến rũ nó ở lại thì nó cũng bỏ chúng ta mà đi. Chắc chắn nó sẽ bỏ đi. Làm gì thì làm, quyến rũ cách mấy đi nữa thì nó cũng bỏ đi. Dù cho nó ăn ngon, trang điểm nó cho tốt thì nó cũng bỏ đi, nó không có tình nghĩa gì hết! Ngay như thân ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Phật, cuối cùng cũng đi theo chiều vô thường. Do vậy, khi Đức Phật sắp nhập Niết Bàn, các thầy Tỳ-kheo than thở và nói lên bài kệ:

Thân này như bèo bọt
Mỏng manh có gì vui
Phật được thân kim cang
Còn bị vô thường phá.

Thân kim cang chư Phật
Đều về với vô thường
Tan mau như tuyết non
Huống những chúng sanh khác.


Tức là thân Phật đẹp như vậy nhưng theo chiều vô thường thì cũng phải bỏ lại, nên nói “tan mau như tuyết non”. Thân Phật còn như vậy huống là thân những chúng sanh khác. Đức Phật hiện ra đời bằng tấm thân như mọi người, đó cũng là bài học giúp cho tất cả chúng sanh phải tỉnh ngộ. Thân Phật ba mươi hai tướng tốt, công đức như vậy mà còn phải hoại còn thân mình thì có đáng gì! Quý vị kiểm lại xem thân mình được mấy tướng tốt? Do chúng sanh quá tham luyến thân mình nên Phật mới ra đời để cảnh tỉnh: “Thân Phật tốt đẹp như vậy rốt cuộc rồi cũng hư hoại, cũng phải bỏ lại còn thân mình có đáng gì mà tham luyến!”.

Sau này ở Việt Nam, trong bài “Nói Rộng Về Sắc Thân”, vua Trần Thái Tông diễn tả: “Chẳng luận giàu nghèo đồng vào cõi chết, hoặc để ở trong nhà giòi đục tửa sinh, hoặc ném ra đường thì quạ ăn, chó xé; người đời bịt mũi đi qua, con hiếu lấy mềm quấn giấu. Nhặt thu hài cốt chôn cất thịt xương, quan quách phó cho đám lửa ma trơi nơi hoang dã, mả mồ giao cho muôn dặm núi sông. Khi xưa tóc đen má ửng, ngày nay xương trắng tro đen”.

Tức là khi chết để trong nhà thì sinh ra giòi đục, còn nếu ném ra đường thì quạ ăn, chó xé. Bản chất của thân cuối cùng là đi đến chỗ đó. Đến lúc ấy người thân dù thương mến cách mấy cũng lo tránh hoặc bịt mũi đi qua, con có hiếu thì lấy chiếu mền quấn lại mà giấu! Bản chất thân cuối cùng là như thế, nên một ông vua sống trong cảnh chung quanh mà cái gì cũng tô điểm, cũng trang sức thật đẹp che hết những cái xấu, nhưng ông vẫn thấy đến chỗ đó, thì quả đây là ông vua đặc biệt. Ông vua mà còn thấy được như vậy còn chúng ta thì sao? Sống trong cảnh mà cái xấu chung quanh được che hết, nhưng ông còn thấy đến cái bản chất thật như thế, còn chúng ta thì tại sao không thấy đến lẽ thật của thân vô thường như vậy? Thiền sư Tông Mật (Ngài Long Nha) có lần thượng đường nói bài kệ cảnh tỉnh đại chúng:

Hưu bả đình hoa loại thử thân
Đình hoa lạc hậu cánh phùng xuân
Thử thân nhất vãng tri hà xứ?
Tam giới mang mang sấu xác nhân.

Tạm dịch:

Thôi sánh hoa sân với thân này
Hoa đã rụng rồi xuân lại thay
Thân một phen đi đâu là chỗ
Mịt mờ ba cõi sầu chết người.

Ngài nhắc là chớ có đem cái hoa ở trước sân đó để so sánh với thân này. Bởi vì hoa ở sân tuy rụng rồi nhưng khi gặp lại mùa xuân thì nó sẽ nở tiếp. Năm nay nó nở rồi rụng, nhưng đến mùa xuân năm sau thì nó lại nở hoa nữa. Còn thân này thì sao? Thân này một khi ra đi rồi thì không biết sẽ đi đâu? Đâu là chỗ đi của nó trong ba cõi mịt mờ? Đó là lẽ thật của thân này. Bản chất vô thường là như vậy, nên thấy được lẽ vô thường thì bớt bám chấp vào nó.

Thứ hai, thân là khổ:

Vô thường tức là khổ, là không có toại nguyện, không như ý. Bản chất của nó là luôn đem đến điều bất toại nguyện. Đang trẻ đẹp, muốn nó trẻ đẹp hoài cũng không được, bị một cơn bệnh là thân biến đổi rồi! Khi nó đang mạnh khỏe, muốn khỏe hoài nhưng cũng không được, nó cũng bệnh, không được như ý. Hoặc là có khi bị những cái vô thường, tai nạn chết chóc đến, không thể ngờ trước được cái gì hết! Còn trẻ mà tóc bạc sớm thì có vui không? Phải nhuộm tóc. Thân này không có như ý gì hết, bản chất nó là như vậy. Trong nhà Thiền có câu chuyện, gần Tết có một bà nhà giàu đến nhờ ông thầy đồ viết cho câu liễn, bà nói: “Thầy ráng nghiệm viết cho câu thật hay, làm sao chúc phúc cho gia đình của tôi, tôi sẽ đến thưởng thầy nữa”. Ông thầy này có học đạo, khi viết xong, ông gói lại đàng hoàng và đưa bà mang về.

Về đến nhà, mở ra để treo thì bà thấy: “Ông nội chết, cha chết, con chết, cháu chết”! Nổi sân, bà liền đi nhanh đến ông thầy, sừng sộ và nói:

- Tôi hết sức tin tưởng thầy, gần Tết đến xin thầy viết cho câu liễn tốt lành đem đến những điều an vui cho tôi, mà sao thầy ghét, thầy hận tôi cái gì mà thầy nguyền rủa như vậy?

Thầy đồ hỏi:

- Nguyền rủa làm sao?

Bà liền đưa tấm liễn ra và nói:

- Thầy viết vậy coi có được không?!

Thầy đồ nói:

- Hãy từ từ, đừng vội nóng, hãy nghe tôi giải thích. Bà muốn gia đình suông sẻ, vui vẻ, hạnh phúc nhưng nếu trong gia đình bà, lỡ ông cha chết trước ông nội thì bà có thích không?

đáp lại:

- Đúng phép thì ông nội già phải chết trước, còn cha mà chết trước ông nội thì bất thường rồi.

Thầy nói tiếp:

- Rồi trường hợp con hoặc cháu chết trước cha thì sao?

Bà nói:

- Đó là sự bất hạnh.

Thầy nói:

- Như vậy, tôi đã chúc tốt cho bà rồi, không phải sao?

Nghe nói như vậy, bà thấy có lý!

Thầy đồ chúc ông nội chết rồi mới tới cha chết, cha chết rồi mới tới con chết, con chết rồi mới tới cháu chết, trong gia đình mà được tuần tự theo nhau ra đi như vậy thì đó là quá hạnh phúc rồi còn gì nữa! Nếu trong gia đình lỡ con mà chết trước cha thì đúng là quá bất hạnh. Câu chuyện đó nói lên lẽ thật: cuộc đời này luôn có những điều bất hạnh xảy ra. Ai cũng muốn nó đi theo chiều thuận nhưng không hẳn như vậy. Có những trường hợp con chết trước cha, có khi là cháu chết trước ông nữa, nếu thế thì đúng là bất hạnh. Cho nên ở đây, ông thầy đồ viết như vậy là để chúc mừng, mà hễ có chúc mừng tức là biết nó luôn luôn có sự bất hạnh trong đó. Đó là lẽ khổ của thân này. Cuộc sống con người không có gì bảo đảmchắc chắn an vui, bởi vậy mới phải cầu nguyện. Luôn luôn có nỗi lo sợ là nó sẽ thay đổi bất thường, mà có sự bất thường tức là có bất hạnh. Vì thế, khi gặp nhau người ta thường chúc hạnh phúc, chúc an vui, chúc khỏe mạnh v.v… Nếu đã thật sự hạnh phúc rồi thì cần chúc chi nữa, hoặc là nó khỏe mạnh an vui rồi thì đâu cần phải chúc. Đó để thấy rằng, bản chất của nó là luôn luôn có sự bất thường, không hẳn là an vui, là khỏe mạnh hoài.

Như vậy, bản chất thực của thân là khổ, là bất toại nguyện. Đó là bản chất thật của thân nhưng người đời thì cứ nhắm mắt lờ qua không dám nhìn đến sự thật của nó, không dám thấy rõ nên luôn gặp khổ. Vì con người không dám nhìn thẳng vào sự thật nên đến khi gặp thì bất ngờ! Còn nếu nhìn thẳng thấu rõ lẽ thật rồi thì khi nó xảy ra, biết rõ nó vốn là như vậy nên bớt khổ. Trong nhà Thiền có câu chuyện, Thiền sư Thiên Ưng - Đạo Ngô thường ngày hay nói: “Sống vui, sống vui” nhưng khi sắp tịch thì Ngài kêu lên: “Khổ! Khổ! Diêm vương tới bắt ta”. Viện chủ nghe vậy mới hỏi: “Đương thời Hòa thượng bị Tiết sử ném xuống sông mà thần sắc chẳng động, còn hôm nay sao lại thế này?”. Tức là lúc đương thời có lần quan Tiết sử đến hỏi chuyện, Ngài đáp câu gì đó quan không vừa ý nên sai lính đem Ngài quăng xuống sông, lát sau thấy Ngài ngồi xếp bằng trên nước tự nhiên! Thấy như vậy, quan hối hận mới sai người vớt lên và sám hối với Ngài. Do vậy, Viện chủ mới hỏi Ngài câu này. Lúc đó, Ngài đưa chiếc gối lên và bảo: “Ngươi nói đương thời là phải hay hôm nay là phải?”. Viện chủ không đáp được! Quý vị đáp được không? Đó là lời cảnh tỉnh mọi người phải thấy rõ bản chất thật của thân này, cuối cùng phải đi đến chỗ này. Bình thường nói vui vẻ vậy nhưng đến đây thì mới biết vui hay không vui. Thí dụ như bình thường chúng ta nói: “Tôi không sợ chết”, nhưng đi khám bệnh thì bác sĩ nói: “Anh bị bệnh ung thư, hai tháng nữa chết!” thì mới biết sợ khi cái lẽ thật này bày ra.

Cũng một câu chuyện trong nhà Thiền, có bà lão lớn tuổi thường đi đến lễ Phật và cầu: “Nam mô A-di-đà Phật, cầu Phật mau rước con về cõi Cực Lạc. Con bây giờ già khổ nên ra đi cũng vừa, ở đây thêm là khổ thêm, mong Ngài rước con đi sớm chừng nào thì đỡ chừng ấy”. Có ông Sa-di nghe được, nói thầm: “Để ta thử bà này một chuyến”. Sau đó, ông rình, từ xa vừa thấy bà cụ đi đến chùa thì ông vào núp sau lưng Phật không cho bà cụ thấy. Đến khi lễ Phật, bà cầu nguyện như mọi ngày: “Nam mô A-di-đà Phật, cầu Phật mau rước con về cõi Cực Lạc. Con bây giờ già khổ nên ra đi cũng vừa, ở đây thêm là khổ thêm, mong Ngài rước con đi sớm chừng nào thì đỡ chừng ấy”. Khi đó, trên tượng Phật phát ra tiếng: “Tốt lắm! Bà có lòng thành, vậy thì hay lắm! Hãy về chuẩn bị, chiều nay ta đến rước”. Nghe vậy, bà té xỉu! Đó để thấy, chúng ta nói như vậy chứ không phải như vậy. Bình thường thì nói nghe hay vậy, nhưng gặp chuyện thì không được vậy, đó là lẽ thật. Ở đây, Thiền sư Thiên Ưng - Đạo Ngô cảnh tỉnh cho mọi người, nên bình thường nói “Sống vui, sống vui” nhưng đến lúc đó thì mới biết làm chủ được hay không? Bản chất khổ của thân này vốn là như vậy. Đối với việc này, chúng ta phải có sự thực tu, thực chứng đàng hoàng chứ không thể lý luận hay nói suông được. Nhà Phật thường nhắc nhở người học Phật là phải khéo tiêu hóa được những lời Phật dạy là như vậy. Khi nghe nói về vô thường thì quý vị hiểu rõ nhiều nhưng gặp chuyện mới thấy nó thực vô thường hay không, lẽ thật là như vậy.

Thứ ba, nó là vô ngã:

Bản chất của thân là vô thường, là khổ, là vô ngã, tức không có tự tại, không được gì ở nó hết. Thân này không có chủ tể, không có tự tại. Khi nó già, chúng ta bảo nó đừng già được không? Nếu nó thực có chủ tể, nó thuộc về mình thì khi mình bảo: “Tôi ra lệnh cho mày là không được già” mà nó không già thì đó mới thật là thuộc về mình. Còn đây bảo nó đừng già cũng không được, bảo nó đừng bệnh cũng không được v.v… Bảo nó: “Mày phải mạnh hoài, không được đau nghe không!” mà nó đâu có nghe lời. Trong thân này, tóc mọc dài ra, móng tay dài ra, nhịp tim đập v.v… chúng ta nào có hay biết gì đâu? Nó làm gì làm, mình không hay biết gì hết. Nếu nó thực là mình thì khi mình bảo: “Hãy dài từ từ, đừng có ra sớm, mất công cắt móng tay!” thì nó phải nghe lời. Trái tim cũng vậy, nếu là của mình thì khi bảo nó: “Mày đập chậm chậm, đừng có đập mau quá thở không kịp!”, nó phải nghe lời chứ!

Cho nên, thân này đúng là không có ngã, không thuộc về ta, không có cái ta gì trong đó hết. Nó chỉ làm chuyện của nó, mình không thể xen vào được gì hết. Khi suy tìm, phân tích đến tột thân thể bên trong này thì tìm không ra cái ngã, cái ta. Cái ngã, cái ta mình đã chấp bấy lâu nay chỉ là tưởng tượng thôi. Trong tim, gan, phèo, phổi, tủy, não, máu, thịt v.v…, phân tích kỹ thì tìm đâu ra cái ta trong đó? Mình nói: “Động đến ta rồi đó!”, mà tìm đâu ra cái ta bị nói động đó? Cho đến cuối cùng, đem thiêu nó đi, những phần da thịt bị thiêu này thì khi đó tìm cái ta ở chỗ nào? Cũng tìm không ra luôn. Như vậy, cái mà mỗi ngày chúng ta nghĩ là ta đó thì thật sự ở đâu? Phải tìm cho ra nó, mà cuối cùng tìm không ra thì sao? Thì đó đều từ điên đảo vọng tưởng chấp mà thôi, hiểu kỹ như vậy thì chúng ta nhẹ bớt tâm bám chấp vào nó.

câu chuyện, một bà già ở gần Thiền viện của ngài Achan Chah đến xin Ngài một bài pháp ngắn gọn để bà về thực hành vì bà lớn tuổi học nhiều không nhớ. Thiền sư mới bảo: “Này bà cụ! Bà hãy lắng nghe, ở đây không có ai hết, chỉ vậy thôi! Không có ai là chủ nhân, không có ai là già, không có ai là trẻ, không có ai tốt, không có ai xấu, không có ai mạnh, không có ai yếu, chỉ vậy thôi! Tất cả đều trống rỗng, chỉ là các yếu tố khác nhau của thiên nhiên tác dụng hỗ tương vậy thôi.” Tức là thân trong đây không có ai hết, không có ai già, không có ai trẻ, đều là vô ngã, không có ta gì trong đó hết. Đơn giản, ngắn gọn, bà về ngẫm kỹ điều đó thì đó là chỗ tu ngắn gọn nhất, hiểu được vậy rồi thì bà khỏi sợ chết.

Một lần khác, Ngài dạy trong chúng: “Người ta không ai chịu nghiên cứu, học hỏi cái vượt ra ngoài tốt xấu; mà họ lại thường cứ nói rằng: ‘Tôi sẽ như thế này, tôi sẽ như thế kia” nhưng chẳng hề nghe ai nói: “Tôi sẽ chẳng là cái gì cả”. Thật sự là chẳng có tôi, đó là điều mà họ cần phải học mà lại không chịu học”. Quý vị thấy, ở đây Ngài nói thẳng sự thật không sợ mích lòng. Ngài nói cái đáng học hỏi vượt ra ngoài tốt xấu nhưng thường thì người ta luôn nói là: “Tôi sẽ như thế này, tôi sẽ như thế kia”, luôn đưa cái tôi lên. Vì tôi sẽ như thế này, sẽ như thế kia, mà không phải như thế thì khổ.

“Ít nghe ai nói: “Tôi chẳng là cái gì cả””. Sự thật thì cái tôi không thật có, nếu hiểu được như vậy thì cuộc đời chúng ta sẽ bớt nhiều phiền não, khổ đau. Nghĩ: ‘Tôi không là gì cả’ nên khi có ai nói động đến thì khỏi động lòng. Nếu không vậy sẽ nghĩ: ‘Tôi là bác sĩ mà nói như thế sao?’ thì có chuyện. Vì cho tôi là cái này, cái kia thì chính những cái tôi đó đưa đến phiền não. Đây Ngài nói sự thật: “Không có gì là tôi hết”, đó chính là điều mọi người cần phải học, nhưng lại ít ai chịu học. Học Phật là học lẽ thật mà sao thấy ít ai học lẽ thật. Điều này không phải Phật bày ra cho chúng ta học, không phải như vậy. Phật chỉ chỉ ra cho chúng ta thấy đúng như vậy thôi, chứ không phải Phật đặt ra để bắt mình phải học. Do vậy, nếu hiểu rõõ, quán kỹ lẽ thật trong thân đây: “Không có gì thật là tôi hết” thì sẽ nhẹ nhàng bớt khổ nhiều.

Ngoài thế gian, người hay tự ái khổ nhiều là vậy, nói động một chút là tự ái, mà tự ái là động tới “tôi” chứ gì nữa! Còn ở đây, không có gì là tôi hết thì ai tự ái? Nhờø vậy thì ngay đó là bớt khổ. Cho nên, Phật dạy các đệ tử của mình phải khéo đặt gánh nặng khổ đau này xuống thì nó sẽ nhẹ bớt. Mà tại sao chúng ta cứ gánh lên hoài rồi cầu Phật cứu khổ! Chúng ta phải chịu đặt nó xuống, gánh hoài làm gì! Gánh nặng này ai bảo chúng ta gánh đây? Không ai bảo gánh hết, Phật còn bảo chúng ta buông bỏ xuống nữa, mà chúng ta lại không chịu đặt xuống, rồi cứ than khổ hoài. Vậy là chính mình làm khổ mình mà không hay, chỉ cần chịu khó đặt nó xuống thì nhẹ nhàng. Học Phật cũng là học để đặt gánh nặng xuống, quán rõ bản chất thật của thân là như vậy, thấy đúng như vậy thì sẽ rất nhẹ nhàng, là bớt khổ liền.

Thứ tư, là xả vọng chấp.

Khi chúng ta thấy rõ bản chất của thân thì phải bớt vọng chấp vào nó, nhờ vậy mà bớt khổ, cởi mở được phiền não. Có ai trong đó để chấp, để phiền não. Giả như thật có “ai” trong đó cho mình chấp thì cũng tạm được đi, còn đây tìm không ra cái “ai” đó thì chấp là chấp cái gì? Mà mình thì lại chấp nên việc không đáng khổ mà phải khổ. Tất cả mọi thứ buồn, vui, giận, ghét, hơn, thua v.v… ở thế gian này đều được xây dựng trên nền tảng của cái “ta” chứ không có hết. Nếu cái “ta” nền tảng đó bị sụp đổ thì mọi thứ kia bám vào đâu? Quý vị nghe hiểu điều đó rõ chưa? Tuy nghe rồi có nhận hiểu điều này thì cũng có thể được đó, nhưng ý nghĩa thật này thì không nằm trên ngôn từ, lời lẽ. Vậy nó ở đâu? Nó nằm ở trong tâm mỗi người. Đó là lẽ thật. Nghĩa là vô thường, khổ, vô ngã ở trong đây khác với nghĩa vô thường, khổ, vô ngãchúng ta diễn đạt nãy giờ. Đây là mới diễn tả trên ngôn từ thôi, còn những bậc thấy đạo thì thấy trực tiếp nên sự cảm nhận sẽ khác hơn những lời này, không thể diễn tả trên ngôn từ.

Quý vị phải nhớ kỹ điều này. Nghĩa là cái vô ngã được trình bày với cái vô ngã ở nơi tâm của mỗi người mà mình cảm nhận được thì sẽ thấy có khác, không phải như lời lẽ diễn tả. Nói như vậy là vì muốn nhắn nhủ tất cả: “Mỗi người phải có thực hành, phải có đặt chân đi thật sự để khi cảm nhận được lẽ thật thì chúng ta sẽ thấy rằng Phật pháp hiện hữu ngay trong cuộc sống hàng ngày, ở tất cả mọi nơi chứ không phải chỉ ở trong bộ kinh này, bộ kinh kia”. Chúng ta học Phật pháp là học kinh này kinh kia nhưng Phật pháp thực sự thì hiện hữu khắp mọi nơi trong cuộc sống hàng ngày của mọi người. Thí dụ, quý vị đi đường lỡ đạp phải cây gai thì Phật pháp là ngay chỗ đó, là hiện chỗ đó, không cần phải giải thích dài dòng. Là vì sao? Đang đi đường mà đạp trúng cây gai là thấy khổ rồi! Vô thường, khổ ngay đó thôi! Phật pháp là ở ngay chỗ đó chứ đâu phải ở trong sách vở này. Đang mạnh khỏe, nay trùm mềm nằm, cảm rồi. Ngay đó vô ngã lộ ra liền! Thấy được như vậy thì mới thấy được lẽ thật, nên chúng ta học đây là học để đi vào thực tế chứ không phải học trên chữ nghĩa. Học được như vậy thì chúng ta sẽ thấy cuộc đời bớt dần những vướng mắc, những khổ đau. Đó là thực tế, là lẽ thực chứ không phải chỉ là lý luận suông.

câu chuyện, một người đàn bà có chồng vừa mới chết nên liền đến một vị Lạt-ma để cầu mong sự an ủi. Gặp lúc vị này đi vắng, bà mẹ của vị ấy đang ở nhà thấy vậy thì kêu lại an ủi: “Con nghe đây! Chuyện đó là chuyện vô thường, là chuyện phải đến thôi. Con có khổ nhưng mà con phải biết dừng lại bớt. Bây giờ có thể là con khóc, rồi con bứt tóc bứt tai nhưng con cũng phải biết nghĩ lại và bớt buồn. Con đừng quên rằng ngay cái tâm trạng buồn khổ của con đây cũng vô thường, không có thực thể gì. Nó cũng như gió như mây vậy thôi, rồi nó cũng sẽ tan, sẽ vơi đi như mọi thứ ở trên đời. Cũng như ta đây là một bà già và ta cũng đã từng buồn, từng khổ, từng thấy nhiều người thân đến rồi ra đi, nên lời khuyên của ta cho con là đừng có mang vào lòng bất cứ thứ gì hết”. Đó là lời khuyên thiết thực, bởi vì tất cả đều là vô thường biến đổi, không có gì là thực hết nên đừng mang vào lòng cái gì thì sẽ bớt khổ. Người mang càng nhiều thì càng nặng, mà càng nặng thì càng khổ vậy nên đừng có mang gì hết thì bớt khổ.

Khi trở về, nghe được lời khuyên ấy, vị Lạt-ma bèn giảng nghĩa với nhóm học trò: “Đối với tôi thì chẳng có giáo pháp nào cao hơn lời nói của bà mẹ là phải tự nhận ra tính vô thường của sự vật, thấy chúng không có tự ngã và đừng mang bất cứ cái gì vào lòng cả”. Tức là thấy đúng lẽ thật về tính vô thường của sự vật, tất cả đều không có tự ngã nên không mang cái gì vào trong lòng thì sẽ bớt khổ đau. Đó là lời dạy tóm tắt về giáo pháp của Đức Phật, quý vị chịu khó ứng dụng để sống thì bớt khổ đau liền. Như có ai đó nói nặng một câu mà mình nghĩ cái đó cũng vô thường thì tiếng nặng đó cũng không có gì chắc chắn hết. Thí dụ như họ nói “Anh như trâu!”, nói xong thì tiếng đó tan vào trong hư không rồi đâu còn gì! Nhưng trong đầu chúng ta thì cứ ghi nhớ cái tiếng đó hoài. Nó tan mất rồi nhưng trong này cứ nhớ, cứ lãng vãng hoài “Anh như trâu!”, “Anh như trâu!”, “Anh như trâu!” … Khổ là ở cái chỗ đó. Cứ y như vậy mà mang nó, nhẩm tới nhẩm lui giống như người viết chữ. Đồ tới đồ lui càng đậm thêm nữa, đến tối lên giường ngủ lại đồ thêm thì ngủ không yên, trằn trọc suốt đêm thành tự làm khổ chính mình, trong khi câu đó thì tan mất tiêu từ lâu rồi! Do vậy, khi hiểu lẽ thật thì phải buông bớt bám chấp vào đó, thì sẽ bớt phiền não, bớt khổ đau, lẽ thật là như vậy.

Tóm kết lại, lâu nay chúng ta đã quen nhìn theo thói quen hồ đồ nên chưa gì thì chụp bắt liền mà không cần biết thực hư gì hết. Cứ thấy là bắt nên khổ là chỗ đó. Bây giờ học Phật rồi thì phải tập nhìn chín chắn trở lại, thấy cho đúng bản chất thật của thân này: nó như thế nào thì phải thấy đúng như vậy. Phật không bắt buộc chúng ta khi nghe nói là tin ngay, mà cần phải quán sát kỹ, không phải chỉ thấy cái tướng ngụy trang bên ngoài này mà cần phải thấy thấu đến cái thân bên trong nó. Lẽ thật này luôn luôn sáng ngời, không có gì phải che giấu hết. Việc này chúng ta có thể quán xét thấy rõ, không phải khó khăn tìm kiếm đâu xa ở trên núi, trên non hoặc học pháp xuất hồn lên cõi Trời để thấy nó, mà lẽ thật này ở ngay nơi mình, trong thân mình. Người ta thích những cái lạ còn cái thực ngay nơi mình đây thì không chịu làm nên chúng ta phải tập, phải nhìn cho rõ để thấy đúng lẽ thật. Có thấy đúng mới có nhìn đúng, mới có suy nghĩ đúng, thì mới có nói đúng, sống đúng, làm đúng thì đó mới là con đường chân chánh đưa đến giải thoát khỏi đau khổ.

Phải nhớ, người học Phật là học sự chân thật, học lẽ thật để thấy đúng như thật về các pháp. Nó như thế nào thì phải thấy đúng như thế ấy, không thể phủ lấp được. Đó chính là con đường trí tuệ, lối đi giác ngộ mà chính Đức Phật đã ra đời để khai sáng cho chúng sanh đi theo. Bây giờ chúng ta tu khỏe quá, Đức Phật đã vạch đường đi sẵn cho rồi. Chính Đức Phật mới khó khăn vì Ngài phải tự đi tìm lối đi, rất là khổ sở. Bây giờ chúng ta chỉ có đi thôi mà còn không chịu đi nữa thì lỗi tại mình rồi. Điểm căn bản là ở ngay nơi cái “ta” này thôi chứ không đâu khác, đây là then chốt của mê và giác, của phiền nãogiải thoát. Chúng ta cột trói là ngay chỗ đó, khéo mở là cũng ngay chỗ đó. Do vậy, mình phải ngay đây mà lên đường chứ không phải tìm đâu khác.

Phải khéo nhớ kỹ, quán sâu chỗ này, luôn luôn nhớ kỹ lẽ thật này. Cái “ta” này quyết chắc chắn không phải là ta, dù nó có là cái gì đi nữa: “Ta là thân này”, “Ta là đẹp”, “Ta là xấu”, hoặc “Ta là sư cô”, “Ta là sư trưởng”, hoặc “Ta là bác sĩ”, “Ta là kỹ sư” gì đó v.v…. Phải hiểu kỹ: “Nó không phải là ta!”. Nhớ kỹ vậy, luôn luôn không lầm chứ đừng nghĩ rằng: “Ta là nó”. Cái đó là nguy! “Cái ta này quyết chắc chắn không phải là ta”, đây là chân lý muôn đời không đổi thay. Chúng ta không thể chết chìm trong đó mà chịu khổ lâu dài, không phải là khổ một ngày hai ngày, mà là khổ từ kiếp này qua kiếp khác, luân hồi trong sanh tửmê lầm theo nó. Cái này Phật gọi là sống trong điên đảo: không phải thực mà chấp là thực. Mình chấp nó là thân ta nhưng sự thật thì mình không biết rõ về nó.
Thiền sư Achan Chah nói: “Nếu cơ thể này biết nói thì suốt ngày nó sẽ nói với chúng ta như thế này: “Bạn không phải là chủ của tôi đâu, bạn có biết không?””. Tức là thân mình nếu biết nói nó sẽ nói như vậy, mình cứ nói: “Tôi là chủ của nó”ù nhưng nếu biết nói thì nó sẽ nói ngược lại.

“Thật ra nó đang nói với chúng ta đấy, nhưng nó dùng ngôn ngữ giáo pháp để nói nên chúng ta không hiểu được”. Tức là hằng ngày nó vẫn đang nói với chúng ta, nhưng nó không nói bằng ngôn ngữ thế gian này mà nó đang nói bằng ngôn ngữ của giáo pháp, mà mình thì không nghe, không chịu nghe. Ở đây quý vị có ai nghe được tiếng nói của nó chưa? Nghe được tiếng nói này thì ghi nhận để sống, để tu thì không phải nhọc nhằn mỗi tháng đến nghe pháp nữa, nó nói với mình hàng ngày rồi. Vì không chịu nghe nó nên cứ phải đi nghe pháp hoài. Đây quả đúng là lời của những bậc đã hiểu rõ, sống thực thì nói thực, chỉ ra lẽ thực. Ngoài đời, người ta không dám nói thực như vậy nhưng trong đạo thì phải nói thực, nó như vậy thì phải nói như vậy, không che lấp gì hết vì đó là lẽ thực.

Mong rằng tất cả đều học, đều sáng tỏ được lẽ thật này, bước đi vững trên đường giải thoát thì Phật pháp vẫn luôn hiện hữu ở trong đây chứ không đâu xa xôi hết.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7355)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4521)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4574)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7338)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2965)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12220)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3996)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3807)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4224)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3686)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5064)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6688)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4011)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4126)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5339)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3789)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4531)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3552)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3932)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4391)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5396)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3844)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3941)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3876)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4828)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4527)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4261)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3830)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4638)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4210)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6112)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4611)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4952)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4193)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4826)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5671)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3653)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4040)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4591)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5287)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3149)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4764)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4559)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4293)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4743)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4491)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4607)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7219)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5213)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5008)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4599)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5618)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5271)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4163)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6021)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4721)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4880)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5485)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5622)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5823)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant