Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kho Tàng Sáng Suốt Vĩ Đại Của Tự Tánh

09 Tháng Bảy 201422:01(Xem: 8660)
Kho Tàng Sáng Suốt Vĩ Đại Của Tự Tánh

Kho Tàng Sáng Suốt Vĩ Đại Của Tự Tánh

H.T. Tuyên Hóa

Chúng sinh sinh ra từ vô thủy, chết ở vô chung, trôi lăn trong vòng sống chết. Chúng sinh trong cõi luân hồi vô thủy vô chung ấy đến rồi đi, đi rồi đến giống như hạt bụi nhỏ, phút chốc bỗng sinh trên trời, bỗng chốc sinh trên mặt đất, sinh trong loài người, hoặc sinh làm thú vật, hay sinh ở địa ngục hay sinh trong loài Atula. Không có lúc khởi đầu, cũng chẳng có lúc chấm dứt. Chỉ đến khi nào bạn đạt được quả vị Phật, bạn mới chấm dứt đượĩc luân hồi sinh tử. Nhưng trước khi trở thành Phật, bạn vẫn còn trong vòng triển chuyển luân hồi. Nên nói : "(Bồ tát hữu cách ấm chi mê, La Hán hữu trụ thai chi hôn). Bồ Tát còn mê lầm khi thọ thân ngũ ấm. A-la-hán còn hôn muội lúc trụ thai" cho dù bạn là một bậc Pháp thân đại sĩ thị hiện giữa đời, đôi khi bạn vẫn còn bị dòng sinh tử cuốn phăng khiến cho mê muội, không biết làm sao chấm dứt dòng sinh tử ấy.

Sự sống chết của chúng ta, sinh ra rồi chết, chết rồi lại sinh, đó là một vòng sinh tử lớn lao. Ngoài ra, ta còn có một vòng sinh tử nhỏ nhoi nữa, đó là ngày ta sinh ra, dù được sinh ra nhưng có nghĩa là ta đã chết rồi. Ngày ta chết được đặt vào ngay ngày ta chào đời. Do vậy, cuộc đời chúng ta là một vòng tròn vĩ đại tiếp nối giữa sự sống và sự chết. Nên nếu ta được sinh ra vào một ngày thì cũng sẽ có một ngày ta chết đi. Vì một khi có sự sinh ra thì cũng có sự chết đi. Nếu không có sự sinh ra thì cũng không có sự chết.

Khi nói vô thủy -- không có chỗ khởi đầu -- Mọi người đều giải thích như một sinh thể hiện hữu mà không có sự sinh ra và không biết khi nào thì hủy diệt. Điều đó liên quan đến thời gian vô thủy ; nó bắt đầu từ một kiếp vô cùng tận, không có sự khởi đầu trong quá khứ, suốt tới một kiếp không cùng tận trong tương lai. Vậy thì cái gì là vô thủy (không có chỗ khởi đầu)? Và cái gì là không có nơi kết thúc (vô chung)? Đó là cái mà mọi người đều biết, trong Anh ngữ gọi là zero, và tiếng Hán gọi là ling (số O). O này không có khởi đầu cũng không có chỗ kết thúc. Cái không khởi đầu chỉ có thể là O. Nếu bạn cắt rời cái O này ra, nó trở thành một ( trong tiếng Hán có nghĩa là NHẤT), Đây là chỗ bắt đầu, một lần là 1, rồi một lần nữa là 2; khi bạn thêm 1 và cứ thêm 1 vào nữa sẽ có 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10. Từ 10 thì số 100 sẽ được lập. Từ đó biến thành vạn (trăm ngàn), rồi 100 vạn (triệu), thiên vạn ức , mãi đến vô tận. Đó là chỗ khởi đầu của con số.

Trong thời đại khoa học ta đang sống hiện nay, chúng tathể chế tạo hỏa tiển để đưa vệ tinh vào không gian. Các vệ tinh bay quanh quỹ đạo không gian mà không bao giờ ngừng, đó là khởi đầu (hữu thủy) . Với sự giúp sức của toán học, của máy tính, ta có thể phóng hỏa tiễn vào không gian. Đó là tác dụng của sự bắt đầu (hữu thủy). Đó là sự biến hóa của số học. Thế thì có chỗ kết thúc chăng? Chúng ta chưa biết lúc nào kết thúc, nhưng sự việc thì dần dần tiến đến sự chấm dứt (chung). Tương tự như giai đoạn không trong 4 tiến trình Thành -- Trụ -- Hoại -- Không . Kiếp Thành là khởi đầu . Kiếp này trãi qua 20 tiểu kiếp rồi đến Kiếp Trụ 20 tiểu kiếp, Kiếp Hoại 20 tiểu kiếp, Kiếp Không 20 tiểu kiếp. Có thể nói đó là một vòng khởi đầu và kết thúc.

Tất cả chúng sinh đã từng xuất hiện từ vô thủy kiếp đến nay, bạn nói họ từ đâu đến ? Bạn hãy nghiên cứu xem. Thí dụ như loài người chúng ta. Phải chăng người đàn ông hiện hữu trước đàn bà, thế thì không có đàn bà ai sẽ sinh ra đàn ông. Nếu bạn cho rằng đàn bà có trước, thế thì không có đàn ông làm sao có đượĩc đàn bà ?. Đây là "vô thủy" - chẳng biết được khởi đầu từ đâu. Lấy một ví dụ khác. Bạn nói rằng gà có trước trứng, hay trứng có trước gà? Ta có thể nói gà sinh từ trong trứng. Tốt, nếu không có gà, lấy đâu có trứng ? Sự suy cứu của chúng ta không sáng tỏ được đạo lý này. Gà cũng đến từ không nơi khởi đầu - vô thủy -, con người cũng đến từ nơi không khởi đầu, từ O. O này thì vô thủy vô chung - không chỗ khởi đầu và không nơi kết thúc, nó chẳng có trong, chẳng có ngoài, chẳng nhỏ, chẳng lớn. Về phương diện cực vi để xét, O này nhỏ như vi trần. Nếu ta phóng lớn nó ra, O này bao trùm cả pháp giới. Đến cùng tận hư không, khắp cả pháp giới không có gì qua khỏi O này . Nếu đem cùng tận hư không khắp cả pháp giới nghiền thành vi trần, thì hạt vi trần ấy cũng chẳng rời khỏi cái O mà có. Do vậy, O là cội nguồn của muôn sự sinh sinh hóa hóa. Là nguyên lý chân không diệu hữu, chẳng khởi đầu, chẳng kết thúc của vạn vật. Khi O mở ra, nó biến thành hư không, thành Pháp giới. Đó là chân không, khi thâu nó lại, O thành vi trần. Dù hạt bụi tuy nhỏ nhưng chúng là một sự hiện hữu nhiệm mầu là "diệu hữu". Các bạn hãy quan sát kỹ điều này. Nếu hiểu được đạo lý này, tức là bạn hiểu rõ chân Pháp. Nếu chưa hiểu, thì vẫn còn là người mê muội, chưa phải là người có trí tuệ chân chính.

Nếu bạn đã khai ngộ, thì O này là trí tuệ sáng suốt rộng lớn (đại trí huệ quang minh). Còn nếu bạn chưa giác ngộ thì nó chính là vô minh. Vô minh cũng chỉ là cái O này. Trí tuệ sáng suốt lớn lao cũng chỉ là cái O này. Vậy, O là khởi đầu và là kết thúc, nó chẳng ở trong mà cũng chẳng ở ngoài, chẳng lớn, chẳng nhỏ. Nó rất lớn, chẳng vật gì ở ngoài nó được, chẳng có gì lớn hơn nó được. Khi bạn vẽ một vòng tròn, bạn có thể vẽ lớn chừng nào cũng được, hay muốn nhỏ cỡ nào tùy ý. Do đó, nó rất lớn, chẳng có gì ở ngoài nó cả, và nó rất nhỏ đến nỗi không có gì nằm trong nó được. Cái lớn của O hóa thành bản nguyên thanh tịnh, bản tánh chơn như nhiệm mầu (thanh tịnh bản nguyên, chân như diệu tánh). Cái nhỏ nhiệm ẩn tàng của Omột niệm vô minh tối sơ. Đây là điều tôi muốn nói về vô thủy.

Luân hồi sinh tử cũng là cái O này. Gọi là luân hồi trong 6 nẻo, cũng chính là luân chuyển trong O. Trước khi vòng tròn này bị phá vỡ, chúng sinh sinh rồi chết, chết rồi lại sinh, luân hồi trong O vô lượng vô biên đại kiếp. Đây gọi là luân hồi vĩnh cửu trong vòng sống chết. Bạn xem chữ "vĩnh cửu" ấy có đáng sợ không? Đúng vậy! Một khi bạn đã trôi lăn, trôi lăn mãi trong vòng luân chuyển ấy. Do đâu bạn mãi trôi lăn? Do niệm niệm sinh sinh diệt diệt không ngừng trong tâm bạn tạo nên. Khi bạn khởi lên một niệm xấu ác, bạn liền trở thành súc sinh, quỷ đói hay loài ở địa ngục. Nếu tâm niệm bạn hướng về sự thanh tịnh, có thể bạn sẽ tái sinh trong loài người, loài Atula, hoặc sinh trong cõi Trời. Tất cả mọi sự luân chuyển này đều do tâm bạn tạo thành. Vì tâm ta đã tạo nghiệp luân hồi, nên ta nhận lãnh quả báo luân hồi. Không phải nghiệp bắt đầu có khi ta nhận lấy quả báo, mà thực ra, bạn đã tạo nên nhiều vọng tưởng trong quá khứ. Vọng tưởng về cõi Trời, bạn sẽ thọ báocõi Trời, với vọng tưởng về loài Atula, bạn sẽ thọ báo trong loài A-tu-la, với vọng tưởng về loài người, bạn sẽ sinh ra trong loài người, với vọng tưởng về loài súc sinh, bạn sẽ tái sinh trong loài súc sinh; với vọng tưởng về loài quỷ đói, bạn sẽ sinh ra trong loài quỷ đói, với vọng tưởng về địa ngục, bạn sẽ sinh ra trong địa ngục để chịu quả báo. Nếu bạn thường tạo ra nhiều chuyện ác nghiệt, bạn sẽ thọ báo trong 3 đường dữ (ngạ quỷ, súc sinh, địa ngục). Nếu bạn thường gieo trồng nhiều công đức, phước thiện, thì bạn sẽ thăng hoa trong 3 nẻo đường lành (cõi người, cõi trời, cõi Atula). Đây chỉ là giải thích tổng quát. nếu muốn giải thích tường tận, sợ chúng ta không có đủ thời gian. Cho nên, thế giới này là do vọng tưởng của chúng sinh tạo thành. Nếu không ai có chút xíu vọng tưởng nào, thế giới này sẽ là không.

Chúng sinh đều không hiểu nổi pháp chân không thực tướng, pháp chân như thực tướng, pháp chân không diệu hữu, tất cả đều được gọi làchân thực Pháp. Pháp chân không diệu hữu chỉ là cái O mà tôi đề cập nãy giờ. Cõi đất trời rộng lớn này đều được xuất sinh từ O, cho đến thế giới bao la vô tận này cũng thế, rồi vô lượng chúng hữu tình và mọi vạn tượng khác cũng thế. Bởi vì O không rơi vào trong phạm trù của các con số, nó cũng không nằm trong các con số, nó vượt trên mọi số lượng và sự tính toán. Nó vô thủy vô chung, chẳng trong chẳng ngoài, không lớn không nhỏ. "Khi phóng ra nó trùm 6 hướng. Khi thu vào nó ẩn tàng trong vi mật", phóng chi tắc di lục hợĩp, quyện chi thối tàng ư mật. Chân thật Pháp cũng chính là pháp Chân Không Diệu Hữu. Chân không mà chẳng không. Sao vậy ? Vì nó chứa đựng Diệu Hữu. Diệu Hữu nhưng không phải là có. Vì sao? Vì nó bao hàm chân không. Nên nói :"Chân không chẳng ngăn ngại Diệu Hữu, Diệu Hữu chẳng cản trở chân không." Đạo lý này giải quyết được vấn nạn đàn ông có trước hay đàn bà có trước. Hóa giải luôn vấn đề gà có trước hay trứng có trước. O này có thể hóa giải mọi vấn đề. Sao vậy ? Vì O tức Chân Không. Chân Không có thể hiển bày Diệu Hữu, có thể hiển bày vạn pháp. Nhưng Diệu Hữu chẳng tách rời Chân Không. Khi chưa ngộ được pháp truyền tâm ấn của chư Phật thì khó hiểu được nổi cảnh giới này. Nếu sáng tỏ được pháp môn lấy tâm ấn tâm của chư Phật , thì bạn sẽ hiểu được đạo lý này. Do vậy, nên nói : "Bất liễu chân thật Pháp," không hiểu đặng Pháp chân thực.

Chúng sinh đều đầu gắn thêm đầu, đều cỡi trâu mà tìm trâu, đều hướng ngoại truy cầu, không biết cách tự quay trở lại tìm thấy ngay nơi mình (hồi quang phản chiếu). Pháp chân thật vốn hằng có đầy đủ trong Tự Tánh. Ta không cần phải hướng ra ngoài tìm cầu. Nếu bạn cố hướng ra ngoài tìm cầu, dù có trải qua tám chục ngàn đại kiếp vẫn không thấy được. Tuy vậy, nếu bạn quay trở lại tự soi sáng chính mình, sẽ nhận ra ngay tức khắc . Nên nói: "khổ hải vô biên, hồi đầu thị ngạn", biển khổ mênh mông, quay đầu là bờ. Cũng tức là: khi bạn tìm kiếm bên ngoài, ấy chính là biển khổ mênh mông, khi bạn hướng vào trong, dụng công nơi tự tánh, đó chính là quay đầu liền thấy bờ.

Chúng ta điên điên đảo đảo, từ sáng đến chiều, truy đuổi vọng duyên, trôi theo sáu căn sáu trần, không hiểu được Pháp chân thật. Đức Phậtcõi Thường Tịch Quang ngồi kiết già nhập định. Ah! Tuy ở trong định, nhưng muốn chạy đến thế gian này. Vì sao? Bởi vì các Ngài thấy chúng sinh chúng ta quá ngu si, quá thảm hại. Chúng sinh đã bỏ quên mất bản tánh chân thật của mình, mà đuổi theo vọng tưởng. Chúng ta không biết cách từ bỏ vô minhquay trở lại với tánh giác, không biết cách từ bỏ vọng tưởng mê lầm trở về với bản tánh chân thật; chẳng biết cách mượn cái giả để tập tính chân thường; chẳng biết cách quay lại soi sáng nội tâm. Chúng ta thật đáng thương xót. Do vậy, chư Phật ở trong đại định thường khởi tâm Đại từthị hiện đến thế gian này để chỉ rõ mê tâm cho chúng ta. Tuy vậy, ta mãi chìm đắm trong vọng tưởng, mãi truy cầu vọng duyên mà không nhận ra Pháp chân thực này. Đức Phật càng chỉ bày, chúng ta càng quay lưng với Ngài. Đức Phật lắc đầu thất vọng, Chúng ta đã phụ lòng Đức Phật. Chúng ta sẽ ra sao nếu chúng ta cứ mãi phụ lòng Ngài ? Thế thì bạn sẽ trở về lại với chiùnh mình, khi bạn thực hành như thế. Đức Phật sẽ hiện hữu, ngay trước mặt bạn để dạy bảo và hóa đôâĩ cho bạn. Do đó mới thực là: "Chư Phật hiện hữu ở thế gian".

Pháp chân thực này không thể bị biến hoại bởi hàng ngoại đạo. Nếu bạn minh bạch được pháp chân thực, hiểu rõ rằng pháp ấy bao hàm vạn vật đến tận hư không, khắp pháp giới, Cõi Phật, Cõi Ma, Cõi Trời, Thiên Ma ngoại đạo đều bao hàm trong pháp chân thật này, chẳng có vật gì ở ngoài pháp ấy. Do đó ngay đến thiên ma ngoại đạo cũng đều sẽ phải tùy thuận với chính pháp. Sao vậy ? Vì chúng không thể phá hoại chính pháp được. Chánh pháp không thể bị hủy hoại bởi bất kỳ thế lực nào cả. Nếu Pháp bị phá hủy, đó không phải là pháp chân thật. Pháp chân thật không thể bị phá hoại được.

Tự tánh, sáng suốt rộng lớn của chúng ta chính là O này. Khi bạn tu hành được viên mãn rồi, kho tàng sáng suốt rộng lớn này sẽ xuất hiện, năng lực tự tạiđại từ kho tàng sáng suốt rộng lớn ấy sẽ xuất hiện. Kho tàng rộng lớn sáng suốt ấy trùm khắp pháp giới, rộng lớn như hư không. Do vậy, Đức Phật đến thế gian này để chỉ bày cho chúng sinh pháp môn liễu sinh thoát tử, pháp môn quay lại quán chiếu tự tâm mình. Pháp môn quay lại với nguồn tâm gốc tánh của mình. Trí tuẹâ sáng suốt vĩ đại của bạn sẽ chuyển hóa trọn vẹn mọi vô minh và hiện bày pháp thân chân thật vốn có trong chính mình.

Nếu các bạn không tin tôi nói, hãy thực hành thử xem. Khi cơ duyên đã chín muồi, bạn sẽ không có cách gì không tin. Dù không muốn tin, bạn cũng sẽ tin. Bởi vì nó là như vậy, bạn có cách gì không thể không tin không? Kho tàng sáng suốt rộng lớn này vốn là của bạn, chẳng có ai đem đến cho bạn cả. Cũng chẳng phải Đức Phật mang đến cho bạn đâu. Trong bạn vốn đã có đầy đủ từ lâu rồi!

Khai thị của Hòa thượng TUYÊN HÓA

(http://www.dharmasite.net)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1624)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1613)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1010)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1481)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1467)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1649)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1913)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1495)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1329)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1350)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1521)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1117)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1241)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1246)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1675)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1627)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2917)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1799)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1355)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1213)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1266)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1384)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1304)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1905)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1656)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1872)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1800)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2373)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1775)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2104)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2173)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2283)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1830)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1960)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2005)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1923)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2567)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1924)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1854)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1928)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1872)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2132)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2282)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1948)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2057)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1842)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1885)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2392)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2306)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3928)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2455)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3159)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2450)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2033)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1786)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3287)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2328)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3005)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2682)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant