Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quán Niệm Được An Lạc

19 Tháng Sáu 201421:39(Xem: 8389)
Quán Niệm Được An Lạc

Quán niệm được an lạc

Quảng Tâm

quan-niem-duoc-an-lac-300x297Trong giáo lý của đạo Phật, có một pháp môn tu tập khá quen thuộc, có thể làm giúp lắng sạch nội tâmđiều trị được các chứng bệnh khác nhau của tâm thức như căng thẳng bất an hoặc phiền muộn khổ não, khiến cho tâm trở nên trong sáng, hân hoan, thanh thản, an lạc. Đó là pháp môn niệm Phật hay phương pháp nghĩ nhớ về Phật: “Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Phật: “Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn”. Do vị ấy niệm Phật, tâm được tịnh tín, hân hoan khởi lên, các phiền não của tâm được đoạn tận” (1).

Niệm (sati/anussati/anussarana) tức là nghĩ nhớ, ức niệm, suy tưởng, chú tâm quan sát hay hướng tâm đến một đối tượng nào đó thuộc tâm thức và giữ cho đối tượng đó luôn luôn sinh động ở trong tâm, theo đó tâm được an trú, định tĩng và sáng suốt. Đây là phép luyện tâm trong đạo Phật, có khả năng chuyển đổi tâm thức từ tán loạn sang định tĩnh, từ cấu uế sang thanh tịnh, từ xáu ác sang hiền thiện, hoặc có khả năng chuyển hóa cái nhìn từ u ám đến sáng suốt, từ mê lầm sang giác ngộ.Thông thường, niệm hay chú tâm trên đối tượng có hai tác dụng. Thứ nhất, giữ cho tâm định tĩnh, an trú, chuyên nhất trên đối tượng, không để tâm dao động tán loạn, nhảy từ đối tượng này sang đối tượng khác. Thuật ngữ đạo Phật gọi trạng thái như vậy là tịnh chỉ (samatha), có khả năng đem lại cho người thực hành các kinh nghiệm hỷ lạc sâu lắng và nội tâm an tịnh. Thứ hai, khiến cho tâm trở nên tỉnh giác sáng suốt, nhận biết rõ ràng và sâu sắc bản chất của đối tượng. Phật học gọi trạng thái như vậy là tuệ quán (vipassanà), có khả năng giúp cho hành giả thành tựu tuệ giác, hướng đến mục tiêu giải thoát khổ đau. Từ định nghĩa trên về phép quán niệm, đạo Phật đề xuất nhiều đối tượng quán niệm khác nhau, cốt yếu giúp cho người thực hành tìm thấy phương pháp thích hợp để luyện tập tâm trí trở nên định tĩnh, trong sángthanh tịnh. Niệm Phật hay chú tâm trên các đức tính của Phật là một trong số các phương pháp quán niệm mang ý nghĩa luyện tâm như vậy.

Thông thường, chúng ta sống hàng ngày với cái tâm đổ đầy ký ức và dự tính, không còn chỗ trống cho một niệm nghỉ ngơi. Chúng ta hết truy tìm quá khứ lại mơ tưởng tương lai và do vậy chúng ta luôn cảm thấy căng thẳng bất an hoặc lo âu phiền muộn, không có được một giây phút thật sự an lạc. Chúng ta không được an lạc vì tâm chúng ta không đứng yên một chỗ. Nó hết bị ám ảnh bởi ký ức quá khứ lại bị thôi thúc bởi ý tưởng tương lai và do vậy nó không an trú trong hiện tại. Nó đang bị dục vọng lôi cuốn, làm cho quay cuồng, căng thẳngmệt mỏi ở trong thế giới của những cảm xúc bấn loạn hoặc vui buồn hoặc yêu ghét. Nói cách khác, tâm của chúng ta đang bị uế nhiễm bởi các tạp niệm, tức các ký ức hay vọng tưởng không ngừng xâm chiếm khiến cho tâm trở nên dao động quay cuồng, rơi vào vòng xoáy của tư duy nhị nguyên phân biệt, tạo nên các phản ứng tâm lý hoặc vui buồn hoặc yêu ghét. Vui hay buồn, yêu hay ghét là các trạg thái dao động ô nhiễm của tâm thức, phát sinh cơ bản do tạp niệm hay bởi tâm phân biệt vọng tưởng. Niệm Phật hay nghĩ nhớ về Phật, do đó, là phương cách đưa tâm về với hiện tại, khiến cho tâm an trú trên các đức tính cao quý của Phật hay khiến cho toàn bộ tâm thức được đổ đầy và thấm nhuần Phật chất, không có chỗ trống cho các tạp niệm hay vọng tưởng xen vào làm cho tâm trở nên quay cuồng hay ô nhiễm.

Như vậy, niệm Phậtcông năng làm lắng sạch tâm cấu uế nhờ chuyên tâm nghĩ nhớ về Phật hay nhờ an trú trên các đức tính thánh thiện của Phật. Nói khác đi, do tâm không rời Phật mà các vọng tưởng hay tạp niệm không có cơ hội xâm nhập làm cho tâm ô uế. Đây là phương pháp giữ cho tâm định tĩnh, trong sáng, thanh tịnh, không để cho các tạp niệm hay vọng tưởng sinh khởi, xâm nhập làm ô uế tâm thức. Theo cách như vậy, hành giả tu học Phật pháp cũng có thể chọn một đối tượng hiền thiện khác để quán niệm chẳng hạn, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí, niệm chư Thiên…Nhờ chuyên tâm, chú tâm trên các đối tượng hiền thiện như vậy mà tâm được an trú, định tĩnh, trong sáng, không còn bị ô nhiễm bởi các tạp niệm hay niệm bất thiện. Nói cách khác, nhờ chuyên tâm nghĩ nhớ hay suy nghĩ về điều lành thiện mà các niệm ác hay các ý tưởng điên đảo được đẩy lùi; hành giả cảm thấy lòng mình được tịnh tín, hân hoan, không còn lo âu phiền não. Kinh văn truyền thống gọi pháp môn tu tập như vậy là “sự gột sạch tâm uế nhiễm bằng phương pháp thích nghi” (2), nghĩa là nỗ lực dùng niệm thiện đánh bật niệm bất thiện hay các ý tưởng điên đảo ra khỏi tâm thức, khiến cho tâm không còn phiền não nhiễm ô, tựa như người thợ mộc dùng cái nêm nhỏ đánh bật ra, đánh văng ra một cái nêm khác vậy. Trong bài thuyết giảng cho vị tín nữ Visàkhà, Đức Phật nêu rõ một số phương pháp giúp gột sạch tâm uế nhiễm và xác nhận kết quả lợi lạc của pháp môn niệm Phật hay phương pháp vận dụng niệm thiện để đối trịloại bỏ niệm bất thiện:

“Này Visàkhà, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi?

Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Phật: “Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn ”. Do vị ấy niệm Phật, tâm được tịnh tín, hân hoan khởi lên, các phiền não của tâm được đoạn tận”. Như vậy, này Visàkhà, là tân uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi.

Và này Visàkhà, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi?

Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Pháp: “Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu”. Do vị ấy niệm Pháp, tâm được tịnh tín, hân hoan khởi lên, các phiền não của tâm được đoạn tận.

Và này Visàkhà, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi?

Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Tăng: “Diệu hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; trực hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; ứng lý hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; chơn chánh hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn, tức là bốn đôi tám chúng. Chúng đệ tử Thế Tôn là đáng cung kính, đáng tôn trọng, đáng cúng dường, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời”. Do vị ấy niệm Tăng, tâm được tịnh tín, hân hoan khởi lên, các phiền não của tâm được đoạn tận.

Và này Visàkhà, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi?

Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Giới: “Giới không bị phá hoại, không bị đâm cắt, không bị nhiễm ô, không bị uế nhiễm, đem lại giải thoát, được người trí tán thánh, không bị chấp thủ, đưa đến thiền định”. vị ấy niệm Giới, tâm được tịnh tín, hân hoan khởi lên, các phiền não của tâm được đoạn tận.

Và này Visàkhà, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi?

Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Thiên: “Có chư Thiên bốn Thiên Vương; có chư Thiên cõi Trời Ba mươi ba; có chư Thiên Yàmà; có chư Thiên Tusita (Đâu suất); có chư Thiên Hóa lạc; có chư Thiên Tha hóa tự tại; có chư Thiên Phạm chúng; có chư Thiên cao hơn nữa. Đầy đủ với lòng tin như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Lòng tin như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Đầy đủ với giới như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Giới như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Đầy đủ với nghe pháp như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Nghe pháp như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Đầy đủ với thí như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Thí như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Đầy đủ với tuệ như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Tuệ như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Khi vị ấy niệm tín, giới, nghe pháp, thí và tuệ của tự mình và của chư Thiên ấy, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận” (3).

Nhìn chung, niệm Phật, niệm Pháp, hay niệm Tăng…là pháp môn tu tâm tương đối dễ hành trì đối với mọi người. Nó đơn giản là dùng một đối tượng hiền thiện để quán niệm, để nhiếp tâm, an trú tâm, khiến cho tâm trở nên chuyên chú, định tĩnh, trong sáng, không tán loạn, không còn bị quay cuồng hay uế nhiễm bởi dục vọng, bởi các niệm bất thiện hay bởi tạp niệm. Kinh Pháp Cú nói rằng:

Tâm hoảng hốt, dao động,
Theo các dục quay cuồng;
Lành thay điều phục tâm,
Tâm điều, an lạc đến (4).

Quán niệm là một cách điều tâm, khiến cho tâm được tịnh tín, an trú, định tĩnh, trong sáng, không còn hoảng hốt, dao động, mê loạn, quay cuồng theo các dục. Do đó, quán niệm được an lạc là vậy.

Chú Thích

1. Kinh Các Lễ Uposatha, Tăng Chi Bộ
2. Kinh An Trú Tầm, Trung Bộ
3. Kinh Các Lễ Uposatha, Tăng Chi Bộ
4.Pháp Cú, kệ số 35

(Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7310)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4492)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4539)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7273)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2941)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12173)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3974)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3784)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4171)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3659)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5013)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6632)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 3975)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4089)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5307)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3772)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4506)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3531)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3912)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4377)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5376)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3827)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3916)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3850)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4795)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4494)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4229)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3809)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4610)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4169)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6071)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4581)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4927)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4139)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4791)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5637)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3598)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4011)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4571)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5256)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3123)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4729)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4514)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4262)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4717)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4475)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4581)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7192)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5176)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 4979)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4566)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5586)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5243)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4139)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 5985)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4699)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4852)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5458)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5597)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5790)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant