Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Ứng Dụng Lý Nhân Duyên

11 Tháng Bảy 201421:40(Xem: 7884)
Ứng Dụng Lý Nhân Duyên

ỨNG DỤNG LÝ NHÂN DUYÊN
ĐỂ THẤU TRIỆT LỜI PHẬT DẠY

Thích Đạt Ma Phổ Giác

hoa_vangĐức Phật nói lý nhân duyên là nói đến sự thật của đời sống con người và muôn loài vật trên thế gian này. Nhờ suy xét, quán chiếutìm tòi, chúng ta hiểu được lẽ thật đó nên sẽ bớt dính mắc, chấp trước vào thân tâm này là ta và của ta.

Bản chất của nước là tánh ướt, có thể thay hình đổi dạng, chuyển biến tùy theo thời gian, hoàn cảnh. Nếu chúng ta để nước với nhiệt độ trung bình, không quá nóng cũng không quá lạnh thì trước sau nó vẫn là nước. Nhưng nếu chúng ta để nó vào tủ lạnh thì nước sẽ thành khối nước đá đông đặc. Nếu chúng ta muốn nước bốc thành hơi thì phải dùng lửa đốt để tạo duyên nóng cho nó bốc hơi. Như vậy, nước ấy không cố định là nước mãi mãi, khi ở thể lỏng thì gọi là nước, khi ở thể hơi thì gọi là mây, khi ở thể đặc thì gọi là đông lạnh, nhưng bản chất của nước vẫn là tánh ướt.

Định nghĩa: Nhân là nguyên nhânnăng lực phát sinh. Duyên là phần phụ để hỗ trợ cho nhân phát sinh ra tất cả mọi hiện tượng, sự vật trên thế gian này. Nhân duyên được hình thành theo nguyên lý “cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái cái diệt”, khi đủ duyên thì mọi vật hình thành, khi hết duyên thì sự vật ấy sẽ không còn. Chúng ta hãy thử suy ngẫm về cái nhà! Cái nhà không tự là cái nhà mà phải có nhiều vật dụng như gỗ, đinh, sắt, gạch, cát, xi măng, người thợ mộc, thợ hồ và nhiều phương tiện khác hợp lại mới tạm gọi là cái nhà.

Con người cũng vậy, thân này do bốn chất đất-nước-gió-lửa hợp lại mới hình thành. Vì ta không thấy, không biết đúng đắn nên nhận định sai lầm rồi chấp trước vào đó mà sinh ra đủ thứ phiền não nên chấp nhận sống trong biển khổ sông mê. Chính vì vậy, tất cả mọi hiện tượng, sự vật trên thế gian này đều do nhân duyên hòa hợp lại mà thành, không có cái gì do một nhân mà có thể hình thành. Ai “ngộ” được lý nhân duyên thì sự tu hành sẽ không còn khó khăn gì nữa.

Cũng như hạt gạo với hạt thóc là nhân, nhưng phải có người gieo trồng, có đất, có nước, có phân bón, không khí, ánh sáng mặt trời, nhờ những duyên đó kết hợp lại làm cho hạt thóc nẩy mầm, ra lá, lớn lên, rồi trổ những bông lúa nặng trĩu chờ ngày thu hoạch. Cái chén ta dùng để ăn cơm với đất là nhân, người thợ, khuôn, nước, lửa nung là phần phụ phối hợp với nhau làm thành cái chén.

Nhờ áp dụng lời Phật dạy ta có thể chuyển nỗi khổ niềm đau thành an vui hạnh phúc, chuyển ba nghiệp xấu ác thành hiền thiện, đạo đức. Trong kinh Phật nói: “Thấy được lý nhân duyên là thấy Chánh pháp hay thấy đạo”. Thấy được như vậy là người có trí tuệ, là người có chánh kiến nên làm việc gì cũng vì lợi ích chúng sanh là trên hết.

Sự thật, muôn loài muôn vật trên thế gian này đều do nhân duyên hòa hợp mà thành, không có một vật nào chỉ do một nhân mà hình thành. Tất cả đều phải trải qua tiến trình diễn biến của nhân quả. Cho nên, “cái này có, cái kia có, cái này không, cái kia không”. Không có cái gì chỉ do một nhân mà thành được, nếu có ai nói một nhân mà thành thì người ấy chưa hiểu thấu lý nhân-duyên-quả.

Nhờ biết rõ thân này do nhân duyên hòa hợp mà thành, từ thân người, thân thú, hay mọi cảnh vật cũng đều như vậy. Cho nên, trong kinh Kim Cương nói: “Phàm cái gì có tướng đều hư vọng, giả có, có mà không thật thể nên gọi là giả có”.

Nhờ hiểu được lý nhân duyên con người dễ dàng thông cảm, khoan dung, tha thứ, do đó mà bớt chấp ngã, thấy ai cũng là người thân, người thương của mình nên không sanh tâm ganh tỵ, tật đố. Điều đó sẽ giúp cho cuộc sống của ta được bình yên, hạnh phúc từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội.

Nhờ hiểu được và thông suốt lý nhân duyên ta sẽ nỗ lực vươn lên làm mới cuộc đời và tự tin chính mình có đầy đủ khả năng vượt qua mọi bất hạnh, khổ đau. Nó giống như một lu nước, muốn nước bốc hơi ta phải đun lên, tạo độ nóng thì nước sẽ bốc hơi. Không có cái gì là do ngẫu nhiên hay tự nhiên mà hình thành được. Nếu muốn nước đông lại thành đá thì ta tạo duyên lạnh, muốn nước trở lại trạng thái bình thường thì ta tạo duyên ấm. Nước không cố định một thể mà nó được thay đổi tuỳ theo sự tác động của “duyên”.

Nhờ hiểu và ứng dụng lý nhân duyên vào trong đời sống hằng ngày, mỗi người chúng ta sẽ thấy rõ ràng mối tương quan chằng chịt nhân quả. Sự sống này muốn tồn tại và phát triển rất cần sự nương nhờ lẫn nhau. Hiểu được như vậy ta mới có bổn phận và trách nhiệm đùm bọc, thương yêu, giúp đỡ và chia sẻ với nhau bằng tất cả tấm lòng. Nếu ai đó chỉ dùng quyền lực để áp đặt thì sẽ tạo ra mâu thuẫn đối kháng, gây ra ân oán hận thù, rốt cuộc làm đau khổ cho nhau.

Nhờ hiểu và ứng dụng lý nhân duyên vào trong đời sống hằng ngày ta sẽ thấy rõ ràng sự sống trên đời này là vô thường, luôn chuyển biến, đổi thay không ngừng nghỉ. Vì vô thường nên vô ngã, tuy vô ngã nhưng có tinh thần chuyển biến liên tục.

Sự suy nghĩ của con người cũng vậy, tuy không có chủ thể cố định nhưng có tâm thức liên tục trôi chảy không dừng. Vì vậy, khi ta nghĩ tốt, lúc ta nghĩ xấu, trong một ngày có không biết bao nhiêu suy nghĩ, suy nghĩ liên tục không dừng, không mất. Do đó, lý vô ngã của nhà Phật chỉ cho ta thấy sự chuyển biến liên tục chứ không phải vô ngã là không biết gì. Và cũng nhờ sự chuyển biến liên tục này mà ta mới tu tập được, nếu cái ngã là một chủ thể thường hằng bất biến, không thay đổi được thì dù ta có tu tập làm mới cuộc đời, làm mới lại chính mình cũng không lợi ích gì.

Lý nhân duyên cũng cho chúng ta biết khi có nhân mà không đủ duyên thì sự việc ta đang muốn cũng không thể hình thành được. Ví dụ như chúng ta có đủ gạo, nước, củi, nồi, nếu muốn ăn cơm thì phải có lửa và người nấu cơm. Lý nhân duyên cho chúng ta biết cuộc sống của ta có tốt, có xấu, có giàu, có nghèo đều là do nhiều nhân duyên kết hợp hài hoà.

Lý nhân duyên giải thích cho chúng ta biết giả dụ hai người cùng tu chung một pháp môn mà người này đạt được kết quả tốt đẹp còn người kia thì thêm nhiều phiền não thì tất cả đều do nhân duyên, duyên đầy đủ thì mau sớm hình thành và ngược lại.

Khi hiểu được lý nhân duyên rồi chúng ta có thể thay đổi hoàn cảnh theo ý muốn của mình. Muốn có căn nhà để ở thì phải có nhiều duyên hợp lại như gạch, ngói, cát, đá, xi măng, cây, sắt thép và con người. Không có gì do một nhân mà có thể hình thành.

Do đó, Phật dạy ai tin và hiểu thấu lý nhân duyên thì có thể chuyển nghiệp xấu thành tốt, chuyển hoạ thành phúc, chuyển nghèo khổ thành giàu có… Chính nhờ lý nhân duyên này mà chúng ta có thể làm mới lại chính mình từ một con người tầm thường trở thành người sống có ích cho xã hội.

Muốn sống tốt để phục vụ mọi người chúng ta cần phải gần bạn hiền, thầy giỏi, gần những vị tu hành chân chínhlời nói chân thật, có sức thuyết phục lòng người đúng theo tinh thần nhân quả. Nếu chúng ta muốn trở thành người xấu thì cứ trộm cắp, giết hại, lường gạt của người khác rồi vui chơi trác tánggiao du với kẻ ác. Do đó, nếu chúng ta biết tạo duyên tốt thì ngày càng được tiến bộ hơn, ngược lại tạo duyên xấu thì bị sa đoạ và chịu khổ đau.

Nhờ đức Phật đã trải nghiệm qua thời tu hành trong kiếp hiện tại và nhiều đời hành đạo Bồ tát đã chỉ cho chúng ta thấy rõ ràng lý nhân duyên là một lẽ thật mà ngày hôm nay các nhà khoa học đều công nhận. Lẽ thật đó công bằng, thực tế, không có một đấng nào ban phước giáng hoạ vì bản ngã cá nhân. Nếu chúng ta hiểu được lý nhân duyên thì từ thiên nhiên cho đến muôn loài vật đều theo ngyên lý trùng trùng duyên khởi tương quan mật thiết với nhau.

Chính con người do thấy biết sai lầm nên tưởng mình là thật ta, thấy mình là trung tâm của vũ trụ nên càng chấp ngã nặng nề gây khổ đau cho nhiều người khác. Hiểu được lý nhân duyên chúng ta mới cố gắng vươn lên làm lại cuộc đời, chúng ta sẽ tự cải thiện đời sống của mình bằng cách tinh cần siêng năng, nhờ vậy từ nghèo khổ có thể trở thành giàu có.

Nếu chúng ta cứ nghĩ có một ông trời ban phước giáng hoạ thì ta sẽ ỷ lạitrở thành kẻ yếu đuối, nhu nhược, chỉ biết dựa dẫm vào người khác mà không biết phấn đấu vươn lên. Nhất là những đứa con ỷ lại vào cha mẹ dễ trở thành kẻ hư hỏng. Ngoài ra, khi hiểu được lý nhân duyên chúng ta sẽ bớt chấp ngãdễ cảm thông, tha thứ với mọi người. Nhờ quán sát lý nhân duyên nên con người bớt si mê, chấp ngã mà dần hồi thành tựu đạo vô ngã, vị tha.

Hiện nay, các nhà khoa học chế biến được những máy móc tinh vi hay đồ dùng đẹp đẽ, đều ứng dụng lý nhân duyên. Đó là lẽ thật, vì như tất cả chúng ta đều biết khi phân tích con người ai cũng hiểu thân này do bốn thứ đất-nước-gió-lửa hợp thành. Nếu nhìn theo y học bây giờ thì con người có thể phân tích ra thành rất nhiều chất. Thiếu những chất ấy thân này sẽ sanh bệnh. Vì thế, khi biết thân mình thiếu chất gì người ta bồi bổ thêm chất ấy. Phân tích cho tới tận cùng thì con người có trăm ngàn muôn ức tế bào. Những tế bào đó có những chức năng riêng, mỗi thứ đều có công việc riêng của nó.

Lý nhân duyên là một chân lý sống của cuộc đời, không ai có thể phủ nhận được. Chính vì vậy, người nào sống đúng như lý nhân duyên là người biết sống hoà hợp, biết thương yêu đoàn kết, giúp đỡ mọi người bằng trái tim hiểu biết.

Thấy được lý nhân duyênchúng ta nhìn đúng với các nhà khoa học thời hiện đại. Khoa học phân tích tất cả mọi hiện tượng, sự vật không có cái gì tự có và cũng không có cái gì là do một nhân mà hình thành. Tất cả đều do nhiều yếu tố hợp lại. Khoa học thấy tột được lý nhân duyên nên mới phát minh được những máy móc, thiết bị công nghệ hiện đại để phục vụ đời sống con người mà những người thời xưa không bao giờ tin được.

Rõ ràng, những nhà khoa học biết ứng dụng lý nhân duyên nên mới có thể chế tạo ra phi cơ bay trên không, tàu thủy đi dưới biển, hoặc xe hơi chạy nhanh ngoài đường phố… Nhưng đáng tiếc, con người chỉ ứng dụng lý nhân duyên trong cuộc sống vật chất mà ít ai ứng dụng lý nhân duyên trong đời sống tinh thần để biết cách làm chủ bản thân mà không làm đau khổ cho người và vật.

Như tâm thức của chúng ta là một dòng chuyển biến liên tục, tuy không có chủ thể cố định nhưng nó vẫn thay đổi liên tục, khi thì nghĩ thiện, khi thì nghĩ ác. Bởi tâm thức suy nghĩ liên tục nên nó không bao giờ mất hẳn, hễ tạo nghiệp thì sự liên tục đó dẫn tới thọ quả báo khi đủ nhân duyên.

Hiểu được lý nhân duyên ta biết thân này từ duyên sanh nên chúng ta không si mê, chấp ngã, làm khổ đau người khác. Một số người hiểu lầm cho rằng sau khi chết linh hồn hoặc sanh lên cõi trời, hoặc xuống địa ngục, trước sau như một không hề thay đổi. Ai làm người khi chết sẽ tái sinh làm người, làm thú vật thì lại tái sinh làm thú vật. Đạo Phật không thừa nhận có một linh hồn cố định, nếu như vậy chúng ta tu hành làm chi vô ích, bởi có tu cũng vẫn sẽ như vậy.

Nhà Phật gọi là tâm thức vì nó biến chuyển thay đổi theo thời gian tuỳ theo duyên tốt-xấu, còn linh hồn thì trước sau như một. Tâm thức thì luôn chuyển biến, thay đổi do con người biết suy tư, nghĩ tưởng. Khi còn nhỏ tâm thức chúng ta được huân tậpgiới hạn nên hiểu theo kiểu trẻ con, khi lớn lên được học hỏi, nghiệm xét nên tâm thức hiểu biết theo sự phát triển của cuộc sống. Người hay siêng năng, chăm chỉ học hành thì sẽ giỏi hơn những người khác do tâm thức lúc nào cũng sáng suốtthông tuệ hơn những người không chịu khó siêng năng, cần mẫn.

Tâm thức của chúng ta luôn luôn chuyển biến theo sự suy nghĩ, nhận thức ngày càng được tinh thông hơn. Còn linh hồn thì ở một chỗ vì nó nguyên vẹn nên có cố học cũng không giỏi, không học cũng sáng suốt. Do đó, nếu ai chấp vào có một linh hồn cố định thì chúng ta sẽ nghèo dốt mãi mãi, không thể giàu cótu học để chuyển hoá nỗi khổ niềm đau thành an vui hạnh phúc.

Hiểu được và thấu tột lý nhân duyênchúng ta phá được mê lầm, chấp ngã từ vô thuỷ kiếp đến nayngu si chấp ngã là nhân dẫn đến làm khổ người và vật. Phá được chấp ngã thì mọi sự bất công và khổ đau sẽ hết. Tóm lại, hiểu và ứng dụng lý nhân duyên của nhà Phật ta sẽ bớt tham lam, ích kỷ, nhỏ nhoi, ti tiện, oán giận, hờn dỗi, bớt si mê chấp ngã. Mọi người sẽ thấy đúng lẽ thật qua lý nhân duyên, do đó chúng ta sẽ sống yêu thương nhau hơn.

Khi hiểu được lý nhân duyên ta sẽ có bổn phận, trách nhiệm đóng góp, sẻ chia và nâng đỡ tha nhân, góp phần làm giảm bớt khổ đau cho nhân loại, yêu thương đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau để mình và người được sống an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 72)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 146)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 168)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 224)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 151)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 203)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 190)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 222)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 237)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 319)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 559)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 422)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 435)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 530)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 719)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 767)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 801)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 806)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 696)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 687)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 689)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 794)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 816)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 914)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 685)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 587)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 686)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 804)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 685)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 693)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 789)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 812)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 794)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 838)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 864)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 855)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1043)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 916)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1578)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1023)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1172)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 922)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1175)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1092)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1098)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1237)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1508)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1941)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1054)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1318)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1066)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 921)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1044)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1080)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1497)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1250)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1261)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 993)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1154)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant