Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Giáo Trong Xã Hội Hiện Đại

12 Tháng Bảy 201421:26(Xem: 8737)
Phật Giáo Trong Xã Hội Hiện Đại

Phật Giáo trong xã hội hiện đại

Ni sư Thubten Chodron
Lược dịch: Huệ Pháp

blank



Ứng dụng giáo lý Phật giáo trong xã hội hiện đại như thế nào?

Đây là khía cạnh quan trọng trong xã hội hiện nay. Thực hành giáo lý không phải chỉ là đến chùa đọc kinh hay niệm Phật mà chính là áp dụng giáo lý của đức Phật trong đời sống hàng ngày, trong mối liên hệ với gia đình, với bạn bè đồng nghiệp, với những người xung quanh trong cùng đất nước, và với những người khác ở những nước khác. Chúng ta cần đem giáo lý về tình thương của đức Phật đến với những người đồng nghiệp, những người trong gia đình, thậm chí những người ở cửa hàng tạp hóa hay trong phòng tập thể lực. Việc đem tâm từ đến với mọi người đó không phải là cách rải truyền đơn như những người cầm tờ rơi phát quảng cáo ở các ngã tư đường mà phải xuất phát từ chính bản thân chúng ta, chính chúng ta phải sống trong tinh thần từ bi đó, rồi mới áp dụng nó trong xã hội. Một khi, tâm từ xuất phát từ chính con tim của mình thì tự động sẽ ảnh hưởng một cách tích cực đến mọi người xung quanh. Ví dụ, chúng ta dạy con cái về lòng thương yêu, tha thứkiên nhẫn nhưng không chỉ là lời nói mà còn phải xuất phát từ hành động của chính mình, những đức tính chúng ta dạy cho con trẻ phải xuất phát từ chính lối cư xử của mình.

1. Dạy cho con tính thương người.

Nếu không cẩn thận, chúng ta sẽ dạy con trẻ nuôi dưỡng lòng hận thù, chúng sẽ không bao giờ tha thứ khi người khác xâm hại đến bản thân. Đôi khi bạn dạy cho con mình ghét một ai đó trong gia đình chỉ vì mình ghét người đó. Điều đó khiến cho con mình bị một chiếc hố ngăn cách với các thành viên còn lại trong gia đình. Đôi khi cũng có người dạy con cái của họ rằng, cách tốt nhất để giải quyết vấn đề tranh cãi với ai đó là không bao giờ nói chuyện với họ. Điều đó, theo bạn có giúp cho họ có được hạnh phúc và lòng thương người không? Hãy nghĩ một cách thấu đáo về điều này để đảm bảo rằng bạn chỉ dạy cho con mình những gì có giá trị, những gì là tốt nhất.

Một minh hoạ rõ ràng nhất chính là tự soi rọi ngay chính trong tâm mình. Một khi tâm oán hận, lòng căm thù, hay mối ác cảm khiến bạn đau khổ, lẽ nào bạn lại truyền những mối độc hại đó, những cảm thọ đau khổ đó cho đứa con yêu dấu của mình. Đừng bao giờ dạy cho con mình những cảm thọ khó chịu đó.

2. Mang tâm từ đến trường học

Chúng ta mang tâm thương yêu không chỉ trong gia đình mà còn trong môi trường giáo dục (trường học). Một điều rất quan trọng là trẻ con đến trường không chỉ thu thập về thông tin mà còn học cách làm người và cách giải quyết những vấn đề nan giải trong cuộc sống của chúng. Các bậc phụ huynh và thầy cô bỏ ra nhiều thời gian và tiền bạc để dạy cho con trẻ nào là các môn khoa học, văn học, địa lý, lịch sử, vi tính v.v... nhưng họ có bỏ chút thời gian nào để dạy cho con trẻ lòng thương người? Chúng tamôn học nào dạy về cách trao truyền lòng thương yêu chưa? Chúng ta có dạy cho trẻ cách đối diện với những cảm thọ tiêu cực và cách để giải quyết mối bất hòa một khi xảy ra giữa bọn trẻ với nhau? Tôi nghĩ điều này quan trọng hơn là những môn học tại trường. Tại sao? Trẻ em có thể biết rất nhiều nhưng khi chúng trưởng thành với tâm ác cảm, thù hận hay hám danh thì cuộc sống của chúng liệu có được hạnh phúc?

Các bậc phụ huynh đều luôn muốn cho con mình có được một tương lai xán lạn, nên nghĩ rằng con mình cần phải có nhiều tiền. Họ đầu tư cho con mình học những môn học để sau này có được một công việc tốt, làm ra nhiều tiền - như thể tiền là nguyên nhân đem lại hạnh phúc vậy. Khi một người sắp hấp hối, gần kề cái chết, ta không bao giờ nghe họ nói về kế hoạch kiếm tiền hay nói về số tiền mà họ đã kiếm được trong quá khứ, mà chỉ nghe họ hối tiếc về những gì họ đã làm sai trong cuộc đời của họ. Họ sẽ mong mọi người tha thứ cho những sai lầm mà họ đã làm. Nếu bạn muốn con của mình có được một tương lai tươi sáng thì không chỉ dạy cách kiếm tiền mà còn cách sống, cách đạt được hạnh phúc.

3. Dạy cho con biết cách chia sẻ.

Có những bậc phụ huynh cư xử theo lối này: khi con trẻ đi học về, chúng đòi cha mẹ mình mua những thứ mà bạn đồng lớp có, kiểu như: “Bố, mẹ, con muốn cái quần Jean này, con muốn đôi bông tai mới, con muốn cái mà thằng bạn con có…”. Rồi những bậc cha mẹ đó nói con trẻ như sau: “Những thứ đó không đem lại niềm vui thích nào đâu con, không đem lại hạnh phúc, con không cần thiết để có nó đâu”. Nhưng sau đó họ lại ra ngoài mua những thứ mà những người khác có cho mình, thậm chí những thứ trong nhà đã có và ít sử dụng. Trong trường hợp này, những gì họ nói và làm trái ngược nhau. Bạn nói con trẻ tập chia sẻ cho người khác nhưng bạn lại không bao giờ làm từ thiện, hay chia sẻ những thứ không dùng cho người nghèo hay những người cần. Có một số người, trong nhà họ có rất nhiều thứ mà họ rất ít khi hay hầu như không dùng tới nhưng không bao giờ cho người khác. Tại sao? Họ sợ rằng nếu cho đi, họ sẽ lại cần đến nó trong tương lai. Chúng ta không thực hành hạnh bố thí, chia sẻ nhưng lại dạy cho con cái của mình tập tánh chia sẻ. Cách đơn giản nhất cho việc dạy con trẻ lòng rộng lượng là bảo chúng cho đi những thứ không dùng hồi năm ngoái. Có rất nhiều người nghèo và họ rất cần những thứ đó để dùng, vì thế, điều này sẽ giúp cho chính chúng ta, cho con cái chúng ta thực tập hạnh chia sẻ này.

Một cách khác để dạy cho con cái mình lòng tốt là không mua những thứ mà chúng muốn. Thay vào đó, khuyên con mình nên dành dụm số tiền đó để làm từ thiện, cho người nghèo. Bạn có thể dạy cho con mình từ những ví dụ mà bản thân mình đã trải nghiệm, điều đó sẽ khiến con mình dễ hình dungdễ hiểu hơn.

4. Dạy cho con về cách đối xử với thiên nhiênsử dụng đồ tái chế.

Tiếp theo là dạy cho con mình về môi trường và các sản phẩm tái chế. Bảo vệ môi trường mà chúng ta cùng sống với mọi ngườivạn vật là cách thực tập lòng từ bi. Nếu ta phá hủy môi trường thì chúng ta gây hại đến cho người khác. Ví dụ, nếu chúng ta sử dụng nhiều đồ dùng sử dụng một lần rồi bỏ, không sử dụng lại thì chúng ta đã tặng những thứ đó cho thế hệ con cháu sau này. Con cháu chúng ta sẽ thừa kế đống rác khổng lồ đó. Tôi rất mừng khi thấy nhiều người sử dụng đồ tái chế và sử dụng lại những thứ không đáng vứt bỏ đi. Đó là một phần thực tập trong giáo lý Phật giáo. Chùa hay các trung tâm Phật giáo phải đi đầu trong việc bảo vệ môi trường và sử dụng đồ tái chế.

Đức Phật không trực tiếp chỉ dạy nhiều vấn đề phức tạp xảy ra trong cuộc sống hiện đại này như việc sử dụng đồ tái chế, bởi thời của Ngài, không có việc này. Nhưng Ngài đã dạy những phương phápchúng ta có thể áp dụng trong những tình huống xảy ra trong thời hiện đại. Những phương pháp này giúp chúng ta giải quyết được những vấn đề trong thời đại mới mà nó không tồn tại cách đây 2500 năm.

5. Những cái nghiện mới trong xã hội hiện đại.

Đức Phật đã trực tiếp dạy chúng ta về tác hại của các chất gây say và khuyên chúng ta không sử dụng các chất gây hại này. Thời đức Phật, chất gây say chính là rượu. Suy rộng ra, lời dạy của đức Phật còn khuyên không dùng các chất ma túy hay lạm dụng các chất an thần. Rộng hơn nữa, chú ý những thứ khiến chúng ta nghiện hay đam mê có trong cuộc sống hiện nay là truyền hình. Trong xã hội hiện đại này, con người rất dễ nghiện phương thức giải trí này. Ví dụ, sau khi đi làm về, chúng ta mệt và muốn thư giản. Làm gì để thư giản? Chúng ta ngồi xuống và bật truyền hình lên, ngồi trước máy vô tuyến hàng giờ đồng hồ và thiếp đi. Tiền nhân của chúng ta, những người đã đạt được giải thoát cứu cánh, không bỏ phí thời gian để xem vô tuyến hay các thú giải trí khác. Đôi khi, có những chương trình truyền hình nào đó đem lại sự tệ hại hơn là nghiện rượu và ma tuý, đó là những chương trình có những cảnh bạo lực, chết chóc. Chúng ta cần tránh cho con trẻ xem những chương trình độc hại như thế này. Cha mẹ phải lựa chọn những kênh truyền hình nào phù hợp với lứa tuổi của con mình.

Mua sắm cũng là một cái nghiện khác không kém phần quan trọng trong xã hội hiện nay. Có lẽ bạn sẽ ngạc nhiên khi nghe về điều này nhưng hoàn toàn đúng, các nhà tâm lý học đã nghiên cứu về cái nghiện shopping này. Một vài người nào đó, tâm trạng buồn chán, họ thích uống rượu hay dùng ma túy để giải sầu. Còn những người khác thì lại chọn cách khác, tới các trung tâm mua sắm, siêu thị để giải khuây. Họ mua những thứ mà có khi họ không cần tới, chỉ để vơi đi nỗi buồn. Họ đang cố quên đi nỗi đau trong tâm họ bằng cách mua sắm. Thậm chí, có người chỉ đến siêu thị, lang thang hàng giờ đồng hồ chỉ đề nhìn ngắm, rồi khi trở về nhà, tâm trạng cũng chẳng thể nào khá hơn.

Một cái nghiện khác là ăn quá nhiều hay ăn quá ít. Trong trường hợp này, để giải quyết nỗi buồn, người đó đã dùng biện pháp ăn uống. Tôi thường xuyên nói đùa rằng, “tam bảo” của người Mỹ là: xem ti vi, đi shopping và tủ lạnh (chứa thức ăn). Đó là ba thứ mà người Mỹ quy y (quay về và nương tựa)! Những thứ đó, chắc chắn không đem lại hạnh phúc nào cả mà còn khiến chúng ta thêm rắc rối. Nếu chúng ta có thể xoay chuyển “tam bảo” của người Mỹ thành Tam Bảo của Phật pháp (Phật - Pháp - Tăng) thì chúng ta sẽ có nhiều hạnh phúc hơn. Trong đời sống hằng ngày, việc thực tập những lời dạy của đức Phật có thể giúp chúng ta giải quyết được những tâm tư bất ổn của mình. Ví dụ, khi chúng ta mệt hay bị stress, chúng ta có thể thư giản bằng cách niệm danh hiệu của đức Phật hay lạy Phật. Trong khi niệm danh hiệu hay lạy Phật, chúng ta tưởng tượng đức Phật từ bi đang hiện diện trước mặt, hào quang của Ngài đang chiếu khắp thân thể của mình, xóa tan đi bao nhiêu nỗi phiền muộnmệt mỏi trong tâm. Vài phút sau, chúng ta sẽ cảm thấy thân thể trở lại cân bằng, đầu óc lại tỉnh táo. Cách thư giản này chắc chắn là rẻ và dễ dàng hơn là ‘quay về và nương tựa’ nơi ti vi, siêu thị và tủ lạnh.

Hãy thử một lần xem!!!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9507)
Chủ đề về tánh không bao hàm tất cả giáo huấn Phật Giáo bởi vì chính Đức Phật hít thở bằng tánh không (hiện hữu, trường tồn và sống trong tánh không)
(Xem: 9551)
Từ Bi, có nghĩa là tình thương yêu rộng lớn đối với muôn loài hữu tình chúng sanh (loài ngườisúc vật). Tình thương rộng lớn này được...
(Xem: 8066)
Pháp thân Phậttánh Không không hình không tướng ở khắp như hư không. Báo thânquang minhHóa thân là thân vật chất;
(Xem: 10172)
Thường nghe rằng, cửa ngõ vào Chánh đạo, sự phát tâm quan trọng nhất; việc gấp trên đường tu, không gì hơn lập nguyện.
(Xem: 8607)
Không có hiện tượng nào đang tồn tại mà không phải là kết quả của nhân duyên
(Xem: 9072)
Đức Phật có nói: "Như Lai đã đạt đến sự hiểu biết rõ ràng về điều nầy, nghiệp lực, xuyên qua trí huệ cao cả của chính Như Lai."
(Xem: 8939)
Sau khi Đức Phật giác ngộ, bài giảng đầu tiên của ngài tập trung vào Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế), đó chính là nền tảng của Đạo Phật.
(Xem: 8103)
Bốn dấu ấn của hiện hữu, Phạn ngữ gọi là caturlaksana, Pà li ngữ là caturlakkhana, hoặc còn gọi là Dharma mudra.
(Xem: 8848)
Chúng ta cần phải quy y Tam bảo để cứu mình ra khỏi đường hiểm khổ đau, đến chỗ an vui giải thoát.
(Xem: 25609)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 8965)
Để phân biệt với người không Phật tử, có sự quy y hay phương hướng an toàn, và để phân biệt với con đường Tiểu thừa, có sự quy y của Đại Thừa.
(Xem: 14297)
"Lý thuyết Nhân tính qua kinh tạng Pàli" là đề tài luận án Tiến sĩ do Thượng tọa Thích Chơn Thiện thực hiện và đệ trình tại Đại học Delhi
(Xem: 8105)
Thưa đại đức! Khi thọ khổ phát sanh, bậc A-la-hán chỉ thọ có một khổ thọ ấy, còn phàm phu thì thọ luôn cả hai thọ khổ, có phải vậy chăng?
(Xem: 8508)
Con số 84.000 trong do ngài An Nan thuật lại trong Trưởng Lão Kệ của Tiểu Bộ chính là 84.000 Pháp tức “dhamma” trong tiếng Pāḷi.
(Xem: 11780)
Đạo Phật không mang đến cho ta tiền tài hay danh vọng mà chỉ cho ta tình yêu thương bất diệthạnh phúc đích thực miên viễn trong dòng khổ đau của nhân sinh
(Xem: 8969)
Theo truyền thống sinh hoạt tu học của chư Tăng Ni từ thời Đức Phật còn tại thế, cứ đến ngày kết thúc một mùa an cư thì Đức Thế Tôn cùng chư Tăng Ni đều...
(Xem: 10282)
Mối quan hệ sâu đậm với một vị thầy tâm linh có thể là sự nối kết thăng hoa và quan trọng nhất trong một đời người.
(Xem: 8276)
Thức( vijnana) là dòng trôi tương tục dao động sáng tạo với những biểu đồ phức tạp được chi phối bởi những hệ quy chiếu mang màu sắc chủ quan
(Xem: 8893)
Không ai có khả năng biết được, sự bắt đầu của thế giới luân hồi (trong các cuộc sống diễn tiến liên tục, ở trong vòng sinh tử).
(Xem: 9897)
Đức Phật Thích Ca đã thường nói về Năm Uẩn, cũng còn được gọi là Năm Tập Hợp, hoặc là Năm Đống Hàng Cao Như Ngọn Núi.
(Xem: 9370)
Dục là nguyên nhân của khổ đau, nguồn gốc của dục có từ vô thỉ, sự trói buộc của nó đối với chúng sanh trong luân hồivô lượng kiếp.
(Xem: 8107)
Từ ngữ Niết Bàn xuất phát từ nguồn có ý nghĩa là "Dập tắt ngọn lửa", để nói đến việc dập tắt đi những ngọn lửa tham lam, sân hận, và si mê (tham sân si).
(Xem: 9405)
Niết bàn được xem là mục đích cứu cánh của đạo Phật, chỉ trạng thái tâm thức đã gột sạch hết mọi vô minh phiền não, sự giải thóat khỏi các kiết sử tùy miên...
(Xem: 8422)
Như tâm, Phật cũng vậy Như Phật, chúng sanh đồng Nên biết Phật cùng tâm Thể tánh đều vô tận
(Xem: 10865)
Hoa Sen biểu trưng cho những giá trị đạo đức, sự thuần khiếtthánh thiện, sự duy trì và phát triển Phật pháp, trí tuệ dẫn đến Niết Bàn.
(Xem: 8991)
Con người sinh ra trong thế giớidần dần, ngoài những sự vật đã có trong thiên nhiên, sáng chế ra những sự vật để dùng trong cuộc sống.
(Xem: 10414)
Phật giáo như ánh sáng mặt trời mà nhìn ánh sáng ấy, chúng ta chỉ có cặp mắt nhỏ hẹp. Tuy nhiên một là tất cả, chúng ta có thể căn cứ một vài điều sau đây mà biết tất cả đặc điểm của Phật giáo.
(Xem: 8210)
Có một số đặc thù là văn hóa, hoặc là đối với văn hóa phương Tây, hay đối với Á châu và những nền văn hóa khác bị ảnh hưởng bởi sự suy nghĩ của phương Tây hiện đại.
(Xem: 10185)
Tất cả các pháp nhân duyên sanh Thể tánh chẳng có cũng chẳng không Ở nơi nhân duyênsanh khởi Trong đó đều trọn không chấp trước
(Xem: 10382)
Nhân sau cùng sinh quả dị thục, Nhân đầu tiên sinh quả tăng thượng, Nhân đồng loại, biến hành sinh quả đẳng lưu, Nhân câu hữu, tương ưng sinh quả sĩ dụng
(Xem: 8922)
Đức Phật thị hiện là một con người như mọi người, điều này khẳng định cho chúng ta biết ngài không phải là thần linh, thị hiện ở núi non kỳ dị.
(Xem: 8171)
Tâm Bồ Đề (skt:Bodhicitta) là tâm giác ngộ, tâm thấy được bản mặt thật của chư pháp, tâm tin nơi nhân quảPhật Tánh nơi chúng sanh cũng như luôn dụng công tu hành hướng về quả vị Phật.
(Xem: 16530)
Muốn hết Nghiệp thì Tu ! Thì, Trì Chú ! Đó là “Thực Phẩm ngon” của Người Tu Hành xưa cũ.
(Xem: 12215)
Phật Học Vấn Đáp - Duy Thức Học Phần thứ 8; Lý Bỉnh Nam giải đáp, Thích Đức Trí chuyển ngữ
(Xem: 12156)
Hãy nương tựa vào chính mình, tự xem mình là ngọn đuốc soi đường cho mình, là nơi an trú cho mình, mà không cần một nơi an trú nào khác cả...
(Xem: 8688)
Nguyên tác: Background for Understanding Bodhichitta, Tác giả:Alexander Berzin/ Riga, Latvia, July 2004; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10102)
Giáo thuyết tối thượng tịnh hóa tâm thức, Là việc vắng mặt sự tồn tại cố hữu.
(Xem: 8467)
Điều cương quyết để thọ tám chi của Luật nghi này, là phải có tối thiểu một vị Tỷ-kheo làm giới sư truyền thọ, chứ không thể tự một mình phát nguyện thọ trì được.
(Xem: 8990)
Trong Đạo Phật thuật ngữ tự ngã có hai ý nghĩa phải được phân biệt nhẳm để tránh nhầm lẫn. Một ý nghĩa của tự ngã là ‘cá thể’ hay ‘chúng sinh’.
(Xem: 10281)
Có nguồn gốc từ Ấn-độ, là tín lý căn bản trong Ấn-độ giáo, Phật giáo cũng như Kỳ-na giáo, và cả đến đạo Sikh; được truyền vào Trung hoa rất sớm, dịch là nghiệp,
(Xem: 8661)
Cận trụ nguyên ngữ Sanskrit là là upavāsatha, Hán phiên âm là ô-ba-bà-sa, Ưu-ba-bà-tố-đà, Ưu-bà-sa, U-ba-bà-sa, Ô-bô-sa-tha v.v…
(Xem: 8091)
Nói đến lòng sùng tín, sùng mộ và tin tưởng, có lẽ không phẩm nào của Kinh Đại Bát-nhã nói cụ thểxúc động hơn phẩm Bồ-tát Thường Đề...
(Xem: 8666)
Nguyên tác: Introduction to Bodhicitta - Tác giả: Alexander Berzin/ Riga, Latvia, June 2003 - Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7985)
Đẳng lưu nhân-quả, là một trong những tư lương quan trọng trên con đường trung đạo, trong lộ trình tu tập thông đạt chánh kiến về duyên khởi hay mười hai chi duyên.
(Xem: 7768)
Ly Hệ Quả Sanskrit gọi là Visamyogaphala. Visam là thoát ly, tách rời, đoạn trừ, ly khai. Yoga là tương ưng, liên hệ. Nên Ly hệ, visamyoga: dứt khỏi sự trói buộc.
(Xem: 9481)
Tôi đã tìm thấy chìa khóa của hạnh phúc, và tôi đã bị thuyết phục rằng, tôi đã vượt qua mọi nhà sư khác về sự cao quý. Nhưng mỗi khi tôi rời thiền đường, những cánh cửa lại thì-thầm, 'Tất cả là không.'
(Xem: 8644)
Từ nơi Thánh Trí tối thượng ba-la-mật, đức Thế Tôn tuyên thuyết Kinh Năng Đoạn Kim Cương, nên Kinh này dạy rất nhiều vấn đề cốt lõi của giáo Pháp.
(Xem: 10613)
Như lý tác ý (Yoniso manasikàra) hay còn gọi là như lý khởi tư duy là một thuật ngữ Phật học dùng để nói về cách nhìn sự vật hay hiện tượng một cách đúng đắn theo quan niệm của đạo Phật.
(Xem: 15015)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Śīla: học xứ, học giới,... nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể.
(Xem: 12704)
Nếu chúng ta thật sự quan tâm về tương lai chính chúng tahạnh phúc an lạc của chính đời sống của mình, chúng ta nên phát triển một thái độ tinh thần trong điều mà thực hành từ bi đóng một vai trò trung tâm.
(Xem: 8044)
Những giới khinh của Bồ tát giới là để tránh khỏi 46 hành vi lỗi lầm (nyes-byas). Những hành vi lỗi lầm này được phân thành bảy nhóm gây thiệt hại...
(Xem: 16595)
Chúng ta cũng có thể sử dụng cách dịch phổ thông hiện này là: Như Thị Ngã Văn 如是我聞: Tôi nghe như vậy, tôi nghe như thế v.v...
(Xem: 6193)
“Phật y trên năm hạng chủng tánhthành lập năm thừa: Chủng tánh Thanh văn thừa; Bích-chi-phật thừa; Như lai thừa; Bất định thừa; và vô tánh thừa.
(Xem: 9466)
46 đại nguyện của Đức Phật A-di-đà là một bản đồ tu tập lý tưởng cho những ai đã phát Bồ-đề Tâm song song với bản nguyện muốn kiến lập tịnh độ ngay trong thế giới Ta-bà...
(Xem: 6962)
Bốn pháp căn bản thành tựu thần lực, bốn cơ sở để có sức mạnh tinh thần hay sức mạnh tâm linh....
(Xem: 7645)
Quán Thế Âm, ngữ nguyên Sanskrit là Avalokiteśvaras, āvalokiteśvaro, avalokiteshvara là danh từ số ít Phạn ngữ, Hán dịch là Quán Thế Âm hay Quán Tự Tại.
(Xem: 6968)
Thành Duy Thức Luận trình bày hai quả chuyển y là Đại Niết-bàn và Đại Bồ Đề; Do đoạn trừ hết thảy các chướng mà thành tựu hai quả vị thù thắng này.
(Xem: 7635)
Tỳ-bà-thi Phật là danh hiệu phiên âm từ Pāli ngữ Vipassī, Sanskrit: Vipaśyin; có nghĩa là cái nhìn đặc biệt, cái nhìn sâu sắc và thanh tịnh; cách nhìn này xuyên suốt thấu đáo mọi vấn đề.
(Xem: 22300)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 8825)
Trong lịch sử tôn giáo của nhân loại rất hiếm có bậc lãnh đạo tinh thần - qua lời nói, hành động và khả năng thiện xảo - làm tăng động lực và tạo một chuyển hướng mới cho tôn giáo, Đức Phật là một khuôn mặt hiếm hoi trong các bậc này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant