Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bố Thí Giúp Đỡ Là Nhân Dẫn Đến Giầu Có

06 Tháng Sáu 201400:00(Xem: 7538)
Bố Thí Giúp Đỡ Là Nhân Dẫn Đến Giầu Có

BỐ THÍ GIÚP ĐỠ LÀ NHÂN DẪN ĐẾN GIÀU CÓ
Thích Đạt Ma Phổ Giác

Có một Phật tử thắc mắc việc uống rượu, ăn thịt là nên hay không nên, do đó đến hỏi một vị Thiền sư. Thiền sư trả lời: “Uống rượu, ăn thịt là "lộc" của mỗi người. Không uống rượu, ăn thịt là cái "phước" của mỗi người.” Vì chúng ta có phước mới được hưởng lộc, có phước mới được ăn sung mặc sướng, có phước mới sống thọ. Nếu chúng ta không có phước thì sao được hưởng lộc ăn thịt, uống rượu; sao có được đầy đủ mọi nhu cầu cần thiết trong cuộc sống hằng ngày.

Đạo Phật chủ trương trong hiện tại phải sống giải thoát cho chính mình và giúp đỡ mọi người vượt qua nỗi khổ niềm đau để đạt được an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. Muốn vậy, chúng ta phải thực hành Bồ tát đạo và trong Lục độ vạn hạnh, bố thí là tiêu chí đầu tiên mà tất cả mọi người phải thực hành.

Bồ tát là dịch âm từ chữ Phạn, nói cho đầy đủ là Bồ-đề-tát-đỏa. Bồ-đề nghĩa là giác. Tát-đỏa là hữu tình. Bồ-tát nghĩa là chúng hữu tình giác. Tất cả các loài hữu tình là sinh vật có tình thức, có giác biết, có cảm xúc. Bồ tát là loài hữu tìnhgiác ngộ, nhưng giác ngộ từng phần. Chính vì vậy mà ở đời chúng ta thấy ai hay thương người, luôn giúp đỡ sẻ chia cứu người trong cơn hoạn nạn thì chúng ta nói người ấy có tâm Bồ tát. Bồ tát là người, sau khi tin Phật, học Phật, phát nguyện tự độ độ tha, thậm chí hy sinh cả bản thân mình để cứu giúp mọi người. Chúng sinh trước khi thành Phật tất yếu phải trải qua một quá trình hành Bồ tát đạo. Mọi người từ khi mới phát tâm cho đến khi thành Phật đều được gọi là Bồ tát.

Chính vì vậy, Phật giáo chủ trương người tu theo đạo Phật phải tự mình giác ngộ giải thoát, sau đó mới giúp đỡ nhiều người cùng được giác ngộ giải thoát. Đó chính là tâm nguyện cao cả của người Phật tử chân chính thực hiện Bồ tát đạo ngay trên thế gian này, làm lợi ích cho mọi người theo tinh thần phước huệ song tu để thành Phật viên mãn. Do giáo hóa chúng sinh, hành giả mới thành tựu quả vị Bồ tátcuối cùngthành Phật, tùy duyên giáo hóa, ứng hiện 3 cõi 6 đường tiếp tục độ sinh.

Do đó, đối với sự sống của một người, chúng ta cần xây dựng từ kiếp sống quá khứ được nối tiếp với kiếp sống hiện tạicho đến đời vị lai. Chúng ta đi tu không phải là chấm dứt cuộc hành trìnhthế gian này mà tách rời xã hội, không gắn liền với tổ tiên, ông bà, cha mẹ như cách hiểu sai lầm của một số người.

Trong cuộc sống, chúng ta thường nghe nói “người này có phước quá” nên mới được giàu có sang trọng, được ăn học tới nơi tới chốn, đẹp đẽ trang nghiêm, vừa mạnh khỏe, vừa hạnh phúc, cầu con được con, cầu của được của, mọi việc đều được như ý. Hoặc cũng có khi chúng ta nghe nói “người này bạc phước quá” nên làm chuyện gì cũng thất bại, tính toán việc gì cũng không xong, muốn cái gì cũng không được, tai họa xảy ra tới tấp, gặp việc mất mát đau thương.

Khi được hạnh phúc, sống trong sung sướng, vật chất đầy đủ, mọi việc đều như ý, tất cả những cái được đó điều gọi là "có phước". Có nhiều người hiểu lầm việc mình có phước báo như vậy là do trời thương, đấng tối cao đã ban cho mình. Nói như vậy có vẻ bất công quá vì nếu ông trời đủ sức ban phước giáng họa thì hãy ban đều cho tất cả chúng sinh cùng chung hưởng, hà cớ gì một người được còn nhiều người khác thì không.

Sở dĩ chúng ta có những suy nghĩ như vậy là do tập khí tham lam, bỏn sẻn, ích kỷ nhiều đời, do tánh ganh tị tật đố mà ra. Những người như thế hay rơi vào bệnh ỷ lại, lúc nào cũng cầu khẩn van xin sự cứu giúp của bề trên. Con người khi được ấm no, hạnh phúc thì ít khi nào để ý đến người khác có cuộc sống ra sao. Đó là tâm ích kỷ, hẹp hòi, chỉ biết mình mà thôi.

Thực ra, không có ông trời, thượng đế, hay đấng tạo hóa nào làm những chuyện bất công, thiên vị một cách vô lý như vậy. Những "phước báo" chúng ta đã được, đang được và sẽ được để hưởng thụ vui chơi một cách hả hê bởi chính do chúng ta đã gieo trồng phước đức trong nhiều kiếp trước. “Mình làm lành được hưởng phước, mình làm ác chịu bị quả báo xấu”, đó mới là lẽ công bằng của nhân quả. Có nhiều người thắc mắc làm sao biết mình "có phước" hay không.

Trên thế gian này, nếu chịu khó nhìn lên chúng ta sẽ thấy rất nhiều người giàu sang phú quý hơn mình, học thức hơn mình, khỏe mạnh hơn mình, sung sướng hơn mình, đẹp đẽ hơn mình, địa vị hơn mình, quyền thế hơn mình, may mắn hơn mình, nhàn nhã hơn mình, bình yên hơn mình, thông minh hơn mình, sáng suốt hơn mình; nhất là những người Phật tử chân chính sớm ý thức tu tập nên giác ngộ hơn mình, do đó sống bình yên, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. Những người như vậy mới thật sự là những người "có phước" hơn mình.

Trái lại, khi nhìn xuống chúng ta sẽ thấy rất nhiều người nghèo hèn hơn mình, dốt nát hơn mình, yếu đuối hơn mình, khổ sở hơn mình, xấu xí hơn mình, thấp kém hơn mình, cô đơn hơn mình, xui xẻo hơn mình, cực khổ hơn mình, hoạn nạn hơn mình, đần độn hơn mình, tối tăm hơn mình; nhất là rất nhiều người nghèo khó chịu bất hạnh khổ đau, họ không được hạnh phúc như mình. Những người như vậy mới thật sự là những người "bạc phước" hơn mình.

Như vậy, rõ ràng chúng ta được gọi là "có phước", hay đang được thọ hưởng "phước báo" đầy đủ nếu như chúng ta có được sáu căn trọn vẹn, cơm ăn áo mặc dư dã, thân thể khỏe mạnh ít bệnh đau, sống lâu trăm tuổi, tinh thần sáng suốt, gia đình hạnh phúc, không gặp hoạn nạn, không gặp đói khát, không bị kẻ thù sát hại… Khi chúng ta bị đau mắt và không còn nhìn thấy gì được nữa, mọi cảnh vật trở nên tối tăm, chúng ta mới thấy giá trị của đôi mắt sáng; đến khi gặp thầy thuốc chữa lành đôi mắt trở lại như xưa, chúng ta mới thấy là mình đang "có phước".

Thực sự, chính "phước báo" của mình đã tạo ra trong quá khứ mới giúp chúng ta vượt qua những hoạn nạn. Người có "phước báo" đầy đủ, trọn vẹn dễ dàng vượt qua cạm bẫy cuộc đời mà không khó khăn gì mấy. Người có "phước báo" ít hơn thì phải chịu trả một chút ít thiệt hại về vật chất hoặc bị thương tật nhẹ. Người hết phước báo hoặc không có phước báo thì dễ dàng bị tai nạn trầm trọng và bỏ mạng sa trường.

Thậm chí, có một số người tử vong trong các tai nạn. Chúng ta đọc báo cũng thấy có những chuyến hành hương từ thiện của các tôn giáo đã bị lật xe trên đường đi hoặc trên đường về, gặp tai nạn chết chóc thương vong. Điều này giúp cho chúng ta càng tin sâu nhân quả tốt xấu. Con người đã lỡ tạo nghiệp báo thì dù trăm kiếp ngàn đời khi quả báo chín muồi cũng phải chịu báo ứng nhãn tiền.

Nghĩa là nếu như con người không biết tu nhơn tích phước, chỉ lo tạo tội tạo nghiệp, trong cuộc sống đấu tranh giành giựt hằng ngày, cho đến khi quả báo thuần thục thì không ai có thể tránh được; cho dù người đó hiện tại đang tu hạnh giác ngộ giải thoát, cứu độ chúng sinh vô lượng vô biên vẫn phải trả quả xấu nhiều đời còn xót lại.

Như có bà già kia là Phật tử thuần thành, năm nay đã 90 tuổi, vì có nhiều phước báo nên bà dành cả cuộc đời để cúng dường Tam bảo và làm từ thiện giúp đỡ những người nghèo khó. Ấy thế mà bà luôn gặp nhiều trắc trởthường xuyên bị quả báo xấu làm tổn hại vật chất lẫn tinh thần.

Trong một chuyến từ thiện năm bà 85 tuổi, tất cả mọi người đều chết trong tai nạn, chỉ còn lại hai người sống sót và bà may mắn chỉ bị gãy tay. Nhìn thấy bạn hiền đều đã ra đi, bà cảm thấy bất anhối tiếc nên không còn lòng tin đối với nhân quả. Bà tìm hỏi nhiều vị thầy tại sao bà đã làm việc thiện cả một đời mà lúc nào cũng gặp những chuyện bất hạnh, khổ đau nhưng chưa có ai trả lời làm lòng bà thỏa mãn. Bà nói Phật dạy làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau, bà chưa từng làm ác, lại hay làm thiện, tại sao lúc nào cũng bị tai nạn hay mất mát, đau thương.

Trong chương trình sinh hoạt thường kỳ tại trung tâm bảo trợ xã hội Chánh Phú Hòa Tỉnh Bình Dương, chúng tôi đã được gặp bà sau những lời thăm hỏi chúc phúc cho nhau. Bà hỏi thẳng vấn đề tại sao có những điều hình như đi ngược lại lý nhân quả. Chúng tôi mới hỏi bà trong chuyến xe định mệnh đó những ai là người đã sống sót.

Bà nói: “Tôi và một người nữa”. Chúng tôi liền giải thích nhân quả tốt xấu theo ta như bóng với hình, dù trăm kiếp ngàn đời vẫn không mất. Việc làm tốt của bà trong hiện đời vẫn còn đó, chỉ vì chưa đủ nhân duyên nên quả tốt chưa trổ ra. Bà quả thật là người có phước báo quá lớn, nếu không thì đã mất mạng trong chuyến xe định mệnh đó.

Chúng tôi đã dẫn hình ảnh tôn giả Mục Kiền Liên gần cuối đời bị người ác hại chết trong khi Phật đã xác nhận rõ ràng ngài đã chứng quả A La Hán, tự tại trong sinh tử. Chính vì vậy, thân ngài tuy phải chịu quả báo của nghiệp ác nhiều đời chiêu cảm nhưng tâm thì vẫn an nhiên tự tại không hề có một mảy may oán trách hay phiền muộn.

Người có tu và không tu khác nhau ở chỗ đó. Chúng ta khi quả xấu đến thì than thân trách phận, oán giận trong lòng hoặc chống trả trở lại bằng những hành động không tốt đẹp, do đó nhân quả thù hằn ghét bỏ càng thêm chất chồng từ đời này sang kiếp khác.

Đạo lý nhân quả rất công bằng, không biết thiên vị một ai. Thay vì bà phải chết trong chuyến đi từ thiện nhưng do phước báo đã gieo trong hiện đời quá nhiều nên bà chỉ bị thương. Phật dạy: “Nhân quả được tác động qua ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai, khi hội đủ nhân duyên sẽ cho ra kết quả.” Như cùng gieo giống trong một thời điểm nhưng giống của cây lúa sẽ cho ra kết quả từ 3 tháng đến 6 tháng, giống của cây chuối từ 6 tháng đến một năm và giống của cây xoài lại từ 2 năm đến 6 năm.

Nối kết yêu thương, sẻ chia cuộc sống, đem lại bình anhạnh phúc cho con ngườimục đích của đạo Phật. Làm từ thiện để đem niềm vui đến cho mọi người khi gặp hoạn nạn, cơ hàn, khó khăn cũng chính là đem niềm vui đến cho chính mình vậy. Từ lâu, việc bố thí cúng dường, giúp đỡ sẻ chia được Phật tử chan rải khắp 3 miền Nam-Trung-Bắc là nhịp cầu nối kết yêu thương, sẻ chia cùng những nỗi niềm bất hạnh, đem đến hạnh phúc cho con người.

Chúng ta thường nghe nói “cứu ngặt nhưng không cứu nghèo, của cho không bằng cách cho” hoặc “cho con cá không bằng cho cái cần câu”. Đó là những ưu tư, trăn trở của chúng tôi sau nhiều năm làm từ thiện. Làm thế nào để con người thực sự chuyển hóa được những nỗi khổ niềm đau, thực sự bình an hạnh phúc ngay trong cuộc sống này? Chỉ có cách duy nhất là tin sâu nhân quả và gieo trồng phước đức thì sẽ chuyển hóa được kiếp nghèo khổ trong hiện và mai sau.

Dòng đời lúc nào cũng nghiệt ngã cuốn trôi tất cả dù đó là nhân nghĩa của một con người, thương yêu, thù hận, được mất, hơn thua, tranh giành, chiếm đoạt, lớn hiếp nhỏ, mạnh hiếp yếu để được sinh tồn trên thế gian này. Thấy người bất hạnh mà không động lòng, không thương tâm, không tìm cách chia sẻ giúp đỡ thì không phải là người Phật tử chân chính, nhưng chúng ta làm sao có đủ phương tiện lâu dài để sẻ chia cùng những mảnh đời bất hạnh đó?

Đạo Phật dạy chúng ta làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau, mình làm mình chịu, không ai có thể ban phước giáng họa hay sắp đặt số phận cho mình mà chính mình đã gieo nhân thì gặt quả. Nhưng nhân quả không cố định và có thể thay đổi được tùy theo sự quyết tâmý chí tu tập của mọi người.

Theo đạo Phật, chúng ta hiểu “phước” là gì? Đức Phật đã dạy con người có 5 phước là khỏe mạnh, giàu có, sống lâu, được nhiều người thương và có ngoại hình đẹp. Chúng ta cần hiểu rằng 5 phước không chỉ gắn liền với cuộc sống hiện tại mà còn được nối kết bởi kiếp quá khứ đã gieo tạo và chúng ta phải làm thế nào để được hưởng trọn vẹn 5 phước đó.

“Lộc” là gì? Tết đến, một số người đi chùa bẻ sạch hoa lá, cây kiểng và gọi đó là hái lộc đầu năm. Đó là việc làm sai lầm lớn bởi quan niệm mê tín, làm như vậy làm sao có lộc được. Muốn được lộc chúng ta phải làm phước, có phước mới hưởng được lộc, không phải Phật hay nhà chùa phát lộc cho chúng ta.

Hành hương cúng chùa đầu năm là truyền thống tốt đẹp của người Phật tử Việt Nam, giúp một người qua cơn đói khát, thấy một người bệnh đơn chiếc chúng ta chăm sóc giúp đỡ, dẫn một người già qua đường, nói một lời động viên an ủi… chính những việc làm thiện ích này là hạnh nguyện của các vị Bồ tát. Chúng ta ai cũng có thể làm được ngay trong cuộc sống để có được kết quả tốt đẹp là hưởng lộc.

Như trên đã nói, ăn thịt uống rượu là chúng ta đang hưởng lộc, vì có phước nên được hưởng thụ thỏa đáng. Theo nguyên lý nhân quả, làm phước thì được phước, hưởng phước thì hết phước, chúng ta có phước nên mới có cuộc sống tương đối đầy đủ về vật chấtăn sung mặc sướng, nhà ở tiện nghi.

Tuy nhiên, uống rượu ăn thịt tức là chúng ta đang hưởng lộc trong sự đau khổ của các loài vật khác. Uống rượu nhiều gây say sưa, loạn tâm thần, đánh mất lý trí nên dễ làm những chuyện bậy bạ có hại cho gia đình, người thân và xã hội. Phước chúng ta đang hưởng sẽ hết, họa thì chúng ta phải gánh chịu trong nhiều đời nhiều kiếp vì nhân si mêsát sinh hại vật.

Một gia đình nọ rất giàu có sanh được người con trai rất ngoan hiền, khi lớn khôn chỉ lo phụ giúp cha mẹ làm ăn sinh sống, đem lại nhiều lợi tức mà không dám tiêu xài. Về sau, ông bà này lại sanh thêm người con thứ hai hoàn toàn khác hẳn với đứa con thứ nhất, không giúp gì được cho gia đình mà ngược lại còn làm tiêu hao tài sản, của cải.

Đứa con thứ hai được sinh vào nhà để đòi nợ cũ trong một kiếp xưa vì đã bị ông trưởng giả lường gạt, mối hận thù này khiến chiêu cảm quả báo xấu như thế. Người con trai lớn trong đời trước đã trộm cắp của ông trưởng giả một số tiền lớn nên sinh trở lại làm con để trả hết số nợ này. Khi món nợ ân oán đã trả xong thì cả hai người con đều chết.

Chúng ta khi đã hiểu rõnhân quả rất công bằng thì phải hiểu mọi việc tốt xấu, nên hư, thành bại trong cuộc sống này đều phát xuất từ nhân quả quá khứ của mỗi người. Nếu ai đã tu phước đời trước thì đời này dĩ nhiên là có phước. Cho nên, dân gian nói có phước có phần thì không cần phải lo và khi chúng ta tạo phước hiện đời thì đời sau sẽ được phước hoặc hưởng liền trong hiện tại như ăn cơm liền được no.

Chúng ta sinh con hiếu thảo, thông minh hay sinh con bất hiếu, bệnh hoạn đều không phải do đấng thần linh nào tạo ra mà do chính mình gieo nhân thì gặt quả. Như vậy, người làm ác nhiều sẽ gặp con cái bất hiếu làm tổn hại từ vật chất cho đến tinh thần. Đó là nói trong gia đình người thân, còn đối với xã hội những người có ân hoặc có oán với mình thì họ sẽ theo phá ta hoặc theo để giúp đỡ ta.

Trên bước đường tu học nếu chúng ta chịu khó suy gẫm, quán chiếu thì sẽ nhận rõ nguyên lý nhân quả tốt xấu này. Những người không bằng lòng với chúng ta sẽ tìm cách tác động xấu khiến ta bị thiệt hại về vật chất lẫn tinh thần. Mặc dù chúng ta đang làm việc tốt nhưng những kẻ xấu họ sẽ không thích việc làm của ta. Thật vậy, sự tu hành của chúng ta thường phản ảnh hai mặt đối lập tốt xấu lẫn lộn chỉ nhiều hay ít mà thôi.

Ngoài những người mang ơn hay trả oán được sinh lại làm người thân trong gia đình của chúng ta, hoặc những người bạn đồng tu tái sanh trở lại để động viên sách tấn chúng ta cùng hướng về con đường thiện còn có một hạng người nữa rất quan trọng trong đời sống là những đại Bồ tát tái sinh làm cha mẹ bình thường nhưng sanh con có phước trí đặc biệt hơn người.

Ngoài việc cầu phước để có đời sống tốt đẹpmở rộng tấm lòng để giúp đỡ những người khác khi có điều kiện, chúng ta cũng cố gắng nỗ lực tu hành để chuyển hóa phiền não tham-sân-si thành vô lượng trí tuệ, từ bi. Quyến thuộc luôn biết làm phước là do ta biết buông xả những tâm niệm và hành động xấu ác.

Thân mạng của chúng ta được sống lâu dài, sức khỏe tốt là do chúng ta biết làm những việc tốt. Muốn được như vậy mãi mãi trước tiên ta phải hiếu thảo với ông bà cha mẹ, làm tròn bổn phận đối với gia đình người thân và dấn thân đóng góp lợi ích cho xã hội.

Chúng ta sinh ra làm người được khỏe mạnh là nhờ đã từng bảo vệ mạng sống của nhiều người khác nên mới có phước vì không làm tổn thương người hay vật. Chính nhờ vậy mà ta có sức khỏe tốt, do đó muốn trường thọ thì phải không gieo nhân giết hại.

Gian tham trộm cướp, lường gạt lấy của người là nhân dẫn đến nghèo đói, sẽ sanh vào vùng biên địa nghèo đói để trả quả xấu này. Ngược lại, nếu có phước mà biết bố thí cúng dường như trưởng giả Cấp Cô Độc thường lo cho người khác thì càng ngày lại càng giàu thêm. Như vậy, giàu có là do biết làm phước nhiều đời, không phải do lường gạt dối trá mà được.

Khi có phước con người ta bắt đầu tìm cách hưởng lộc trong điều kiện sẵn có của mình, người biết tu nhân tích đức thì biết cách làm cho phước lớn rộng thêm để cầu mong được thọ, tức sống lâu. Muốn sống lâu chúng ta không nên sát sinh hại vật bằng cách trực tiếp giết hay xúi bảo người khác giết, hoặc vui vẻ khi thấy người khác giết, đã vậy mà còn hay cứu mạng chúng sinh khi cần thiết.

Chúng ta có phước nên sống lâu và nhờ biết cách gạn lọc phiền não tham-sân-si mà tuổi càng lớn lại càng thông minh, sáng suốt, không bị lú lẫn. Giúp đỡ, sẻ chia giúp ta thiết lập tình thương. Trên cơ sở đó tạo ra mối quan hệ tương quan, tương duyên trong xã hội cộng đồng nhằm phát triển tốt đẹp về mọi mặt bền vữnglâu dài. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta phải làm như thế nào để tạo ra phước báo nhằm hoàn thiện chính mình và đóng góp lợi ích cho nhân loại.

Bố thí là nền tảng cơ bản để kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống nhằm làm vơi bớt nỗi đau bất hạnh của tha nhânhạnh lành đầu tiên mà đức Phật lúc nào cũng nhắc đến. Bản chất của con người là luôn muốn có, muốn thêm, muốn nữa mà không bao giờ thấy đủ và thỏa mãn với những gì mình đang có. Muốn được sống an lạc, hạnh phúc ta hãy nên bằng lòng với những gì mình đang có và cố gắng duy trì, gìn giữ và phát triển. Mong cầu nhiều, mơ ước nhiều mà không được như ý thì chỉ thêm nhiều phiền muộn, đau khổ mà thôi.

Phật dạy bố thí để giúp chúng ta dẹp lòng ham muốn quá đángtính cách ích kỷ, hẹp hòi như tham tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ vô độ. Hạnh bố thí giúp con người hiểu được ít nhiều sự an lành thiết thực của người và của chính mình như thế nào. Cái gì mình tiêu xài thì hết, cái gì mình giúp người thì còn, giống như mình gửi tiền vào ngân hàng khi cần thì lấy ra xài. Cái gì mình đang có nếu không biết chia sẻ thì chưa chắc giữ được lâu dài, chỉ có những gì mình đã bố thí để giúp đỡ, sẻ chia cho người khác mới thực sự là của mình.

Trong khi thực hành bố thí nếu chúng ta quyên góp tiền bạc cho một người hay một tổ chức nào đó để làm việc từ thiện mà họ không làm đúng như lời họ nói, thậm chí họ còn lợi dụng lòng tốt của nhiều người để thủ lợi, làm việc sai trái thì mình vẫn hưởng được phước báu. Tại sao vậy? Bởi khi chúng ta tự nguyện phát tâm tùy hỷ đóng góp tịnh tài cho một việc từ thiện cứu người, giúp đời với tâm vị tha biết thương người mà không vì cầu phước báu cho mình thì chúng ta vẫn có phước. Đó là theo quy luật nhân quả công bằng làm phước được phước, còn chuyện người đó, chùa đó, tổ chức đó có làm đúng hay không thì nghiệp ác đã tạo ra họ sẽ phải nhận chịu theo nhân nào quả nấy.

Tóm lại, trong cuộc sống hằng ngày chúng ta có rất nhiều cơ hội để làm phước, tạo phước, kiếm phước và tích lũy phước. Dù là phước hữu lậu hay phước vô lậu đều có công năng giúp chúng ta có thể sống bình yên, hạnh phúc để tiến tới chỗ giác ngộ, giải thoát hoàn toàn.

Phước có 2 loại: Phước hữu lậu và phước vô lậu.

Phước hữu lậu là khi chúng ta làm điều lợi ích giúp đỡ cho mọi người về phương diện vật chất nên sau này sẽ được sắc tướng tốt, thọ mạng dài, nhiều tiền của, giàu sang phú quý, vợ đẹp con ngoan…

Phước vô lậu là sự buông xả mọi vọng niệm dù ác hay thiện, luôn giữ tâm thanh tịnh như như. Phước vô lậu giúp chúng ta thoát khỏi phiền não tham-sân-si, không dính mắc vào sự thương ghét, tốt xấu, đúng sai, phải quấy nên dễ dàng thoát khỏi sống chết luân hồi. Người làm phước với tâm từ-bi-hỷ-xả không cầu mong được hưởng phước về sau, chỉ cố gắng tu học để tiến dần đến chỗ giác ngộgiải thoát là đang tạo phước vô lậu vượt khỏi vòng sanh tử luân hồi.

Chúng ta thực sự có khát vọng trở thành người giàu có và sống bình yên, hạnh phúc trong đời sống hiện tại cũng như tương lai thì hãy nên gieo trồng phước đức. Một chỗ đầu tư vô cùng an toàn được bảo đảm bằng các giá trị vật chất thông thường và còn có cả giá trị làm thăng hoa đời sống tâm linh.

Bố thí là một việc làm thiết thực nhất mà bất cứ ai hiện sống trên cõi đời này đều có khả năng san sẻ được. Cho dù chúng ta là những người sở hữu tài sản kếch xù hay là kẻ bần cùng đều có khả năng thực hành hạnh bố thí. Có ba cách bố thí để chia sẻ những nỗi khổ niềm đau với người khác là bố thí tài sản vật chất, bố thí lời Phật dạy (bố thí Pháp) và bố thí sự không sợ hãi (bố thí vô úy).

chúng ta đang lâm vào tình trạng khánh kiệt, bế tắc cũng có thể bố thí, chia sẻ những nỗi đau túng thiếu, mất mát của người khác hiện còn tệ hơn mình. Ngay cả một người hoàn toàn không có khả năng về vật chất thì người ấy cũng có thể giúp đỡ những người khác trong xã hội bằng cách phát tâm phục vụ. Đây chính là ngân hàng phước đức mỗi người chúng ta đều có khả năng đầu tư cho chính mình.

Rõ ràng, phước đức không phải tự nhiên mà có, đó là do chính bản thân ta phải ra sức đầu tư để làm các việc có lợi ích cho đời. Cũng giống như một khu vườn, nếu chúng ta không biết chăm sóc từ việc gieo giống, bón phân và tưới tẩm thì chẳng bao giờ hưởng được hương thơm quả ngọt. Nói chung, người có hoàn cảnh khó khăn cũng có thể bố thí Pháp được như hướng dẫn người khác đi nghe Pháp từ một vị giảng sư nào đó, hoặc nói cho họ biết để tin sâu nhân quả.

Trong lúc chúng ta đang giúp đỡ người khác mà không hề nghĩ mình đang làm phước, ta chỉ làm với tâm không tính toán so đo, đó là ta biết cách đem lại phước báo vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn. Phước hữu lậu được ví như chúng ta đang gửi tiền tiết kiệm, có khả năng giúp ta giàu sang sung sướng, thỏa mãn vật chất đầy đủ.

Trong Kinh A Hàm Phật dạy: “Chỉ có phước báo mới có thể chuyển hóa được nghiệp báo xấu mà thôi.” Nghiệp xấu ác được ví như một nắm muối. Nếu chúng ta nuốt phải nắm muối đó thì chắc chắn ta sẽ cảm thấy khó chịu đến dường nào. Tuy nhiên, nếu chúng ta bỏ nắm muối vào trong một tô nước rồi uống thì có lẽ chúng ta sẽ cảm thấy dễ chịu hơn một chút. Nếu bỏ nắm muối vào trong một lu nước rồi uống thì ta cảm nhận gần như vị mặn đó không làm cho ta thấy khó chịu nữa. Tô nước, lu nước tượng trưng cho người có phước báo do chính họ tạo được ít hay nhiều sẽ giúp họ chuyển hóa bớt nghiệp xấu ác.

Khi chúng ta làm được nhiều lợi ích cho người khác thì chuyện lớn sẽ hóa nhỏ, chuyện khó sẽ hóa dễ. Luật nhân quả rất công bằng, dù cho ta có tu hành chứng đắc đi nữa thì chúng ta vẫn phải chịu một phần nào quả báo xấu đã gieo tạo trước kia.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2254)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
(Xem: 3414)
Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn.
(Xem: 4093)
Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác.
(Xem: 3862)
“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.
(Xem: 2806)
Trong các kinh thường ví chân tâm là viên ngọc, như viên ngọc như ý, viên ngọc ma ni, lưới Trời Đế Thích…Bài kệ này chỉ thẳng Viên Ngọc Tâm
(Xem: 3284)
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
(Xem: 3418)
Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào?
(Xem: 4467)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 3794)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”
(Xem: 4668)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 3940)
Mất 11 năm khổ công tầm đạo, Đức Phật Thích Ca đã đạt đại giác ngộ sau 49 ngày quyết tâm thiền định dưới cội cây bồ đề.
(Xem: 2938)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”...
(Xem: 3697)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao?
(Xem: 3826)
Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ, tánh tướng tịch nhiên, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt.
(Xem: 2993)
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phậtdi giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.”
(Xem: 3542)
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN).
(Xem: 4383)
Đức Phật, một nhân vật lịch sử 3000 năm về trước, ra đời tại Bắc Ấn, là bậc giác ngộ toàn triệt, là bậc đạo sư với nghi biểu đặc biệt xuất hiện ở đời.
(Xem: 3649)
Con người sanh ra để hưởng thụ qua lục dục như tài, sắc, danh, thực, thùy (Ngủ nghỉ), .v.v. Con người trải qua một chu kỳ già, bệnh và cuối cùng là chết.
(Xem: 2166)
Nguyên bản: Teachings On The Eight Verses On Training The Mind. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Anh dịch: Thupten Jinpa. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 2542)
Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được.
(Xem: 2962)
Kinh Tiểu Duyên (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp.....
(Xem: 2647)
Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất.
(Xem: 4535)
“Thiên đường có lối sao chẳng đi Địa ngục không cửa dấn thân vào”
(Xem: 4861)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 2776)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê,
(Xem: 5128)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 2784)
Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật.
(Xem: 3195)
Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất.
(Xem: 4311)
Nguyên tử giải phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
(Xem: 4853)
Luân hồinhân quả là hai sự kiện tương quan. Bởi chúng sanh còn nghiệp trái của nhân quả thiện ác nên mới bị luân hồi.
(Xem: 4600)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 3161)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa...
(Xem: 4489)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 4211)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 6071)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(Xem: 3454)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(Xem: 3957)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(Xem: 5936)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(Xem: 5345)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(Xem: 3965)
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
(Xem: 32585)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 3116)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(Xem: 4085)
Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này
(Xem: 4671)
Kinh Biệt Giải Thoát Giới - tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya
(Xem: 2999)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(Xem: 3739)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(Xem: 3475)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(Xem: 6472)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 2716)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
(Xem: 3175)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
(Xem: 4472)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
(Xem: 3369)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
(Xem: 7221)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4410)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4457)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7123)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2890)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12005)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3884)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3708)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant