Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 3 Nhân Cách Tâm Lý Học

20 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 4588)
Chương 3 Nhân Cách Tâm Lý Học

CHƯƠNG III
NHÂN CÁCH TÂM LÝ HỌC

NGHIÊN CỨU VỀ NHÂN CÁCH TÂM LÝ HỌC VÀ NHÂN CÁCH PHẬT GIÁO 

 Đứng trên phương diện tâm lý học tây phương để nói thì nhân cách (personality) là mô thức ổn định hành vi cá thể một cách độc đặc, đồng thời sử dụng tư tưởng, cảm giác, tri giác làm cơ sở để thích ứng với hoàn cảnh. Khi nhà tâm lý học nghiên cứu về nhân cách thường chú ý đến đặc chất của cá thể, hình thể của thân thể, thế lực của tiềm ý thức, quá trình tri nhận và các loại xã hội học tập v. v… vì những nhân tố nầy đều là những nhân tố có thể ảnh hưởng đến hành vi của nhân loại

 Tâm lý học hoặc tâm lý phân tích học (Psychoanalysis) của Sigmund Freud cho rằng có ba loại tầng thứ tâm lý, đó là hình thành nhân cách tức ý thức, tiền ý thức (preconsciousness) và tiềm ý thức. Nội dung của ba tần thức nầy dựa theo sự kết hợp của ba sinh vật và thế lực hoàn cảnh mà hình thành ba loại hệ thống tâm lý, tức bản ngã (id), tự ngã (ego) và siêu việt (superego). Học thuyết của Sigmund Freud chủ trương “Tánh” là hạch tâm của động cơ nhân loại. Theo Sigmund Freud thì “Tánh” trong xã hội văn minh thường do các loại áp lực của xã hội và thật khó để có thể được thỏa mãn, bởi vậy mà biến thành nhân tố chủ yếu làm ảnh hưởng đến nhân cách. Nhân cách tùy thuộc vào sự phát triển của tánh mà phát triển, vì thế nên có từng giai đoạn phát triển như khẩu khang kỳ, giang môn kỳ, tánh khí kỳ, tiềm phục kỳ và sanh thực kỳ. 

 Từ đó về sau, bao nhiêu học thuyết, lý luận về nhân cách đều phát nguồn từ học thuyết của Sigmund Freud và được tu chỉnh thêm, và được gọi là “học phái mới Sigmund Freud” (Neo Freudian School). Cuối năm 1930 đến đầu năm 1950, có rất nhiều học sinh của Sigmund Freud đã phát biểu về những kiến giảilý luận về tâm lý phân tích học. Trong đó học đã sử dụng phái Phân Tích Tâm Lý Học (như Carl Jung chủ trương) để nhấn mạnh nhân cách là sự thăng bằng của thế lực ý thức và tiềm ý thức. Phái Cá Nhân Tâm Lý Học (như chủ trương của Alfred Adler) thì cho là vai trò (role) và sự quan hệ của xã hội hình thành nhân cách. Học thuyết Tâm Lý Nhân Tánh (Humanistic theory) tức những vị như Carl Rogers và A. Maslow thì nhấn mạnh rằng nhân cách là tánh độc đặc và kinh nghiệm sinh hoạt đặc thù của cá thể. Lý Luận Học Tập Xã Hội (như B. F. Skinner) thì chú trọng đến thế lực của hoàn cảnh đối với sự ảnh hưởng của nhân cách, cá thể sử dụng phương thức mô phỏng cộng thêm tác dụng tri nhận để cá thể học tập về hành vi. Và còn có một số lý luận khác về nhân cách đã rất chú trọng về kinh nghiệm chủ quan v. v… 

 Phật giáo đối với sự giải thích về nhân cách đã có sự bao hàm của triết học tánh, luân lý tánh và tâm lý tánh. Phật giáo phủ định con người vốn có tự ngã thuần túy cố định (ego) vì nó chỉ là nhân duyên hòa hợp. Do sự quan hệ của nhân duyên hòa hợp mà mỗi con người đều có ý thức, ký ức và thuộc tánh của thân thể để có thể phân biệt Ta, Người (chủ thể, khách thể). Phật giáo tiếp nhận quan điểm cho rằng con người có một nhân cách động thái, giả hợp biến động bất thường, nhân cách chỉ là một loại danh tự của phương tiện được sử dụng để phân biệt giữa Người và Ta mà thôi. Đứng trên Luận Lý Học để nói thì nhân cách nầy có thể là lý tánh và phi lý tánh nhưng chịu trách nhiệm về hành động của chính mình. Ngay trên phương diện của Tâm Lý Học để giải thích thì rất có ý nghĩa, bởi vì nhân cách có ký ức, tư tưởng, cảm giác để thông cấu với người khác. 

 Phân tích một cách nghiêm chỉnh về tâm lý học thì, nhân cách cũng chỉ là một phương tiện giả danh, bởi nó biểu thị cho một loại công năng thống nhất nào đó (unity of function) – như đi, đứng, tri giác, tư tưởng, quyết định v.v… giống như chiếc xe ngựa, do sự kết hợp toàn thể của các bộ phận mới có thể gọi là xe ngựa được; Nhân cách cũng thế, do thân thể, cảm giác, ý thức và tính hướng v. v… tổ hợp mà thành và như thế mới có thể gọi là nhân cách. Tóm lại, nhân cách là một loại thống nhất thể của công năng, chỉ có giả danh của tánh tạm thời. Nhân cách không thể đơn độc tiêu biểu cho thân thể, tri giác, cảm giác mà chỉ có trong sự tổ hợp thích đáng mới có thể được gọi là nhân cách. Sự giải thích này hoàn toàn có sự phù hợp cùng với Phật giáo

ĐẶC CHẤT VÀ LOẠI HÌNH NHÂN CÁCH 

 Đặc chất nhân cách (Persoanlity traits) là nói đến tính đặc sẵn có nơi mỗi nhân cách cá thể, loại đặc sắc nầy có thể xác nhận được. Loại hình nhân cách (Personality types) là chỉ cho sở hữu nhân cách; loại hình đều có thể quy loại thành rất nhiều hình thức cơ bản. 

 Trong Tăng Chi Bộ A Hàm Kinh (Anguttara Nikaya), chúng ta có thể phát hiện bốn loại đặc sắc của nhân cách, tức là những loại hình như Mỹ Đức (Virtue), Thành Thực (Integrity), Cương Nghị (Fortitude) và Trí Huệ v.v… 

 Do sự cư ngụ cố cựu lâu dài tại một nơi chốn mà có thể biết rằng trên phương diện đạo đức của người thường trú này là tốt hoặc có khuyết điểm, điều đó cũng có nghĩa bảo rằng có thể nhận xét rõ là ông ta có đạo đức tốt đẹp hay không; xử lý sự vật với người khác khiến có thể nhận thấy rõ ràng họ là người không thành thật; trong những khi nguy hiểm giáng xuống hoặc bất hạnh đã xảy đến thì có thể đoán định được trình độ cương nghị của một con người; giao đàm với người thì có thể tri nhận được là họ có trí huệ hay không. 

 Sự phân loại đặc chất nhân cách chủ yếu của Phật giáo là nhắm vào xích lộ luân lýtâm lý để đo lường. 

 Kinh Phật (Visuddhimagga) cũng đã chia nhân cách làm 6 loại hình lớn, đó là tham lam (tham), ghét hận (sân), vọng tưởng (si), trung thực, thông minh (huệ) và tản mạn. 

XUNG ĐỘT VÀ TỎA CHIẾT (NGĂN TRỞ THẤT BẠI) (CONFLICT AND FRUSTRATION) 

 Xung đột cũng tức là hai cái hoặc hai mục tiêu (goals) hoặc nhu yếu (needs) đưa dẫn đến tình cảnh bất an khi không thể tương dung lẫn nhau. Xung đột có thê/ chia làm ba loại, đó là chánh-chánh xung đột (approach-approach conflict), tức loại xung đột khi muốn lấy một trong hai mục tiêu của nghĩ muốn; Phụ-phụ xung đột (Avoidance-avoidance conflict) là hai mục tiêu đều không nghĩ muốn, xung đột xảy ra khi muốn lấy một; Chánh-phụ xung đột (Approach-avoidance conflict) là loại xung đột của một mục tiêu mà có hai loại thành phần chánh phụ trong ấy (ví dụ như, một người đàn bà đẹp nhưng mang nhiều bệnh tật). Giải quyết sự xung đột đương nhiên liên hệ đến nhân tố quyết định của nó và khoảng cách xa gần của mục tiêu, động cơ cá nhân, cường độ nhu yếu cá nhân, hạ quyết tâm, thời gian tính, kỳ vọng cá nhân v.v… 

 Sự trắc trở, thất bại đối với những quyết định hoặc muốn đạt đến mục đích nhưng phải chịu sự trở ngại giữa đường. Cũng có sự trắc trở bởi hoàn cảnh như người nhà bị chết; có những trắc trở bởi yếu tố thể chất, như quá thấp lùn sinh ra tướng tá xấu xí khó coi; có nhân tố xã hội như ly hôn, thất nghiệp v.v… 

 Phương thức đối phó với sự trắc trở, thất bại gồm có công kích (gián tiếp công kích và trực tiếp công kích), ảo tưởng và co rút (tỉ như, đàn bà xấu xí gặp phải nhiều trắc trở thất bại, có ảo tưởng mình là tài tử Elizabeth Taylor, và trở về với những hành vi trẻ con – như khóc lóc ồn ào, lạnh lùng và tiêu trầm v.v…) 

 Đức Phật dạy rằng trên cơ bản, sự xung độtbình an, thanh tịnh có thể kiểm nghiệm từ hai tầng thứ : Niết bàn (Nirvanà) là thanh tịnh, hài hòa một cách tuyệt đối; còn đau khổ (dukkha) thì dẫy đầy sự bất an, khẩn trương và xung đột. Giữa sự hài hòa (mục tiêu truy cầu lý tưởng của người tại gia) và thanh tịnh tuyệt đối (là lý tưởng truy cầu của người xuất gia) cũng có rất nhiều khác biệt. Người tại gia chánh trực nếu tuân theo thủ đoạn hợp pháp để làm giàu, không tham lam thì có công đức và hơn nữa có thể đạt được sự hài hòa; nếu người tại gia khởi lên tâm tham lam, khát cầu sự hưởng thụ quá độ thì chắc chắn là bị xung đột với người khác. Người xuất gia vì xả bỏ tất cả, không những có khả năng giải trừ đau khổ mà hơn nữa còn có thể truy tầm sự thanh tịnh cao nhất trong nội tâm của họ. 

 Phật giáo cho rằng khu lực (drive) mạnh mẽ truy cầu thỏa mãn cảm quan, truy cầu sự tân kỳ, hưng phấn, vật sở hữu, đều là máy phát điện của sự xung đột

 Phật giáo giải thích về những trắc trở, thất bại rằng là : khoái lạc và kích thích một khi cái mà chúng ta truy tầm kết quả biến thành rỗng tuếch thì sanh ra trắc trở, thất bại nặng nề. Loại trắc trở thất bại sâu nặng hơn nầy không tức khắc xuất hiện qua tri giác toàn diện giống như sự trắc trở thất bại khi mất đi mục tiêu đặc biệt

 Ngoài sự trắc trở vì truy cầu thỏa mãn cảm quan đã gây nên, Phật giáo còn đề ra sự xung đột tâm lý của tự ngã bảo tồn (cảm quan, quyền lực, địa vị, danh vọng), một người có khu lực quyền lực mạnh mẽ thì sự xung đột tâm lý cũng to lớn và sự trắc trở, cảm giác trở ngại cũng tương đối to lớn. Khi cảm giác trắc trở lên đến cao điểm là không thể tiếp nhận thì con người hiển nhiên lập tức gặp một loại hiện tương hy hữu đó là dục vọng và khát vọng muốn hủy diệt tự ngã. 

 Vì thế, sự xung độttâm lý học Phật giáo đã đề cập như phân tích động cơ căn nguyên dục cầu truy cầu thỏa mãn cảm quan, bảo tồn tự ngã, hủy diệt tự ngã và tham lam, ghét hận v.v… cùng với tâm lý học hiện đại tương đối có điểm tương thông. 

PHƯƠNG THỨC PHÒNG VỆ (DEFENSE MECHANISM) 

 Phương thức phòng vệ là tinh tâm kiệt tác của Sigmund Freud và Anna, con gái của ông; phương thức nầy nói về quá trình nhân loại lợi dụng tiềm ý thức nên đối với sự liễu giải chân thật đã bị bóp méo, thay đổi và cải biến, nhất là khi chân thậtcảm giác tội lỗi (feelings of guilt), kinh nghiệm bi thương, xung động, không thể tiếp nhận, thất ý, và khi những sự việc khác có liên quan dẫn khởi một cách khẩn trương. 

 Tuy nhiên, phương thức phòng vệ đã không có biện pháp duy hộ của áp lực tâm lý cá thể, vì thế cũng có thể nói đó là một loại dối lừa tự ngã và trục trặc tự ngã (self-deceptive and self-defeating), không có biện pháp nào có thể giải quyết sự áp lực của tâm lý, bởi vì quá trình của phương thức phòng vệ phát sinh ngay trong tầng thứ tiềm ý thức, con người sử dụng nó làm bình phong và nơi nương tựa kiên cố lớn lao mỗi khi phát sinh nóng nảy, lo lắng, bất an và đã không cảm thấy đó là một thứ thủ đoạn của sự thật bị bẽ cong bóp méo; lý do là trong sự sinh hoạt của mỗi một con người đều sẽ gặp phải những tình cảnh bấtan như tội ác, sợ sệt khủng hoảng, bất an, mục tiêu bị trở ngại v.v… vì thế, dường như mỗi cá nhân đều sẽ lợi dụng phương thức phòng vệ để bảo hộ chính mình. 

 Những phương thức phòng vệ gồm có

Áp chế (regression), mục đích là khiến cho đau khổ, tư tưởng của tánh uy hiếp, cảm giác, ký ức và quá trình ảo tưởng không tiến vào được trong ý thức hoặc tri giác cá thể

Hợp lý hóa (Rationalization) là ý đồ tìm kiếm lý do hợp lý để thay thế thất vọng, nói một cách khác, tìm lý lẽ không thực để thay thế lý do chân chính. Ví như một học sinh gian lận trong việc thi cử thì thường biện hộhọc sinh nào mà chẳng gian lận; một cô gái không được mời tham dự dạ hội thì bào chữa căn bản là cô ấy đã không bằng lòng chấp nhận lời mời

Đầu Xạ (Projection) là sự đổ thừa nơi người khác, tất cả đều diễn giải rằng đó là sự sai lầm của người khác. 

Tác dụng nghịch thi (reaction formation) là sự kinh hãi đối với xung động và tư tưởng, không những chỉ cố gắng ép chế mà còn phát triển một thái độ mô thức và hành vi hoàn toàn tương phản để che đậy động cơ và hành vi chân chính của tiềm ý thức ấy, trường hợp như một người có tánh nóng nảy bức xúc, lo lắng, bất an có thể xin vào viện thần học để chuẩn bị làm mục sư hoặc nữ tu chẳng hạn. 

Đồng Nhận (Identification), sự nhận quàng quen biết này là vì bảo vệ giá trị cảm nhận của chính mình, cá thể thường đưa ra những bình luận chung chung với một số nhân vật có danh vọng hoặc oai quyền, như Tổng Thống Mỹ Carter là bạn thân của tôi v.v… 

Thăng hoa (Sublimation), là mục tiêu hoạt động lợi dụng xã hội có thể chấp nhận nhằm thỏa mãn động cơ áp chế của xã hội ấy, chẳng hạn như làm một kiểm tra viên điện ảnh để có thể xem phim X mà không cảm thấymặc cảm tội lỗi
Phủ nhận hiện thực (denial of reality) là những gì không vui hoặc tư tưởng đưa đến sự bất an, bất cần (thờ ơ), thì phủ nhận bằng cách nghĩ rằng việc nầy chưa từng được tồn tại

 Căn cứ theo tâm lý học của Phật giáo, thì việc sử dụng phương pháp nhất tâm chuyên chú sẽ khiến cho con ngườithể đạt đến bộ phận ẩn tối và thâm tàng nhất của tâm linh; công phu thiền định có thể giúp đỡ chúng ta kiểm tra tỉ mỉ tư tưởng của chúng ta, vì thế mà không cần phải sử dụng đến phương thức phòng vệ. 

 Tác dụng nghịch thi (Reaction formation) trong phương thức phòng vệ, thi dụng đối với kẻ chủ nghĩa cấm dục (sinh hoạt khổ hạnh), dùng để tịnh hóa cảm quan nhưng đức Phật đã khiển trách phương pháp nầy, lý do là vì chủ nghĩa cấm dụccon đường cực đoan không có ý nghĩa nào cả. Thăng hoa là điều đã được đức Phật nêu ra để giới thiệu, bởi lẽ dục cầu trung tâm tự ngã có thể được thay thế bằng dục cầu Niết bàn

NHÂN CÁCH VÀ XÃ HỘI 

 Đói khátphản ứng nội tại của sinh lý, dục tánh thì có khuynh hướng sinh lýxã hội, ngoài ra dục vọng quyền lực, khu lực (drive for power), danh vọngđịa vị là quá trình hoạt động xã hội hỗ tương

 Đức Phật tiếp nhận ý nghĩa trọng yếu về sự quan hệ hỗ tương của con ngườihoàn cảnh xã hội

 Đức Phật tán thán rằng luân lý xã hội có thể giúp cho con người kiến lập một quan hệ nhân tế lành mạnh và một lý tưởng xã hội hài hòa. Mục tiêu trị liệu (nhân tâm) của đức Phật đặt trên tâm lý khí chất của cá nhân biến hóa, đức Phật truy tìm tung tích về sự xung đột căn bản của xã hội và đã tri nhận là nó được bắt nguồn từ tham lam, thù hận và vọng tưởng về tự ngã.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7311)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4492)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4539)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7274)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2941)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12173)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3974)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3785)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4171)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3659)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5013)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6632)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 3976)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4089)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5308)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3772)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4507)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3531)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3912)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4377)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5376)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3831)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3916)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3850)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4796)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4494)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4230)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3809)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4610)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4170)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6071)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4581)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4927)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4139)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4791)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5638)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3598)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4011)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4571)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5256)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3123)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4729)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4514)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4262)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4718)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4475)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4581)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7193)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5177)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 4979)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4566)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5586)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5243)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4140)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 5985)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4699)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4852)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5458)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5597)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5790)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant