Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 3 Nhân Cách Tâm Lý Học

20 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 4539)
Chương 3 Nhân Cách Tâm Lý Học

CHƯƠNG III
NHÂN CÁCH TÂM LÝ HỌC

NGHIÊN CỨU VỀ NHÂN CÁCH TÂM LÝ HỌC VÀ NHÂN CÁCH PHẬT GIÁO 

 Đứng trên phương diện tâm lý học tây phương để nói thì nhân cách (personality) là mô thức ổn định hành vi cá thể một cách độc đặc, đồng thời sử dụng tư tưởng, cảm giác, tri giác làm cơ sở để thích ứng với hoàn cảnh. Khi nhà tâm lý học nghiên cứu về nhân cách thường chú ý đến đặc chất của cá thể, hình thể của thân thể, thế lực của tiềm ý thức, quá trình tri nhận và các loại xã hội học tập v. v… vì những nhân tố nầy đều là những nhân tố có thể ảnh hưởng đến hành vi của nhân loại

 Tâm lý học hoặc tâm lý phân tích học (Psychoanalysis) của Sigmund Freud cho rằng có ba loại tầng thứ tâm lý, đó là hình thành nhân cách tức ý thức, tiền ý thức (preconsciousness) và tiềm ý thức. Nội dung của ba tần thức nầy dựa theo sự kết hợp của ba sinh vật và thế lực hoàn cảnh mà hình thành ba loại hệ thống tâm lý, tức bản ngã (id), tự ngã (ego) và siêu việt (superego). Học thuyết của Sigmund Freud chủ trương “Tánh” là hạch tâm của động cơ nhân loại. Theo Sigmund Freud thì “Tánh” trong xã hội văn minh thường do các loại áp lực của xã hội và thật khó để có thể được thỏa mãn, bởi vậy mà biến thành nhân tố chủ yếu làm ảnh hưởng đến nhân cách. Nhân cách tùy thuộc vào sự phát triển của tánh mà phát triển, vì thế nên có từng giai đoạn phát triển như khẩu khang kỳ, giang môn kỳ, tánh khí kỳ, tiềm phục kỳ và sanh thực kỳ. 

 Từ đó về sau, bao nhiêu học thuyết, lý luận về nhân cách đều phát nguồn từ học thuyết của Sigmund Freud và được tu chỉnh thêm, và được gọi là “học phái mới Sigmund Freud” (Neo Freudian School). Cuối năm 1930 đến đầu năm 1950, có rất nhiều học sinh của Sigmund Freud đã phát biểu về những kiến giảilý luận về tâm lý phân tích học. Trong đó học đã sử dụng phái Phân Tích Tâm Lý Học (như Carl Jung chủ trương) để nhấn mạnh nhân cách là sự thăng bằng của thế lực ý thức và tiềm ý thức. Phái Cá Nhân Tâm Lý Học (như chủ trương của Alfred Adler) thì cho là vai trò (role) và sự quan hệ của xã hội hình thành nhân cách. Học thuyết Tâm Lý Nhân Tánh (Humanistic theory) tức những vị như Carl Rogers và A. Maslow thì nhấn mạnh rằng nhân cách là tánh độc đặc và kinh nghiệm sinh hoạt đặc thù của cá thể. Lý Luận Học Tập Xã Hội (như B. F. Skinner) thì chú trọng đến thế lực của hoàn cảnh đối với sự ảnh hưởng của nhân cách, cá thể sử dụng phương thức mô phỏng cộng thêm tác dụng tri nhận để cá thể học tập về hành vi. Và còn có một số lý luận khác về nhân cách đã rất chú trọng về kinh nghiệm chủ quan v. v… 

 Phật giáo đối với sự giải thích về nhân cách đã có sự bao hàm của triết học tánh, luân lý tánh và tâm lý tánh. Phật giáo phủ định con người vốn có tự ngã thuần túy cố định (ego) vì nó chỉ là nhân duyên hòa hợp. Do sự quan hệ của nhân duyên hòa hợp mà mỗi con người đều có ý thức, ký ức và thuộc tánh của thân thể để có thể phân biệt Ta, Người (chủ thể, khách thể). Phật giáo tiếp nhận quan điểm cho rằng con người có một nhân cách động thái, giả hợp biến động bất thường, nhân cách chỉ là một loại danh tự của phương tiện được sử dụng để phân biệt giữa Người và Ta mà thôi. Đứng trên Luận Lý Học để nói thì nhân cách nầy có thể là lý tánh và phi lý tánh nhưng chịu trách nhiệm về hành động của chính mình. Ngay trên phương diện của Tâm Lý Học để giải thích thì rất có ý nghĩa, bởi vì nhân cách có ký ức, tư tưởng, cảm giác để thông cấu với người khác. 

 Phân tích một cách nghiêm chỉnh về tâm lý học thì, nhân cách cũng chỉ là một phương tiện giả danh, bởi nó biểu thị cho một loại công năng thống nhất nào đó (unity of function) – như đi, đứng, tri giác, tư tưởng, quyết định v.v… giống như chiếc xe ngựa, do sự kết hợp toàn thể của các bộ phận mới có thể gọi là xe ngựa được; Nhân cách cũng thế, do thân thể, cảm giác, ý thức và tính hướng v. v… tổ hợp mà thành và như thế mới có thể gọi là nhân cách. Tóm lại, nhân cách là một loại thống nhất thể của công năng, chỉ có giả danh của tánh tạm thời. Nhân cách không thể đơn độc tiêu biểu cho thân thể, tri giác, cảm giác mà chỉ có trong sự tổ hợp thích đáng mới có thể được gọi là nhân cách. Sự giải thích này hoàn toàn có sự phù hợp cùng với Phật giáo

ĐẶC CHẤT VÀ LOẠI HÌNH NHÂN CÁCH 

 Đặc chất nhân cách (Persoanlity traits) là nói đến tính đặc sẵn có nơi mỗi nhân cách cá thể, loại đặc sắc nầy có thể xác nhận được. Loại hình nhân cách (Personality types) là chỉ cho sở hữu nhân cách; loại hình đều có thể quy loại thành rất nhiều hình thức cơ bản. 

 Trong Tăng Chi Bộ A Hàm Kinh (Anguttara Nikaya), chúng ta có thể phát hiện bốn loại đặc sắc của nhân cách, tức là những loại hình như Mỹ Đức (Virtue), Thành Thực (Integrity), Cương Nghị (Fortitude) và Trí Huệ v.v… 

 Do sự cư ngụ cố cựu lâu dài tại một nơi chốn mà có thể biết rằng trên phương diện đạo đức của người thường trú này là tốt hoặc có khuyết điểm, điều đó cũng có nghĩa bảo rằng có thể nhận xét rõ là ông ta có đạo đức tốt đẹp hay không; xử lý sự vật với người khác khiến có thể nhận thấy rõ ràng họ là người không thành thật; trong những khi nguy hiểm giáng xuống hoặc bất hạnh đã xảy đến thì có thể đoán định được trình độ cương nghị của một con người; giao đàm với người thì có thể tri nhận được là họ có trí huệ hay không. 

 Sự phân loại đặc chất nhân cách chủ yếu của Phật giáo là nhắm vào xích lộ luân lýtâm lý để đo lường. 

 Kinh Phật (Visuddhimagga) cũng đã chia nhân cách làm 6 loại hình lớn, đó là tham lam (tham), ghét hận (sân), vọng tưởng (si), trung thực, thông minh (huệ) và tản mạn. 

XUNG ĐỘT VÀ TỎA CHIẾT (NGĂN TRỞ THẤT BẠI) (CONFLICT AND FRUSTRATION) 

 Xung đột cũng tức là hai cái hoặc hai mục tiêu (goals) hoặc nhu yếu (needs) đưa dẫn đến tình cảnh bất an khi không thể tương dung lẫn nhau. Xung đột có thê/ chia làm ba loại, đó là chánh-chánh xung đột (approach-approach conflict), tức loại xung đột khi muốn lấy một trong hai mục tiêu của nghĩ muốn; Phụ-phụ xung đột (Avoidance-avoidance conflict) là hai mục tiêu đều không nghĩ muốn, xung đột xảy ra khi muốn lấy một; Chánh-phụ xung đột (Approach-avoidance conflict) là loại xung đột của một mục tiêu mà có hai loại thành phần chánh phụ trong ấy (ví dụ như, một người đàn bà đẹp nhưng mang nhiều bệnh tật). Giải quyết sự xung đột đương nhiên liên hệ đến nhân tố quyết định của nó và khoảng cách xa gần của mục tiêu, động cơ cá nhân, cường độ nhu yếu cá nhân, hạ quyết tâm, thời gian tính, kỳ vọng cá nhân v.v… 

 Sự trắc trở, thất bại đối với những quyết định hoặc muốn đạt đến mục đích nhưng phải chịu sự trở ngại giữa đường. Cũng có sự trắc trở bởi hoàn cảnh như người nhà bị chết; có những trắc trở bởi yếu tố thể chất, như quá thấp lùn sinh ra tướng tá xấu xí khó coi; có nhân tố xã hội như ly hôn, thất nghiệp v.v… 

 Phương thức đối phó với sự trắc trở, thất bại gồm có công kích (gián tiếp công kích và trực tiếp công kích), ảo tưởng và co rút (tỉ như, đàn bà xấu xí gặp phải nhiều trắc trở thất bại, có ảo tưởng mình là tài tử Elizabeth Taylor, và trở về với những hành vi trẻ con – như khóc lóc ồn ào, lạnh lùng và tiêu trầm v.v…) 

 Đức Phật dạy rằng trên cơ bản, sự xung độtbình an, thanh tịnh có thể kiểm nghiệm từ hai tầng thứ : Niết bàn (Nirvanà) là thanh tịnh, hài hòa một cách tuyệt đối; còn đau khổ (dukkha) thì dẫy đầy sự bất an, khẩn trương và xung đột. Giữa sự hài hòa (mục tiêu truy cầu lý tưởng của người tại gia) và thanh tịnh tuyệt đối (là lý tưởng truy cầu của người xuất gia) cũng có rất nhiều khác biệt. Người tại gia chánh trực nếu tuân theo thủ đoạn hợp pháp để làm giàu, không tham lam thì có công đức và hơn nữa có thể đạt được sự hài hòa; nếu người tại gia khởi lên tâm tham lam, khát cầu sự hưởng thụ quá độ thì chắc chắn là bị xung đột với người khác. Người xuất gia vì xả bỏ tất cả, không những có khả năng giải trừ đau khổ mà hơn nữa còn có thể truy tầm sự thanh tịnh cao nhất trong nội tâm của họ. 

 Phật giáo cho rằng khu lực (drive) mạnh mẽ truy cầu thỏa mãn cảm quan, truy cầu sự tân kỳ, hưng phấn, vật sở hữu, đều là máy phát điện của sự xung đột

 Phật giáo giải thích về những trắc trở, thất bại rằng là : khoái lạc và kích thích một khi cái mà chúng ta truy tầm kết quả biến thành rỗng tuếch thì sanh ra trắc trở, thất bại nặng nề. Loại trắc trở thất bại sâu nặng hơn nầy không tức khắc xuất hiện qua tri giác toàn diện giống như sự trắc trở thất bại khi mất đi mục tiêu đặc biệt

 Ngoài sự trắc trở vì truy cầu thỏa mãn cảm quan đã gây nên, Phật giáo còn đề ra sự xung đột tâm lý của tự ngã bảo tồn (cảm quan, quyền lực, địa vị, danh vọng), một người có khu lực quyền lực mạnh mẽ thì sự xung đột tâm lý cũng to lớn và sự trắc trở, cảm giác trở ngại cũng tương đối to lớn. Khi cảm giác trắc trở lên đến cao điểm là không thể tiếp nhận thì con người hiển nhiên lập tức gặp một loại hiện tương hy hữu đó là dục vọng và khát vọng muốn hủy diệt tự ngã. 

 Vì thế, sự xung độttâm lý học Phật giáo đã đề cập như phân tích động cơ căn nguyên dục cầu truy cầu thỏa mãn cảm quan, bảo tồn tự ngã, hủy diệt tự ngã và tham lam, ghét hận v.v… cùng với tâm lý học hiện đại tương đối có điểm tương thông. 

PHƯƠNG THỨC PHÒNG VỆ (DEFENSE MECHANISM) 

 Phương thức phòng vệ là tinh tâm kiệt tác của Sigmund Freud và Anna, con gái của ông; phương thức nầy nói về quá trình nhân loại lợi dụng tiềm ý thức nên đối với sự liễu giải chân thật đã bị bóp méo, thay đổi và cải biến, nhất là khi chân thậtcảm giác tội lỗi (feelings of guilt), kinh nghiệm bi thương, xung động, không thể tiếp nhận, thất ý, và khi những sự việc khác có liên quan dẫn khởi một cách khẩn trương. 

 Tuy nhiên, phương thức phòng vệ đã không có biện pháp duy hộ của áp lực tâm lý cá thể, vì thế cũng có thể nói đó là một loại dối lừa tự ngã và trục trặc tự ngã (self-deceptive and self-defeating), không có biện pháp nào có thể giải quyết sự áp lực của tâm lý, bởi vì quá trình của phương thức phòng vệ phát sinh ngay trong tầng thứ tiềm ý thức, con người sử dụng nó làm bình phong và nơi nương tựa kiên cố lớn lao mỗi khi phát sinh nóng nảy, lo lắng, bất an và đã không cảm thấy đó là một thứ thủ đoạn của sự thật bị bẽ cong bóp méo; lý do là trong sự sinh hoạt của mỗi một con người đều sẽ gặp phải những tình cảnh bấtan như tội ác, sợ sệt khủng hoảng, bất an, mục tiêu bị trở ngại v.v… vì thế, dường như mỗi cá nhân đều sẽ lợi dụng phương thức phòng vệ để bảo hộ chính mình. 

 Những phương thức phòng vệ gồm có

Áp chế (regression), mục đích là khiến cho đau khổ, tư tưởng của tánh uy hiếp, cảm giác, ký ức và quá trình ảo tưởng không tiến vào được trong ý thức hoặc tri giác cá thể

Hợp lý hóa (Rationalization) là ý đồ tìm kiếm lý do hợp lý để thay thế thất vọng, nói một cách khác, tìm lý lẽ không thực để thay thế lý do chân chính. Ví như một học sinh gian lận trong việc thi cử thì thường biện hộhọc sinh nào mà chẳng gian lận; một cô gái không được mời tham dự dạ hội thì bào chữa căn bản là cô ấy đã không bằng lòng chấp nhận lời mời

Đầu Xạ (Projection) là sự đổ thừa nơi người khác, tất cả đều diễn giải rằng đó là sự sai lầm của người khác. 

Tác dụng nghịch thi (reaction formation) là sự kinh hãi đối với xung động và tư tưởng, không những chỉ cố gắng ép chế mà còn phát triển một thái độ mô thức và hành vi hoàn toàn tương phản để che đậy động cơ và hành vi chân chính của tiềm ý thức ấy, trường hợp như một người có tánh nóng nảy bức xúc, lo lắng, bất an có thể xin vào viện thần học để chuẩn bị làm mục sư hoặc nữ tu chẳng hạn. 

Đồng Nhận (Identification), sự nhận quàng quen biết này là vì bảo vệ giá trị cảm nhận của chính mình, cá thể thường đưa ra những bình luận chung chung với một số nhân vật có danh vọng hoặc oai quyền, như Tổng Thống Mỹ Carter là bạn thân của tôi v.v… 

Thăng hoa (Sublimation), là mục tiêu hoạt động lợi dụng xã hội có thể chấp nhận nhằm thỏa mãn động cơ áp chế của xã hội ấy, chẳng hạn như làm một kiểm tra viên điện ảnh để có thể xem phim X mà không cảm thấymặc cảm tội lỗi
Phủ nhận hiện thực (denial of reality) là những gì không vui hoặc tư tưởng đưa đến sự bất an, bất cần (thờ ơ), thì phủ nhận bằng cách nghĩ rằng việc nầy chưa từng được tồn tại

 Căn cứ theo tâm lý học của Phật giáo, thì việc sử dụng phương pháp nhất tâm chuyên chú sẽ khiến cho con ngườithể đạt đến bộ phận ẩn tối và thâm tàng nhất của tâm linh; công phu thiền định có thể giúp đỡ chúng ta kiểm tra tỉ mỉ tư tưởng của chúng ta, vì thế mà không cần phải sử dụng đến phương thức phòng vệ. 

 Tác dụng nghịch thi (Reaction formation) trong phương thức phòng vệ, thi dụng đối với kẻ chủ nghĩa cấm dục (sinh hoạt khổ hạnh), dùng để tịnh hóa cảm quan nhưng đức Phật đã khiển trách phương pháp nầy, lý do là vì chủ nghĩa cấm dụccon đường cực đoan không có ý nghĩa nào cả. Thăng hoa là điều đã được đức Phật nêu ra để giới thiệu, bởi lẽ dục cầu trung tâm tự ngã có thể được thay thế bằng dục cầu Niết bàn

NHÂN CÁCH VÀ XÃ HỘI 

 Đói khátphản ứng nội tại của sinh lý, dục tánh thì có khuynh hướng sinh lýxã hội, ngoài ra dục vọng quyền lực, khu lực (drive for power), danh vọngđịa vị là quá trình hoạt động xã hội hỗ tương

 Đức Phật tiếp nhận ý nghĩa trọng yếu về sự quan hệ hỗ tương của con ngườihoàn cảnh xã hội

 Đức Phật tán thán rằng luân lý xã hội có thể giúp cho con người kiến lập một quan hệ nhân tế lành mạnh và một lý tưởng xã hội hài hòa. Mục tiêu trị liệu (nhân tâm) của đức Phật đặt trên tâm lý khí chất của cá nhân biến hóa, đức Phật truy tìm tung tích về sự xung đột căn bản của xã hội và đã tri nhận là nó được bắt nguồn từ tham lam, thù hận và vọng tưởng về tự ngã.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3232)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4487)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2679)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5098)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3741)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3790)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3148)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4027)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 4950)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3454)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6610)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3911)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3147)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3056)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2891)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5773)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4546)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3434)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2826)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3236)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4354)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5596)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6524)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3632)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4466)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4508)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3912)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3338)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4492)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 5932)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5757)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3567)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4599)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4391)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4446)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4196)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4516)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8096)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3862)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5643)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5092)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6721)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6103)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 5872)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5657)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6137)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6658)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4876)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5458)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6273)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3687)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5299)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10345)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 5980)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
(Xem: 9193)
Bốn cấp độ thiền định hay tứ thiền là bốn mức thiền khi hành giả thực hành thiền có thể đạt được.
(Xem: 6285)
Một bào thai sở dĩ có mặt trên cuộc đời này ngoài yếu tố chính là do cha mẹ sinh ra, còn là kết quả của một tiến trình không đơn giản.
(Xem: 5854)
Đạo Phật là nguồn sống và lẽ sống của con người, là cương lĩnh cho nhân thế. Với sứ mạng thiêng liêng cao đẹp ấy, đạo Phật không xa lìa thực thể khổ đau của con người.
(Xem: 7332)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc
(Xem: 7166)
Người ta thường nói đạo Phật là đạo của từ bitrí tuệ. Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu khôngtừ bi thì không có đạo Phật.
(Xem: 5074)
Các nhà khảo cổ đang nghiên cứu tại Nepal đã phát hiện bằng chứng về một kiến trúc tại nơi sinh ra Đức Phật có niên đại thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant