Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chữ Nghiệp Trong Đạo Bụt

18 Tháng Tư 201100:00(Xem: 4489)
Chữ Nghiệp Trong Đạo Bụt

CON ĐÃ CÓ ĐƯỜNG ĐI
Thích Nhất Hạnh
Nhà xuất bản Phương Đông 2010

Chữ Nghiệp trong đạo Bụt

 

Trong đạo Bụt, nghiệp gồm có: ý nghiệp, khẩu nghiệpthân nghiệp. Khi ta có một tư duy, một ý nghĩ, một tư tưởng đầy tha thứ bao dung thì gọi là thiện ý nghiệp. Lúc ấy ta đang tạo một cái nghiệp về lòng từ bi. Chỉ riêng ý nghiệp lành thôi cũng đã đủ mạnh rồi, chưa cần nói lời ái ngữ, hành động dễ thương thì mình đã đang tự chữa lành cho mình, cho gia đình, cho đất nước và cho thế giới.

Nghiệp có nghiệp chung và nghiệp riêng. Ví dụ chúng ta cùng đến Làng Mai tu tập với nhaunghiệp chung, vì chúng ta có ước muốn giống nhau là muốn được tu tậpchuyển hóa. Cái nghiệp chung được làm bằng những nghiệp riêng, và cái nghiệp riêng tạo thành nghiệp chung. Nghiệp chung và nghiệp riêng tương tức với nhau. Bụt xác định ta có tự do ý chí, có khả năng chuyển nghiệp. Năng lượng chánh niệm có thể giúp mình chuyển nghiệp. Ban đầu, chúng tacảm tưởng ta là một nạn nhân của cái màng lưới nghiệp. Nhưng nếu biết sử dụng chánh niệm, chánh địnhchánh kiến thì ta có thể bắt đầu thay đổi. Cần biết là có thể có thêm yếu tố tình cờ, nhưng không nhiều. Hành động trên cái “ một ” có tác động trên cái “ tất cả ” và cái “ tất cả ” có tác động trên cái “ một ”. Ví dụ, khi mỉm được một nụ cười thì mình khoẻ mà thế giới cũng nhờ đó mà được khoẻ. Mình có chánh niệmchánh kiến thì hành động mới đưa tới giảm thiểu khổ đau và kiến tạo an lạc.

Bụt ân cần dạy dỗ mình phải ráng tập chánh tư duy, nhưng ta chỉ có thể tư duy đầy từ bi khi mình thấy mình trong người đó. Nếu chỉ thấy người đó là một người khó chịu, dữ dằn thì sao mà mình từ bi được? Thành ra phải thấy mình với người đó là một, mình có ở trong người đó, “tam luân không tịch”. Mình với người đó không khác. Giống như tay trái với tay phải, mình là một thực thể với người đó. Khi thấy được như vậy thì mình mới tha thứ, mình mới nghĩ đầy từ bi, đầy thương yêu đối với người đó được. Còn nếu thấy người ta dữ như quỷ, còn mình thì đẹp đẽ như thánh thần, thì chẳng thể nào mà thương được. Cái nhìn nhị nguyên đó không phải là cách nhìn của một người học đạo Bụt, không phải là cách nhìn của một người hành theo con đường Bụt dạy. Phải đi về hướng hiểu và thương, đó là hướng đi của một người tỉnh thức. Điều này không ai ép mình được, nếu bị ép thì không thể thành công. Mình phải thấy được mình là người đó với những khó khăn với những khổ đau. Thấy được thì thương liền, không cần phải cố gắng gì hết.

Điều này không khó, quý vị hãy thử làm đi. Nghĩ tới những người không dễ thương nhất trong cuộc đời mình, và cứ thương. Hãy tập thấy mình với người đó là một, tập nhìn người đó với những khó khăn của người đó; với những khổ đau, dằn vặt của người đó, lúc ấy tình thương sẽ tới một cách rất tự nhiên. Nhờ có tình thương nên những tư duy, hành động, nói năng của mình sẽ rất tự nhiên đi về hướng từ bi mà không cần phải cố gắng và mình không còn buồn bã, u sầu, héo hắt nữa vì mình là người hiến tặng thương cho sự sống.

Hãy tư duy về sự tương tức, sở dĩ người đó như vậy nên mình mới như vậy, người đó hành xử như thế này nên mình mới vụng về như thế kia. Có được tư duy tương tức, tương nhập ấy thì mình mới có thể chấm dứt giận hờn, mở lòng ra tha thứ được; mới nói lời ái ngữ được. Lúc này những lời nói thân ái của mình được thốt ra một cách rất tự nhiên mà không gượng ép, không dối lòng. Như vậy là mình đang tạo dựng những nghiệp lành. Khi nói tới nghiệp người Việt mình thường cho rằng đó là những quả báo xấu. Nhưng không phải như vậy. Nghiệp là những thói quen, mà thói quen thì có thói quen tốt và thói quen xấu. Khi nghĩ những điều lành (cảm thông, thương yêu, tha thứ…) tức là mình đang tạo ra ý nghiệp lành. Khi mình nói những lời dễ thương, đem lại sự tự tin, an vui và hy vọng cho người khác tức là mình đang tạo khẩu nghiệp lành. Khi mình làm những việc tốt, mang lợi lạc tới cho những người xung quanh tức là mình đang tạo thân nghiệp lành. Nếu chỉ chế tác toàn ý nghiệp, thân nghiệp, khẩu nghiệp đi về hướng thiện thì nghiệp báo của mình rất đẹp. Nhờ những nghiệp lành đó nên mình được sinh ra trong cõi bình an, được gặp và thân cận với những bậc thiện tri thức. Còn nếu mình suy nghĩ điều ác; nói lời thô tục, dữ dằn; làm những việc gây khổ đau cho người khác thì mình sẽ phải hứng chịu quả báo xấu. Mỗi lời nói, mỗi hành động, mỗi tư duy một khi đã phát khởi thì lập tức tác thành quả báo dù rằng mình không nói ra, dù rằng không ai biết nhưng mình lãnh nhận quả báo rất đương nhiên. Quả báo lành hay quả báo dữ tùy theo nhân lành hay nhân dữ mà mình đã gieo trồng.

Nếu lắng nghe và hành theo lời Bụt dạy thì ta sẽ kiến tạo được những quả báo đẹp đẽ. Hồi nhỏ, khi học về y báochánh báo tôi hiểu rất mù mờ, chỉ hiểu trên bề mặt danh từ. Nhưng càng thiền quán tôi lại càng thấy rõ ràng rằng tư duy, lời nói, hành động của mình có hai phần rõ rệt, đó là y báochánh báo:

Chánh báobản thân mình, tức là dáng người, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, các bộ phận cơ thể, khối óc, tư duy, trình độ học vấn ...

Y báo: là môi trường xung quanh như mình sinh ra trong gia đình đó, xã hội đó, đất nước đó, địa cầu đó…

Chiếc lá xanh vừa mới sinh ra trên cành cây vào mùa xuân là một biểu hiện mới của cái lá, đó là chánh báo của cái lá. Còn những thứ xung quanh như cái cây, nước, đất, không khí, mưa… là y báo của chiếc lá. Bạn cũng vậy, bạn có thân thể này, mang cái tên này nhưng đó chỉ là tên tạm thôi, đừng tưởng đó là tên thật. Với những điều kiện đó thì mình mang cái tên đó, nhưng phải biết rằng trong cái tên này có cả ba mẹ, ông bà, tổ tiên chứ không phải cái tên nằm riêng độc lập đâu. Cho nên mình là chánh báo của mình mà cũng chính là y báo của mình. Đừng có nói rằng “Tôi là cái thân thể này, mẹ tôi sinh ra tôi làm chi, để tôi phải khổ, ghét quá” hay là “Sao tôi không sinh ra trong gia đình tử tế hơn, mà lại sinh ra trong gia đình này, ai cũng dữ dằn, làm khổ nhau”… Đó là tại vì mình cũng dữ dằn, mình cũng hành xử không dễ thương nên kết quả mới sinh vào gia đình không dễ thương. Thành ra mình chính là môi trường của mình. Đó là một sự thật không thể chối cãi được. Điều này mình phải xác thực bằng chính mình, phải quan sát và nghĩ xem có đúng hay không.

Nhà xuất bản Parallax ở Mỹ đã phát hành một cuốn sách của tôi với tựa đề “The World We Have” (Thế giớichúng ta đang có). Chúng ta chỉ có một thế giới này để sống thôi. Tựa đề của cuốn sách được nhà xuất bản lựa chọn. Có người nói rằng nên để “The World We Are” tức là “Thế giới mà chúng ta là” thì đúng hơn. Vì khi nghĩ rằng “đang có” có nghĩa là mình riêng và thế giới riêng, còn “thế giới mà chúng ta là” có nghĩa là mình vừa là chánh báo, vừa là y báo. Vì vậy tôi muốn các bạn hãy để vài phút thiền quán thật sâu, không những mình gửi tình thương tới cho người làm khổ mình, để có những tư duy rất từ bi đối với người đó, mà còn viết thư cho người đó, điện thoại cho người đó. Trước hết nên nói chuyện với người đó trong tâm của mình, đối xử với thân và tâm mình cho đàng hoàng. Quý vị phải hứa với y báo của mình, tức là môi trường của mình rằng mình phải sống làm sao cho xứng đáng với môi trường mà mình đang sống. Quý vị phải nuôi dưỡng địa cầu, nuôi dưỡng môi trường sống. Từ hôm nay, khi mà quý vị đi, quý vị nhìn mọi sự vật như là mình, bụi tre đó là mình, không khí đó là mình, mây đó là mình, cây này là mình, và mình phải có trách nhiệm che chở, gìn giữ.

Lộc Uyển, quý thầy, quý sư cô có thể làm ra điện từ năng lượng mặt trời để sử dụng, họ không cần điện của thành phố. Các thầy các sư cô lấy năng lượng mặt trời ở California để dùng điện thoại, máy tính, đèn điện trong các phòng, có khi còn dư điện để tặng lại thành phố nữa. Họ cũng có những ngày không sử dụng xe hơi để tránh làm ô nhiễm bầu khí quyển. Họ tìm được những loại xe hơi chạy bằng dầu cặn, tức là dầu thực vật sau khi chiên xào thải ra và đem đi lọc rồi dùng thay xăng. Mỗi tuần ở các tu viện của Làng Mai chúng tôi có một ngày không sử dụng xe hơi. Nhiều bạn thiền sinh tới đây tu tập cũng bắt chước chúng tôi, hứa rằng trong tuần cũng thực tập một ngày không sử dụng xe và họ cũng bắt đầu tập ăn chay 15 ngày trong tháng hoặc giảm 50% lượng thức ăn động vật trong mỗi bữa ăn. Họ làm như vậy chẳng phải là để được lòng của Bụt, tại vì phần lớn họ là người theo Thiên Chúa giáo, mà họ làm như vậy là có lợi cho chính họ.

Mình là chánh báo nhưng cũng là y báo. Mà y báoquả địa cầu này nên ta chăm sóc cho quả địa cầu cũng chính là chăm sóc mình. Trong khi súc miệng, rửa mặt có nhiều người cứ để cho nước chảy tràn lan. Nhiều khi rửa một cái ly mà mình mở vòi nước quá mạnh. Rồi đang rửa lại bỏ đấy đi lấy cái ly khác để cho nước chảy ròng rất là uổng phí. Đừng nghĩ rằng nước rẻ, đừng nghĩ rằng mình trả tiền thì mình có quyền sử dụng thoải mái. Nước cũng là tài nguyên của địa cầu, phí phạm nước là phí phạm tài nguyên của địa cầu. Để có được những giọt nước trong lành ấy phải mất công sức của biết bao nhiêu người, bao nhiêu tài nguyên khác góp vào như: điện, xăng, dầu, gang, thép…

Chỉ cần nhận ra điều này rồi thực tập tiết kiệm lại mọi thứ: điện, nước, đồ ăn… là đã làm một hành động thương yêu đích thực rồi. Đi ra khỏi phòng phải tắt đèn, đó là thực tập yêu thương. Hãy mời Bụt biểu hiện trong mình bằng những hành động chánh niệm, tư duy chánh niệm, sử dụng chánh niệm. Đừng tìm Bụt ở ngoài, Bụt ở trong mình. Chánh niệm chính là Bụt. Bụt thì đi đứng rất đàng hoàng, ngồi rất đàng hoàng, hành xử rất đúng mực.

Cứ mùa hè đến, tại Làng Mai mỗi tuần có một ngàn người tới tu tập trong suốt bảy ngày. Trong bốn tuần lễ, bốn ngàn người đó không ăn thịt, cá, trứng, sữa. Thành ra trong một tháng có biết bao nhiêu con gà, con bò, con lợn được cứu sống. Không ăn trứng thì người ta sẽ hạn chế chăn nuôi mà hạn chế chăn nuôi thì sẽ giảm thiểu được các chất thải (phân của gia súc gia cầm), một nguyên nhân của hiện tượng hiệu ứng nhà kính, hâm nóng địa cầu.

Vì vậy trong một tuần, mình có năm ngày đi làm, một ngày cuối tuần đi mua sắm và ngày còn lại không sử dụng xe thì cũng không sao hết, mà đó là một hành động rất từ bi.

Chúng ta phải biết nghĩ tới các thế hệ con cháu của ta. Đừng để đến lúc con cháu ta không còn không khí để thở, không còn điện để dùng, không còn nước để uống. Như vậy là mình đã đoạn tuyệt sự sống của con cháu mình. Mà con cháu mình chính là mình đó. Thành ra sử dụng các nguồn tài nguyên một cách chánh niệm tức là mình che chở cho địa cầu.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1658)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1626)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1033)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1512)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1491)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1676)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1942)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1525)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1353)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1371)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1549)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1143)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1264)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1276)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1696)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1641)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3003)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1824)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1365)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1220)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1278)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1408)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1323)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1920)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1682)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1891)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1822)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2391)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1785)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2128)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2208)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2302)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1855)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1977)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2031)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1957)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2595)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1947)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1885)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1944)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1897)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2167)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2301)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1981)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2087)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1886)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1904)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2410)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2322)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3996)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2481)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3197)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2471)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2046)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1797)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3305)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2345)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3030)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2702)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant