Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Đức Nhuận

13 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 14024)
Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Đức Nhuận


TIỂU SỬ

HOÀ THƯỢNG THÍCH ĐỨC NHUẬN

blank

THÂN THẾ:

Thiền sư THÍCH ĐỨC NHUẬN pháp danh Trí Tạng, thế danh Đồng Văn Kha, sinh ngày 14 tháng chạp năm Quý Hợi (thứ 7 ngày 19 tháng giêng năm 1924).

Chánh quán: làng Lạc Chánh, xã Duyên Bình, huyện Trực Ninh, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định.

Thân phụ là Đồng Văn Xuân và thân mẫu là bà chính thất Hà Thị Thìn hiệu Trinh Thục (cả hai vị đều đã mãn phần).

Ngài là con thứ tư trong một gia đình thanh bần- dòng quý tộc. Ngài có 2 anh, 1 chị và 3 người em dì bào (2 trai, 1 gái).

XUẤT GIA:

Ngài xuất gia năm 1937, Y chỉ sưHoà thượng thượng TÂM hạTHƯỞNG, trụ trì chùa làng LIÊU HẢI, phủ Nghĩa Hưng, thuộc sơn môn Phú Ninh( Nam Định)

Năm 1941 thụ Sa di giới tại chùa Cổ Lễ, huyện Trực Ninh. 

Năm 1942 thụ Đại giới Tỳ Khưu tại giới đàn Tổ đình Phú Ninh.

Đã học tại các Tùng Lâm:

Tổ đình Phú Ninh

Phật học viện chùa Cồn (Nam Định)

Tổ đình Tế Xuyên (Hà Nam)

Phật học viện Báo Quốc (Huế)

Phật học đường Ấn Quang (Sài Gòn)

ĐẠO NGHIỆP:

Năm 1949, chính thức hoạt động phật sự với chức vụ phó chủ tịch Hội Phật Giáo Nam Định ( Miền Xuân Trường Hải Hậu), chủ tịch là Hoà Thượng THÍCH TRUNG QUÁN, trụ trì chùa làng Quần Thượng ( Hải Hậu) và cuối năm 1950, xin từ chức trở về sống nếp sống của một tăng sĩ, tiếp tục sự nghiệp học vấn và nghiên cứu Phật học.

Đầu năm 1954 vào Nam sống cuộc đời tĩnh tu.

Năm 1956-1957, được sự tín nhiệm của chư tăng cử giữ chức chủ tịch ( trị sự trưởng) Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt tại Miền Nam (GHTGVN).

Năm 1959-61, giữ chức uỷ viên văn hoá Tổng hội Phật giáo Việt Nam.

Năm 1962-63, đảm nhận chức tổng thư ký Giáo hội Tăng Già Việt Nam.

Năm 1963, khởi động phong trào đầu tiên chống chế độ độc tài nhà Ngô (tại Sài Gòn) trong vụ triệt hạ cờ Phật giáođàn áp phật tử tại Huế, nhân mùa Phật đản PL 2507(1963).

Năm 1964-65, giữ chức vụ trưởng vụ kiểm duyệt GHPGVNTN.

Năm 1965-66, chủ nhiệm kiêm chủ bút nguyệt san Vạn Hạnh, tạp chí nghiên cứu, phát huy Văn hóa Phật giáo và văn hoá dân tộc, với sự cộng tác của một số học giả, giáo sư đại học, văn nghệ sĩ tại thủ đô Sài Gòn (tạp chí xuất bản được tròn 2 năm, 24 số)

Năm 1969-73, Giáo sư phân khoa Phật họctriết học Đông Phương Viện Đại học Vạn Hạnh( sau niên khoá đó, vì bận công tác nên đã xin nghỉ dạy).

Năm 1967-73, giữ chức chánh thư ký Viện Tăng Thống, do đức tăng thống THÍCH TỊNH KHIẾT lãnh đạo và là hội viên Hội đồng giá phẩm trung ương GHPGVNTN.

Năm 1969-71, trùng tu tổ đình Giác Minh. Nguyên trụ sở Giáo hội Tăng Già Bắc Việt tại Miền Nam.

Năm 1971-72, chủ bút nguyệt san Hoá Đạo, cơ quan truyền bá chánh phátp của Tổng Vụ Hoằng Pháp GHPGVNTN.

Năm 1975-87, đảm trách trụ trì tổ đình Giác Minh.

Năm 1985-93, bị nhà nước Việt Nam bắt giam với tội danh “tổ chức chống cách mạng”.

Năm 1993 đến nay (1996), tĩnh tu chùa Giác Minh, Sài Gòn.

Hoà thượng vẫn tiếp tục đọc, viết và ưu tư về đường hướng phát triển của Phật giáo Việt Nam.

Năm 1998 Hoà Thượng đã được chính thức suy tôn lên ngôi vị Cố Vấn Ban Chỉ Đạo Viện Hoá Đạo GHPGVNTN.

Ngài đã viết cho các Nhật báo: Thời Luận, Tin Sáng, Dân chủ, Gió Nam, và các tạp chí: Phật giáo Việt Nam, Văn Hoá Á Châu, Liên Hoa, Văn, Vấn Đề, Tư Tưởng…..

Đã diễn thuyết về đề tài Phật giáo và Văn Hoá Dân tộc tại các trường Đại học:

Trường Đại học Văn Khoa Sài Gòn (1959)

Trường Quốc gia Âm nhạc và kịch nghệ Sài Gòn(1963).

Viện Phật Học Vạn Hạnh (1970) và đã đề tựa cùng giới thiệu những tác giảtác phẩmgiá trị về mặt tôn giáovăn học.

TÁC PHẨM ĐÃ IN:

GIÓ THIÊNG (thơ) Vạn Hạnh, 1959

PHẬT HỌC TINH HOA- Một Tổng Hợp Đạo Lý (đã tái bản 4 lần) Vạn Hạnh 1960

CHUYỂN HIỆN ĐẠO PHẬT VÀO THỜI ĐẠI, Vạn Hạnh 1967

TRAO CHO THỜI ĐẠI MỘT NỘI DUNG PHẬT CHẤT (sách đã dịch ra Anh ngữ, Vạn Hạnh 1969)

 SỨ MỆNH NGƯỜI PHẬT TỬ ĐỐI VỚI DÂN TỘC VÀ ĐẠO PHÁP

KIẾN THIẾT VĂN MINH PHẬT GIÁO

ĐẠO PHẬT VÀ DÒNG SỦ VIỆT

( ba tác phẩm này do Viện Triết Lý Việt NamTriết Học Thế Giới tại California, USA ấn hành 1995-1996) và tái bản tại Sài Gòn năm 1997.

THƠ: Sáng một niềm tin ( dịch và sáng tác từ năm 1975 đến nay), viện Triết Lý Việt NamTriết Học Thế Giới tại California, U.S.A ấn hành 1999.

HƯỚNG ĐI CỦA THỜI ĐẠI, Viện Triết Lý và Triết Học Thế giới tại California, U.S.A ấn hành 2001.

DỊCH KINH:

- NHỮNG ĐIỀU PHẬT DẠY- Phật Thuyết Tứ Thập Nhị Chương.

-LỜI DẠY CUỐI CÙNG CỦA ĐỨC PHẬT- Thùy Bát Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh.

(cả hai tác phẩm trên nguyên văn chữ Hán trích trong “Thánh Điển Yếu Tập” chùa Giác Minh ấn tống 1980-1995, ký tên: Thái Không).

KHÁI NIỆM TRIẾT LÝ KINH HOA NGHIÊM, Viện Triết Lý Việt NamTriết học Thế Giới tại California, U.S.A ấn hành 1999.

Vào những năm cuối cuộc đời, chư Tăngtín đồ chúng theo học hỏi trực tiếp với ngài rất đông.

Vào ngày mồng 8 tháng chạp năm Tân Tỵ (2001), Hoà Thượng cảm thấy pháp thể khiếm an, mặc dù được các hàng đệ tử, các bác sĩ tại Bệnh Viện Đại Học Y Dược tận tình chăm sóc chữa trị, nhưng vì tuổi cao sứuu yếu, Ngài không qua khỏi và đã an tường xả thân vào lúc 16 giờ 53 phút chiều ngày thứ hai, 21 tháng giêng năm 2002 ( nhằm ngày mùng 9 tháng chạp năm Tân Tỵ) hưởng thọ 79 tuổi, 59 hạ lạp.

 Suốt cuộc đời, từ khi xuất gia hành đạo cho đến lúc viên tịch, Hoà Thượng đã nổ lực không ngừng trong việc xiễn dương đạo Pháp. Cuôc đời Ngài là một tấm gương sáng ngời về đao hạnh và sự nghiệp hoằng hoá cho Tăng ni va Phật tử noi theo. Mặc dù sắc thân của Ngài sẽ mãi mãi là ngọn đuốc soi đường cho Tăng Ni Phật tử Việt Nammai sau.

 

Sabba pàpassa akaranam
Kusalassa upasampada
Sacitta pariyodapamam
Etam Buddhâna sâsanam.
Dhammapada XIV, 5

Chấm dứt mọi việc ác
Thực hiện những điều lành
Giữ tâm ý trong sạch
Ấy lời đức Phật dạy.

“Đừng tin tưởng vào một điều gì vì phong văn. Đừng tin tưởng điều gì vì vin vào một tập quán lưu truyền. Đừng tin tưởng điều gì vì cớ được nhiều người nói đi nhắc lại. Đừng tin tưởng điều gì dù là bút tích của thánh nhân. Đừng tin tưởng điều gì dù thói quen từ lâu khiến ta nhận là điều ấy đúng. Đừng tin tưởng một điều gì do ta tưởng tượng ra lại nghĩ rằng một vị tối linh đã khai thị cho ta. Đừng tin tưởng bất cứ một điều gì chỉ vin vào uy tín của các thầy dạy các người. Nhưng chỉ tin tưởng cái gì mà chính các người đã từng trải, kinh nghiệm và nhận là đúng, có lợi cho mình và kẻ khác. Chỉ có cái đó mới là đích tối hậu thăng hoa cho con ngườicuộc đời. Các người hãy lấy đó làm chỉ chuẩn.”

Anguttara Nikaya


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1615)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1536)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1481)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1068)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1453)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1394)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1306)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1357)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1687)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1900)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1418)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1082)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1414)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 1976)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1445)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1540)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1370)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2833)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1363)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1397)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1700)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1657)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1618)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1456)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2617)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1597)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1596)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1394)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1413)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1597)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1532)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1434)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1411)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1497)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2171)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1526)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1472)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1590)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1814)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1502)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1365)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1643)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1383)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1669)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2346)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1441)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1930)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1655)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1727)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1597)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1922)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1649)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1411)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1710)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1562)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1520)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1308)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1236)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1275)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1507)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant