Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trầm Tư Về Vũ Trụ Xung Quanh Chúng Ta

14 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 14055)
Trầm Tư Về Vũ Trụ Xung Quanh Chúng Ta

TRẦM TƯ VỀ VŨ TRỤ
XUNG QUANH CHÚNG TA

Bài thuyết trình trong khoá An Cư Kiết Hạ tại chùa Bảo Quang của Ni sư Thích Nữ Giới Hương

Năm 2010 này, quý chư Tôn đức vùng Santa Ana cùng Hòa Thượng Trụ Trì Thích Quảng Thanh có tổ chức Khóa Bảy Ngày An Cư Kiết Hạ thời gian từ ngày 19.07.2010 đến ngày 26.07.2010 tại Chùa Bào Quang, Orange County, California. Trong chương trình an cư, mỗi buổi chiều có tiết mục thảo luận Phật Pháp. Con (TKN Giới Hương) được nằm trong danh sách thuyết trình đó với đề tài «Trầm Tư về Vũ Trụ Xung Quanh Chúng ta». Nay con xin phép được tường trình lại buổi pháp thoại đó.

Trước khi vào nội dung, thuyết trình viên đã nêu lên mục đích của đạo Phậtquan tâm đến lợi ích thiết thực mang hạnh phúcsự giải thoát cho con người. Để tránh hí luận, Đức Phật thường ít trả lời những câu hỏi về thế giớivũ trụ quan bên ngoài như những câu hỏi thế giới từ đâu sanh ra, sẽ đi về đâu, hữu biên hay vô biên, thường còn hay không thường còn, vv. Xin kể một câu chuyện để minh họa.

Có một người bị mũi tên độc đâm bị thương. Khi đến phòng mạch thay vì im lặng để bác sĩ cầm máu, băng bó vết thương thì bịnh nhân lại cứ thắc mắc hỏi: «Thưa Bác sĩ mũi tên được sản xuất tại đâu vậy? Ai bắn tôi vậy? Mũi tên làm bằng chất gì? Bề ngang và bề dài của mũi tên rộng bao nhiêu? Mũi tên đã bay xa bao nhiêu mét rồi đâm vào da thịt tôi? Cũng thế, thân người mỏng manh, mạng sống cạn dần, nên lo việc «sanh tử sự đại » trước. Giữ giới, hành thiền và phát tuệ thì sẽ liễu tri nhiều việc bao gồm vũ trụ quan và nhân sinh quan. Tuy nhiên cũng sẽ lợi ích nếu chúng ta tìm hiểu biết được vũ trụ xung quanh chúng ta, đặc biệt với những khám phá của khoa học gần đây. Việc trình bày của thuyết trình viên hôm nay hy vọng như một cái gì đó khởi điểm cho những nghiên cứu sâu sắc hơn nếu chúng ta thấy tâm đắc với đề tài này.

Thuyết trình viên trình bày ba vấn đề như sau:

VẤN ĐỀ THỨ NHẤT về sự hình thành của thế giới.

Theo quan điểm khoa học, cách đây rất lâu có một dị điểm (singularity) vô cùng nóng và đặc. Dị điểm bỗng nổ tung (sanh, trụ, dị, diệt) diệt để rồi tiếp nối đầu mối sanh và biến đổi dần dần thành vũ trụ hiện nay. Khoa học gọi tiếng nổ lớn tạo thành vũ trụ ấy là “Big Bang”[1]. Vì vũ trụ luôn luôn nở rộng làm cho ánh sáng từ các ngôi sao chuyển sang phía đỏ, và vì vũ trụ mới sinh ra từ một Big Bang cách đây khoảng 15 tỷ năm nên chưa đủ thời gian để cho ánh sáng từ các thiên hà xa hơn nữa, nếu có, truyền tới mặt đất. [2]

Khoa học gia Harlow Shapley nói rằng: «Con người được làm từ những chất của ngôi sao và bị chi phối bởi luật vũ trụ ». (Mankind is made of star-stuff, ruled by universal laws).[3]

Chất ngôi sao này chúng ta có thể hiểu theo tinh thần đạo Phật là đất nước gió lửa và bị chi phối bởi luật vũ trụsanh trụ dị diệt. Quan điểm Phật giáo cũng cho rằng thời gian vô thuỷ vô chung, không gian vô cùngthế giới vô tận như kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện đã minh họa:

“Ví như bao nhiêu cỏ, cây, lùm, rừng, lúa, mè, tre, lau, đá, núi, bụi bặm trong cõi tam thiên đại thiên. Cứ một vật làm một sông Hằng, rồi cứ số cát trong mỗi sông Hằng, một hột cát làm một cõi nước, rồi trong một cõi nước cứ một hột bụi nhỏ làm một kiếp, rồi bao nhiêu số bụi nhỏ chứa trong một kiếp đêu đem ra làm kiếp cả. Từ lúc ngài Địa Tạng Bồ Tát chứng quả vị Bồ Tát Thập Địa đến nay, nghìn lâu hơn số kiếp tỷ dụ ở trên, huống là những thửo Ngài Địa Tạng Bồ Tát còn ở bậc Thanh Văn và Bích Chi Phật”[4].

Hay trong kinh Lăng Nghiêm dạy Đức Phật dạy về thế giới như sau:

Cái giác thì sáng suốt, cái hư không thì không hay biết, hai cái đối đãi với nhau, thành có lay động, cho nên có phong luân nắm giữ thế giới. Nhân cái hư không mà sinh ra có lay động, phát minh tính cứng thì thành có ngăn ngại; các loài kim bảo đều do minh giác lập ra tánh cứng, cho nên có kim bảo nắm giữ cõi nước. Biết cái cứng thì thành có kim bảo, rõ cái lay động, thì phong đại phát ra: phong đại và kim bảo cọ xát nhau, cho nên có hoả đại làm tính biến hoá. Ngọn lửa xông lên, kim bảo sinh ra tính ướt, cho nên có thủy luân trùm khắp các cõi mười phương. Lửa bốc lên, nước sa xuống, giao nhau phát hiện, mà lập thành tánh cứng: chỗ ướt là bể lớn, chỗ khô là gò nổi; do cái nghĩa ấy, trong bể lớn kia, hơi nóng thường bốc lên; trong gò nổi kia, sông ngòi thường chảy xuống. Thế nước kém thế lửa, thì kết thành núi cao, vậy nên đá núi, đập thì có tia lửa, nấu thì chảy ra nước. Thế đất kém thế nước, rút ra thành cây cỏ, vậy nên rừng rú bị đốt thì thành đất, vắt ra thì có nước.

Vọng tưởng giao xen phát sanh, xoay vần làm chủng tử cho nhau; do nhân duyên ấy mà thế giới tiếp tục[5].

Khi nói thế giới hình thành và tương tục là nói về mặt vật lý. Đức PhậtPhật tuệ nên ngài nhìn thấy được, riêng chúng ta còn đeo nhục nhãn tức còn đeo kiếng đen nên không thấy các pháp như thật được.

Bầu khí quyển chúng ta gọi là hư không nhưng thật ra là vòng không khí. Vòng không khí bao quanh, trùm xung quanh quả đất của mình, giữ vững quả đất lại. Nhân hư không mà sinh ra lay động, phát minh tính cứng, cho nên có kim bảo nắm giữ cõi nước. Gió thổi có động. Tâm mình muốn đứng vững lại cho nên gọi là kiên ngưng. Ngưng chướng ngại thì cảm quả báo có kim bảo, nghĩa là do kiên ngưng mà nó thành chất cứng của mình, thành kim luân tức vòng bằng vàng tròn bao quanh quả đất.

Tánh của kim luân thì kiên ngưng mà phong luân thì thổi và chuyển động. Hai bên cọ xát tạo ra hỏa luân làm tánh biến hoá. Ngọn lửa xông lên đốt kim luân sanh ra tánh ướt nên có thủy luân tràn đầy khắp pháp giới. Thế giới này có gió rồi có kim si mê thành đất, rồi mới có lửa, nước, thế là đủ bốn thứ (đất, nước, gió, lửa). Sau đó, mới biến hoá thành ra các cảnh giới, rồi cây cối, biến thành ra các thứ sơn hà đại địa.

Đầu tiên là vòng gió, kim/ địa, lửa, nước. Vậy thế giới chúng ta ở từng vòng từng vòng theo như văn kinh minh họa. Đây quả đất hình tròn, ở ngoài quả đất có vòng không khí. Vòng đất rồi nước chảy ở trong, trong ruột quả đất là lửa, khoan xuống thì có giếng nước. Nước có vòng nước nó chảy trong lòng đất. Bởi vì lửa bốc lên, nước sa xuống, thế cho nên trong biển vẫn có lửa. Trong đá có cả nước cả lửa (núi phun lửa, núi lửa). Chúng ta lấy đá đập vào nhau thì nó xẹt ra lửa, còn mình nung đá thì nó thành nước. Gò là chỗ có đất nhiều, nước ít. Chỗ ướt thế nước mạnh hơn thế đất sẽ tếch thành cái lá cành hoa, rừng cây ruộng cỏ.

Cho nên cảnh cứ hiện lên, kết mê muội mãi thì hư không nối tiếp, kết ái nhiễm, sân hận, ngu si mãi cho nên đất, nước, gió, lửa cứ nối tiếp. Hễ chúng ta thèm ăn thì miệng chảy ra nước. Nghe một người thân đi xa thì con mắt chảy ra nước, biết mình bắt được vàng hay trúng số thì toát mồ hôi. Hễ có lòng tham muốn ái ân thì dễ dàng đưa đến sự mất chánh niệm.

Hiện tại cho chúng ta thấy lòng tham khởi ra nước. Hễ sân thì khởi ra lửa, mê kết ám lại thì thành hình sắc, thành đất đá. Do những vọng tưởng giao xen này làm chủng tử cho nhau nên đất, nước, gió, lửa nối tiếp. Như vậy đất, nước, gió, lửa là nền tảng cấu thành thế giới. Đây là nói từ trong nghiệp báo của chúng ta hiện lên các thứ, đều là những cái không hề có.

Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra, đang vừa có lửa vừa có nước ái chảy ra. Gió là do tâm động mà tạo thành. Đất là do si ám kiên ngưng mà thấy ra chướng ngại, chỉ toàn là tâm không chi khác. Thế rồi, cứ làm nhân lẫn nhau vì thế có quả báo có thân rồi lại tạo ra các nghiệp. Đây là lý dothế giới tiếp tục, tức có đất, nước, gió, lửa tiếp tục[6].

Từ trên đến đây Đức Phật nhắc đi nhắc lại, chỉ là nghiệp báo của chúng ta, hiện lên các thứ, chứ thật ra chúng là những cái không hề có.

VẤN ĐỀ THỨ HAI thuyết trình viên trình bày là sự tiên phong của Phật giáo trong khoa học.

Vào những thế kỷ trước công nguyên khi mà khoa học kỹ thuật chưa phát triển, Đức Phật đã nhìn thấy trong mỗi giọt nước có vô số vi vật. Ngài đã khuyên các chúng đệ tử xuất gia của ngài đều phải có đãy lọc nước để lọc trước khi uống cũng như mỗi khi uống nước hãy nhớ niệm chú vãng sanh để gieo hạt giống bồ đề vào các sinh vật này.

Phải trải qua hơn hai mươi mốt thế kỷ sau, vào cuối thế kỷ 16 (năm 1595), các nhà khoa học mới phát minh kính hiển vi (Meiji Techno MT4200) đầu tiên. Rồi nhờ kính hiển vi ấy mới nhìn thấy được trong một giọt nước có vô số các vi sinh vật mà mắt thường (nhục nhãn) không nhìn thấy được. Điều này cho thấy Phật giáo đã tiến khá xa trước khoa học.

Ngoài việc nhìn thấy được những thế giới vô cùng nhỏ, từ buổi ban sơ, Phật giáo còn thấy được những thế giới vô cùng lớn trong vũ trụ bao la. Từ xa xưa vào những kỷ nguyên trước Tây lịch khi mà khoa học chưa phát triển, Đức Phật Thích Ca đã tuyên bố trong kinh A-di-đà rằng: “Từ đây qua phương Tây quá mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực-lạc. Trong thế giới đó, có Đức Phật hiệu là A-di-đà hiện đang thuyết pháp”[7].

Trong kinh Pháp Hoa, phẩm thứ Mười Sáu “Như Lai Thọ Lượng” dạy rằng Đức Phật thành Phật nhẫn lại đây rất lâu vô lượng trăm nghìn na do tha kiếp như sau:

“Này thiện nam tử! Thật Ta thành đạo nhẫn lại đây, đã vô luợng vô biên trăm nghìn muôn ức na-do-tha kiếp. Ví như năm trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ cõi tam thiên, đại thiên, giả sử có người nghiền làm vi trần qua phương đông, cách năm trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ cõi nước, bèn rơi một bụi trần, đi qua phía đông như thế cho đến hết vi trần đó.

Các thiện nam tử! Ý ông nghĩ sao? Các thế giới đó có thể suy gẫm so tính biết được số đó chăng?

Di Lặc Bồ tát thảy đều bạch Phật rằng: ‘Thế Tôn! Các thế giới đó vô lượng vô biên, chẳng phải tính được, đếm được, cũng chẳng phải tâm lực biết đến được. Tất cả Thanh Văn, Duyên Giác dùng trí vô lậu, chẳng có thể suy nghĩ biết được hạn số đó, chúng con trụ bậc bất thối, ở trong việc này cũng chẳng thông đạt. Thế Tôn! Các thế giới như thế vô lượng vô biên.”[8]

Ngoài ra, trong kinh Phật cũng có kể một chuyện rằng tôn giả Mục Kiền Liên muốn dùng thần thông bay đo xem phạm âm thuyết pháp của Đức Phật vang xa bao nhiêu? Tôn giả bay rất lâu đến một cõi nước của Đức Phật Định Tự Tại Vương Như Lai. Ở cõi này, Đức Phật, Bồ tát, chư hiền thánh và chúng sanhthân tướng rất to lớn phi thường. Khi các Bồ tát thấy có một con trùng nhỏ bò vào, định đưa tay ra phủi thì lúc đó Đức Phật Định Tự Tại Vương bảo: “Đây là tôn giả Mục Kiền Liên - vị Đại đệ tử thượng thủ của Đức Thích Ca Như Lai đến đây để đo phạm âm của sư phụ mình. Tôn giả rất có thần thôngđạo hạnh, xin chớ coi thường. Hãy để tôn giả tự tại đến đi.” Khi tôn giả Mục Kiền Liên bay về, đường rất xa như lạc lối, Đức Như Lai từ bi dùng hào quang soi đường để chỉ hướng về.

Trong kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Pháp Giới, nữ nhân Thích Ca Cù Ba giảng một pháp môn giải thoát cho Thiện Tài Đồng Tử cũng mô tả về thế giới vô biên như sau:

“Này thiện nam tử! Ta quán thân của Bồ Tát, nơi mỗi lỗ chân lông, mỗi niệm thấy vô lượng vô biên thế giới rộng lớn. Những sự an trụ trang nghiêm, hiện trạng, những núi đất mang danh hiệu Phật xuất thế; những đạo tràng, chúng hội, diễn thuyết, những khế kinh, những sự quán đảnh, các thừa, những phương tiện và những thanh tịnh. Lại mỗi niệm nơi mỗi lỗ chân lông của Bồ tát thường thấy vô biên Phật hải, những sự ngồi đạo tràng, những thần biến, thuyết pháp, thuyết kinh hằng không gián đoạn. Lại nơi mỗi lỗ chân lông của Bồ tát thấy vô biên chúng sanh hải, những trụ xứ, hình mạo, tác nghiệp, căn lành…”

Trong Nhị Khóa Hiệp Giải, Đức Phật dạy có vô số thế giới. Ngàn thế giới là một tiểu thiên thế giới. Ngàn tiểu thiên thế giớitrung thiên thế giới. Ngàn trung thiên thế giớiđại thiên thế giới. Một tiểu thiên thế giới có 1000 thế giới tức là một dãy ngân hà (galaxy) gồm cả triệu ngôi sao. Một trung thiên thế giới có một triệu thế giới và một đại thiên thế giới có một tỷ thế giới. Một tiểu thiên thế giới sống 16 triệu 8 trăm ngàn năm. Một trung thiên thế giới sống 336 triệu năm và một đại thiên thế giới sống một tỷ 344 triệu năm[9]. Đây là quan niệm về vũ trụ của Phật giáo từ hơn 2600 năm về trước.

Như vậy, ngoài trái đất nhỏ nhoi mà chúng ta đang sống, theo lời Đức Phật đã dạy và khoa học đã chứng minh còn có ngàn tỷ hằng hà sa số các thế giới khác nữa. Khoa học cho rằng một ngôi sao như là một thế giới. Giáo sư Trần Chung Ngọc nói rằng:

“Một tiểu thiên thế giới có thể so sánh với quan niệm hiện đại về một thiên hà (galaxy) gồm có cả triệu ngôi sao và những hành tinh có thể có những sinh vật trên đó như giải ngân hà (Milky way) hay M31, hay chòm sao (constellation) Andromeda. Một trung thiên thế giới có thể so sánh với một chùm sao thiên hà (galastic cluster) thí dụ như chùm Coma Berenices, và một Đại thiên thế giới có thể so sánh với siêu thiên hà (metagalaxy) ở trong Đại Vũng (Big Dipper) của tiểu Ursa (Minor Ursa) trong đó có ít ra là cả triệu thiên hà.”[10]

Khoa học gia Terence Dickinson nói: “Chúng ta có thể thấy trên trời đầy các ngôi sao là hàng xóm vũ trụ của chúng ta. Dãy ngân hà là một thế giới hình xoáy tiêu biểu, như một chiếc đĩa khổng lồ rộng khoảng 9.000 năm ánh sáng, với một sự phình ra nơi trục bánh xe khoảng 10.000 năm ánh sáng. Thái dương hệ của chúng ta, cách điểm trung tâm khoảng 27.000 năm ánh sáng và ngân hà dày khoảng 25.000 năm ánh sáng.

Có một quần đảo với hơn 200 tỉ ngôi sao nổi bồng bềnh trong không gian cách trái đất khoảng 15 triệu ánh sáng. Quần đảo này được gọi là M83 kích thước tương đương rộng như dãy ngân hà”.

(What we see as a sky full of stars is our cosmic neighborhood, a small corner of the galaxy. Our Milky Way Galaxy is a typical spiral galaxy, an enormous disk about 90,000 light-years from edge to edge, with a bulge at the hub that is 10,000 light-years thick. In our region, 27,000 light-years out from the nucleas, the galaxy is less than 2,000light year-thick.

An island of more than 200 billion stars floats in the blackness of deep space 15 million light-year from the earth. This galaxy known only by its catalog number M83, is roughly the same size and mass as our own Milky Way”[11].

Hay “Ngân hà M87 rộng khoảng 60 triệu năm ánh sáng là một thế giới gần trái đất nhất”. (At 60 million light-years, M87 is the nearest giant elliptical galaxy to Earth)[12].

Theo nghiên cứu về nguồn gốc cấu tạotiến hóa của vũ trụ (năm 1920), các nhà khảo cứu vũ trụ cho là vũ trụ chỉ là giải ngân hà (milky galaxy/way) mà thái dương hệ (hệ thống mặt trời). Sau đó, kính thiên văn khám phá giải ngân hà có tới hàng trăm tỷ ngôi sao (mỗi sao tương tự như mặt trời trong thái dương hệ). Ngoài ngân hà, còn có cả triệu tỷ thiên hà rải rác khác. Mỗi thiên hà chứa cả tỷ ngôi sao[13].

Các khoa học gia cũng khảo sát và thấy rằng vũ trụ, thiên hà (galaxy) di chuyển ngày mỗi xa trái đất, ngày càng mở rộng, như vậy nghĩa là vũ trụ không cố định một chỗ. Nếu chất lượng ngôi sao càng nặng thì sống ngắn hơn chỉ vài tỷ năm. Nếu sao nhẹ thì tuổi thọ dài hơn, có khi tới hàng ngàn tỷ năm. Điều này cũng phù hợp với lời Bồ tát Phổ Hiền nói: “Có thế giới chỉ tồn tại trong một kiếp. Có thế giới tồn tại trong vô số kiếp.” 

Như vậy, thọ mạng của thế giới rất đa dạng và thế giới chúng ta sống đây không phải là duy nhấttrung tâm của vũ trụ.

VẤN ĐỀ THỨ BA trong buổi thuyết trình là tướng trạng của các thế giới.

Trong khoa học nói rằng: “Vào đầu thập niên 1920, các chuyên gia khảo cứu vũ trụ, qua những kính thiên văn tân kỳ, khám phá ra rằng giải Ngân Hà (Milky Way), trong đó có thể có tới cả trăm tỷ ngôi sao, mỗi ngôi tương tự như mặt trời trong Thái Dương Hệ, thật ra chỉ là một ốc đảo, một Thiên Hà (galaxy), trong vũ trụ.

Ngoài giải Ngân Hà ra còn cả triệu, cả tỷ Thiên Hà khác rải rác trong vũ trụ. Mỗi Thiên Hà đều chứa ít ra là cả tỷ ngôi sao, tương tự như giải Ngân Hà. Trong vũ trụ, giải Ngân Hà có dạng của một cái đĩa, rộng khoảng 100000 (một trăm ngàn) năm ánh sáng, và Thái Dương Hệ của chúng ta ở cách tâm của giải Ngân Hà khoảng 30000 (ba mươi ngàn) năm ánh sáng. Trong vũ trụ học, vì phải kể đến những khoảng cách vô cùng lớn nên người ta thường dùng đơn vị đo chiều dài là 1 năm ánh sáng, hoặc đơn vị parsec bằng hơn ba năm ánh sáng một chút (3.2616). Chúng ta đều biết, ánh sáng truyền trong không gian với vận tốc khoảng 300000 cây số trong một giây đồng hồ. Chúng ta cũng biết một phút có 60 giây, một giờ có 60 phút, một ngày có 24 giờ, và một năm có khoảng 365 ngày. Do đó, chúng tathể tính ra khoảng cách của một năm ánh sáng. Khoảng cách này vào khoảng 9460800000000 (9 ngàn 4 trăm 60 tỷ 8 trăm triệu) cây số, hoặc gần 6000000000000 (6 ngàn tỷ) miles”[14].

Khoa học gia Terence Dickinson nói: “Quang cảnh vũ trụ đan dệt vào nhau giống như những sợi chỉ, đốm chấm đã tạo nên cấu trúc độc đáo trong vũ trụ. Hình ảnh trên sơ đồ này cho thấy hàng triệu ngân hà được thấy từ trái đất và đó là chỉ nhìn một nửa vòm trời mà thôi. Xa hơn nữa có thể thấy rải rác từng dãy ngân hà được tụ lại thành nhóm với nhau và đan dệt nhau như những sợi dây tơ”.

(Woven across the cosmic landscape like the threads in some vast define the ultimate structure of the universe. This image is a plot of nearly a million individual galaxies (as seen from earth) and represents about half of the entire sky. Far from being scattered at random, galaxies are clustered, and the clusters congregate in superclusters that from the filaments seen here)[15].

“Những ngôi sao được sáng tạo không bằng nhau do sự thừa hưởng chất nebulas ít hay nhiều. Những ngôi sao thật nặng thì lớn gấp 100 lần mặt trời, ngôi sao nhỏ nhất thì khoảng 8% của mặt trời. Quần thể ngôi sao đã cho thấy sự sáng toả, chu vi, nhiệt độ và kích cỡ của từng ngôi sao”.

(All stars are not created equal. They inherit different amount of material from the nebulas in which they are born. Superheavyweight stars are 100 times the sun’s mass; the minimum stellar mass is 8 percent of the sun’s mass. A star’s mass dictates how bright it will be, how long it will be, its temperature and its size)[16].

“Trung bình khoảng cách giữa các ngôi sao trong hệ thống dãy ngân hà là cách nhau khoảng bảy năm ánh sáng. Trôi nổi giữa bể không gian bồng bềnh đó là trái đất”. (The average distance between stars in our sector of the Milky Way Galaxy is seven light-years. Adrift in this vast ocean is Earth)[17].

Như vậy đơn vị đo diện tích rộng lớn của các dãy thế giới rộng lớn này là ánh sáng trong một năm. Các dãy thế giới này còn mang đậm nét đặc thù là tọa lạc nhiều vị trí và có nhiều hình thù đa dạng sai khác như trên đã nói. Ngoài chu vi rộng lớn được tính bằng ánh sáng, thế giới, ngân hà, thiên hà, trái đất và thái dương hệ, vv... mang rất nhiều hình thù đa dạng sai khác như kinh Hoa Nghiêm[18] phẩm “Thế Giới Thành Tựu”, Bồ tát Phổ Hiền bảo đại chúng:

“Này các thiện nam tử, thế giới hải có nhiều hình tướng sai biệt, hoặc tròn, hoặc hình như nước xoáy, hoặc hình như hoa, có vi trần số hình sai khác.”

Hay Phẩm “Hoa Tạng Bồ Tát”, Bồ Tát Phổ Hiền giảng rằng: “Này các Phật tử, tất cả thế giới chủng đó, hình trạng đều khác nhau hoặc hình núi tu di, hoặc hình sông, hoặc hình xoay chuyển, hoặc hình nước xoáy, hoặc hình trục xe, hoặc hình hoa sen, có vi trần số hình trạng như vậy.

Quan điểm mô tả tướng trạng vũ trụ của Phật giáo đã xuất hiện từ lâu xa vào những kỷ nguyên trước Tây lịch và mãi hơn 21 thế sau, vào cuối thế kỷ 16, khoa học (Giardano Bruno) mới bắt đầu đưa ra quan niệm về một vũ trụ bao la vô cùng vô tận. Trong đó, ngoài thế giới của chúng ta còn có vô số các thế giới khác nhau với vô số mạng sống (life-forms) khác nhau.

So sánh với những hình trạng dáng mạo của những chòm sao, dãy ngân hà, thiên hà do khoa học khám phá trong sách, báo chí, tivi và slice show, chúng ta thấy Phật giáo đã mô tả thế giới giống như vậy.

Tóm lại, những khám phá gần đây của khoa học rất phù hợp với quan niệm về nguồn gốc con ngườivũ trụ trong Phật giáo. Điều này chứng tỏ rằng những tư tưởng của Phật giáo đã đi trước khoa học khá xa.

Khoa học gia Walt Wihitman cho rằng chính khoa học đã vén bức màn bí mật của khoa học (...worlds unthought of until the searching mind of science laid them open to mankind)[19]. Nhưng thật ra Đức Phật đã thấy điều này từ những năm trước công nguyên.

Vâng đúng vậy, “Hãy giữ tâm của bạn vững chắcbình tĩnh trước cả tỷ vũ trụ bao la đầy ngạc nhiên này” (Let your soul stand cool and composed before a million universes)[20].

VẤN ĐỀ THỨ TƯ được thuyết trình là hành tinh của con người.

Với những hình ảnh màu gợi đầy tính tìm hiểu hiếu kỳ trong sách khoa học cùng với những hình ảnh trong các slice show do Zartha và nhà khoa học (Astronaut) Sunita Williams và sưu tầm đã cho chúng ta thấy trái đất nhỏ hơn mặt trời. Mặt trời nhỏ hơn thế giới Sirius. Sirius nhỏ hơn Polluv. Polluv nhỏ hơn Arturus. Arturus nhỏ hơn Rigel. Rigel nhỏ hơn Aldobasan. Aldobasan nhỏ hơn Antares. Trái đất nhỏ như một chấm cát, một điểm mực khi so với các dãy ngân hà, thiên hà và các ngôi sao đó. Theo quan điểm thông thường của số đông, trái đất rộng lớn với năm châu, bốn biển, rừng vàng, đất bạc mà so với các thế giới khác còn nhỏ bé tí tẹo huống chi bản thân của chúng ta như nhà khoa học Christian Huygens nói: “Nhìn vào tổng thể, vũ trụ thật là bao la trong khi trái đất chúng ta đang sống thì không đáng kể chút nào”. (How vast those Orbs must be, and how inconsiderable this Earth)[21].

Vũ trụ không đáng kể thì năm châu quá nhỏ thì khi so sánh với năm châu thì năm châu quá nhỏ bé. Năm châu nhỏ nhít thì nước Việt Nam, Ấn Độ, Hoa Kỳ càng nhỏ nhít. So với ba nước đó thì tấm thân đất nước gió lửa bèo bọt này của mình thật không đáng kể chút nào.

Thế nên, hiểu biết về vũ trụ quan giúp cho chúng ta thấy rõ chân lý “vô ngã” (no-self) của Phật giáo, thấy được thân tứ đại vô cùng nhỏ bé của mình. Điều này cũng giúp cho chúng ta thấy được những tranh cải hơn thua, bạn giỏi hơn, vĩ đại hơn, quyền lực hơn, độc đáo hơn, quan trọng hơn, to cao hơn, và vv…. đôi khi thật là vô nghĩa. Hãy sống với sự tỉnh thức.

Đây là hành tinh xanh của chúng ta

Tất cả chúng ta chỉ là một điểm rất bé tí rất không đáng kể trong một dấu chấm xanh nhỏ của trái đất này.

Chúng ta thật nhỏ nhen so với cái vô cùng của vũ trụ này. Những khó khăn chướng ngại, những khác biệt của chúng ta thật không đáng kể so với vũ trụ bao la. Hành tinh chúng ta đang sống thật là mong manh. Hãy chăm sóc hành tinh này bởi vì nó là ngôi nhà duy nhất để xác thân tứ đại này nương sống.

Sau khi thuyết trình viên kết thúc bài giảng, chư tôn đức tăng ni đã góp ý như sau:

Hòa Thượng Thích Chơn Thành: Cám ơn Ni Sư Giới Hương đã thuyết trình và cho xem các slice show chiếu giới thiệu về vũ trụ quan thật là vô giá. Hình ảnh của vũ trụ chiếu rất đẹp, rất quý nhưng tâm của chúng ta còn đẹp hơn nữa nếu chúng ta biết phát huy. Khi trước tôi cũng có nghiên cứu về điều khoa học đôi chút, nên tôi biết một năm ánh sáng = 6 trillion miles (6.000.000.000.000 dặm) và những nghiên cứu gần đây của khoa học cho thấy có nhiều thế giới đang có mặt đã giúp soi sáng thêm những gì Chư Phật đã thấy. Thiên chúa thì nói thế giới do Chúa sáng tạo, Hindu thì nói do đấng Phạm thiên, các tôn giáo khác thì cho có đại ngã, thần linh... Phật giáo chủ trương vô ngã, vô pháp, không thật thể, sanh trụ dị diệt, vì thế chúng ta không nên vướng vào các phiền não của ngã và pháp.

Hòa Thượng Hóa Chủ Thích Quảng Thanh: Thay mặt Chư Tôn đức, cám ơn Ni Sư Giới Hương đã thuyết trình về vũ trụ quan cho thấy khoa học có nhiều ý phù hợp với kinh điển và đã chiếu những hình ảnh rất quý giá. Ni sư đã bỏ nhiều thời gian trong việc biên soạn các tài liệu và sưu tầm hình ảnh để giới thiệu. Đề tài này khiến chúng ta tự hỏi không biết lúc trước chúng tathế giới nào, luân hồi vào các thế giới nào? Biết đâu chúng ta đã đi qua nhiều hành tinh xa xôi nào đó. Ta đã có mặt ở đâu đó và bây giờ ngồi tại chánh điện chùa Bảo Quang để tu tậpphát nguyện sanh về thế giới Phương tây của Đức Phật A Di Đà. Thế giới ấy là một trong vô số thế giới bao lachúng ta vừa xem phim.

Ni Sư Như Bảo cũng xin cảm ơn Giới Hương đã đưa quý chư Tôn đức và đại chúng đi du lịch khắp năm châu, lên núi, xuống biển, đi ban ngày rồi đêm (phim chiếu năm châu sáng rỡ lúc ban ngày và lộng lẫy lung linh ánh đèn lúc đêm khuya). Rồi đi lên sao hỏa, mặt trăng, mặt trời và vòng quanh vũ trụ bao la. Tôi có cảm giác rất thích. Khi nảy Giới Hương cũng có kể chuyện nhổ mũi tên độc. Hy vọng nếu còn thời gian, xin Giới Hương giải thích thêm về cách thức nhổ mũi tên.

Thượng Tọa Tâm Thành góp ý: Hôm nay tại chùa Bảo Quang, tôi, Tâm Thành khi nghe Ni Sư Giới Hương thuyết trình đề tài “Trầm Tư Về Vũ Trụ Xung Quanh Chúng Ta”, tôi xin bổ sung vào hai câu chuyện để thấy rằng trong các kinh nêu ra rõ ràng có nhiều thế giới xung quanh. Đặc biệt rãi rác trong các Bộ A Hàm, hay Trung Bộ Kinh, vân vân…Thật ra, tôi không nhớ tên rõ của các tựa kinh này vì đọc đã lâu, nhưng xin tóm lược lại như sau:

Câu chuyện thứ nhất là có những vị trời thường vào đêm khoảng 12 giờ khuya đến 2 giờ sáng hay bay đến Tịnh Xá Kỳ Hoàn để nghe Đức Phật thuyết pháp. Những vị trời này ánh sáng hào quang rạng rỡ soi rõ cả khu vườn, có vị ánh sáng lớn hơn. Khi ngài A-nan thấy những ánh sáng đó, ngài thường thưa hỏi Đức Phật đó là những vị trời nào, có duyên sự gì đến đây, ở thế giới nào đến mà ánh sáng chói ngời như thế và đi có lâu không? Đức Thế Tôn liền kể tên của các vị trời, tên thế giớinhân duyên các vị đó muốn đến xin Thế Tôn chỉ dạy pháp gì, vv... Đặc biệt khi Đức Phật trả lời cách đi và tốc độ bay của các vị trời từ thế giới này đến thế giới khác thì ngài cho một ví dụ như sau: Ví như một nhà đại lực sĩ duỗi cánh tay (ý nói rất nhanh) thì vị trời kia từ thế giới đó biến mất và hiện ngay trước mặt Đức Như Laì. Nếu theo các kinh so sánh thì ta có thể thấy thần thông của các vị trời bay nhanh hơn tốc độ anh sáng (300,000 km/giây). Theo khoa học hiện đại ta cũng biết khoảng cách từ mặt trời đến trái đất khoảng 149 triệu km (cây số) và thời gian ánh sáng mặt trời từ trái đất là khoảng tám phút. Nếu so thần thông của một vị trời và tốc độ ánh sáng ta thấy các vị trời này đi nhanh hơn.

Câu chuyện thứ hai xin nói về tuổi thọ hay thọ mạng (thời gian sống lâu hay mau) của các vị tiên so với con người ở trái đất. Kinh A-hàm kể như sau: Có một tiên nữ đang đi hái hoa buổi trưa, bất chợt cô cảm thấy mệt và ngủ thiếp đi hơn hai giờ. Thần thức của vị tiên nữ kia sanh vào nhà người giàu có ở thành Xá Vệ. Nàng là con gái của một trưởng giảnhan sắc và được gả cho một công tử. Sau khi hạ sanh được một đứa con trai, cô bỗng nhớ lại kiếp trước của mình là một vị tiên nữ đang hái hoa và cô phân vân không biết làm sao để lên lại cõi trời? Cô cần phải có đủ phước đức mới được trở lại kiếp làm tiên nữ. Nghe nói tu Bát Quan Trai Giới sẽ có nhiều phước đức nên cô ráng tu để trở về chốn cũ. Sau vài năm tu tập, cô cũng hạ sanh thêm vài người con cho công tử và cô chết khoảng tuổi 26. Lúc đó, ai cũng thương tiếcngạc nhiên vì cô rất xinh đẹp, tánh tình dễ thương, chuyên làm việc thiện mà sao lại chết quá trẻ, nên đến hỏi Đức Thế Tôn. Đức Phật trả lời vì cô ta muốn về chốn cũ có người chồng trên trời mới là chính. Sau khi cô tiên nữ nhập hồn trên trời đi về cung điện, người chồng tiên hỏi tiên nữ: “Nàng nảy giờ đi đâu?” Tiên nữ trả lời: “Hồi nảy giờ thiếp đã xuống trần gian. Thiếp được gả cho một công tử tại thành Xá Vệ và đã hạ sinh ba người con cho người chồng dưới thế gian ấy”. Vị phu quân trời mới nói: “Sao mà mau thế!’

Thế nên, khi nói đến thời gian hay thọ mạng sự sống, ta có thể nói tùy theo thế giới mà có thời gian và tuổi thọ khác nhau, không nhất thiết căn cứ vào hành tinh trên trái đất chúng ta đang ở.

Tôi cũng xin trả lời câu nói Đức Phật ít trả lời những câu hỏi về thế giớivũ trụ rằng thế gian này thường hay vô thường, hữu biên hay vô biên vv... Lý dotùy theo trường hợpĐức Phật trả lời hay không. Ngài thường im lặng với những người không có tâm học hỏi để tu tập mà cốt để hí luận. Còn các vị nào đã hiểu và có tâm cầu giác ngộ như các Bồ tát, thì Đức phật sẽ mô tả thế giới này kia như kinh Hoa Nghiêm, Pháp hoa mô tả. Vì những vị này đã nhổ được mũi tên độc và đã uống thuốc trừ độc, đã được giải thoát có được thần thông nhìn suốt, bay đi tự tại thì thấy được các thế giới rồi.

Xin cám ơn quý vị đã lắng nghe.

Chùa Hương Sen Moreno Valley, ngày 27 tháng 7 năm 2010

Kính tường,

Thích Nữ Giới Hương

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  • · Sách The Universe and Beyond (Terence Dickinson, 4th edition, 2004)
  • · Các bài viết về Phật Giáo và Khoa Học của Trần Chung Ngọc
  • · Slice show: Mars, Universe Special English Astronomy 2 with the Blue Wonderful Planet and Blue Beauty of Astronaut Sunita Williams.


[1] The Universe and Beyond, Terence Dickison, 4th Edition, 2004, trang 86, 123, 135 ff; Con ngườiVũ trụ, Trần Chung Ngọc, xem Buddhismtoday.com

[2] Câu chuyện “Big Bang”, Trần Chung Ngọc, (xem Buddhismtoday.com)

[3] The Universe and Beyond, trang 21.

[4] Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, Dịch giả Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, 2008, trang 19.

[5] Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Cư Sĩ Tâm Minh dịch, tr. 290-1.

[6] Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm, Thích Nữ Giới Hương, Nhà Xuất Bản Văn Hóa Sài Gòn, 2008, trang 64-5.

[7] Nghi Thức Cầu Siêu, Kinh A-di-đà, trang 21-22, Number-one print, 2009.

[8] Kinh Pháp Hoa, Hòa thượng Trí Tịnh dịch, Chùa Bảo Quang, 1997, trang 371-2.

[9] Trích trong “Phật Giáo trong Thời đại Khoa Học”, Trần Chung Ngọc (xem web: buddhismtoday.com)

[10] Vài Nét về Phật Giáo và Khoa Học, Trần Chung Ngọc (xem web: buddhismtoday.com)

[11] The Universe and Beyond, trang 99.

[12] The Universe and Beyond, trang 117.

[13] Câu Chuyện “Big Bang” , Trần Chung Ngọc, (xem web: buddhismtoday,com)

[14] Câu chuyện “Big Bang”, Trần Chung Ngọc, xem Buddhismtoday.com

[15] The Universe and Beyond, trang 120.

[16] The Universe and Beyond, trang 86.

[17] The Universe and Beyond, trang 146.

[18] Kinh Hoa Nghiêm, Thích Trí Tịnh dịch, Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản.

[19] The Universe and Beyond, trang 55.

[20] The Universe and Beyond, trang 119.

[21] The Universe and Beyond, trang 41.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 30368)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 30634)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 20999)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20184)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19407)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24365)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30636)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15665)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
(Xem: 27767)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 19751)
Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
(Xem: 15556)
Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá...
(Xem: 23205)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23532)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 17503)
Năm uẩn của chúng ta -- thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy, thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập thành một vị bồ tát...
(Xem: 15672)
Giải thoát sanh tử không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những khổ sanh tửvị lai không còn sanh khởi nữa...
(Xem: 21850)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 37967)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 22094)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 23212)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 21312)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 28403)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạchạnh phúc...
(Xem: 32519)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 25152)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34657)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 22919)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27683)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 31272)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13588)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
(Xem: 25142)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27783)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 22064)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 20719)
Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giảchúng sinh khỏi đau khổ luân hồi...
(Xem: 22206)
Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học.
(Xem: 27089)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 24112)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 21876)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 14700)
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại...
(Xem: 23128)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 23996)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 21081)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 14186)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
(Xem: 19919)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 22486)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 28011)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 22794)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 28175)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 10972)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 28479)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 31545)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 26150)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 14914)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 28026)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 7413)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 25329)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 20690)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 21112)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
(Xem: 12224)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
(Xem: 11896)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12789)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
(Xem: 26627)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant