Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương Iv Bài Thuyết Pháp Về Nhất Tâm Của Bạt Tụy Và Những Bức Thư Ông Gửi Môn Đệ

10 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 8450)
Chương Iv Bài Thuyết Pháp Về Nhất Tâm Của Bạt Tụy Và Những Bức Thư Ông Gửi Môn Đệ

Thiền sư PHILIP KAPLEAU
ĐỖ ĐÌNH ĐỒNG dịch
BA TRỤ THIỀN
GIÁO LÝTU TẬPGIÁC NGỘ
Nguyên tác: The Three Pillars of Zen
Cập Nhật và Hiệu Đính
theo Ấn Bản Kỷ Niệm Năm Thứ 35 của Nguyên Tác Tiếng Anh

PHẦN MỘT
GIÁO LÝTU TẬP

Chương IV
Bài Thuyết Pháp về Nhất Tâm của Bạt Tụy
và Những Bức Thư Ông Gửi Môn Đệ

DẪN NHẬP CỦA NGƯỜI BIÊN TẬP

 

 Vào năm 1327, về cuối thời Kamakura (Kiêm Thương), thời kỳ xung đột xâu xé, bất an chòng chéo của lịch sử Nhật bản đã sản sinh ra nhiều nhân vật tôn giáo đáng kể - Thiền sư phái Lâm Tế, Bạt Tụy Đắc Thắng (Bassui Tokusho) ra đời. Vì có thị kiến rằng đứa con bà đang mang trong bụng một ngày kia sẽ trở thành ác quỉ giết cả cha mẹ nó, mẹ ông đã bỏ ông ngoài đồng ngay lúc vừa mới sinh, nơi ấy ông được một gia nhân bí mật cứu và nuôi dưỡng.

 Lúc lên bảy, tâm hồn nhạy cảm đối với tôn giáo của Bạt Tụy đã bắt đầu biểu lộ. Vào một ngày giỗ người cha quá cố, ông bỗng nhiên hỏi vị tu sĩ hành lễ: “Những lễ vật cơm, bánh, trái này cúng ai?” “Dĩ nhiên cho cha của chú,” vị tu sĩ đáp. “Nhưng cha giờ đây không hình dạng, không thân xác,(1) làm sao có thể ăn được những thứ ấy?” Vị tu sĩ lại đáp: “Dù không có thân xác hữu hình, linh hồn ông ấy

 

---------------------------------------------

(1) Ở Nhật, người chết thường được hỏa thiêu.

 

 sẽ nhận các lễ vật này.” “Nếu có một cái gọi là linh hồn như thế…,” chú bé nhấn mạnh, “ắt trong thân tôi đây cũng có một cái. Nó giống cái gì nào?”

 Chắc chắn đây không phải là những câu hỏi không thường xảy ra phát xuất từ một cậu bé bảy tuổi nhạy cảm và hay suy tư. Song đối với Bạt Tuy, đó chỉ là khởi đầu của một sự tự vấn kịch liệt không ngớt tiếp tục mãi cho đến lúc thành niên, thực ra, cho đến khi ông giác ngộ đầy đủ. Ngay cả trong khi chơi đùa với những đứa bé khác, chú bé cũng không bao giờ thoát khỏi những cái bất định về sự hiện hữu của linh hồn. Mối bận tâm tiên khởi về linh hồn tự nhiên đưa ông đến suy nghĩ về địa ngục. Trong thống khố vì sợ hãi ông đã kêu lên: “Ghê gớm thay phải bị thiêu cháy trong lửa địa ngục!” Và nước mắt ông dâng trào. Khi lên mười, ông kể lại, ông thường bị những tia chớp sáng ngời tràn ngập căn phòng đánh thức ông dậy, theo sau là bóng tối đen nghịt bao trùm. Lo lắng, ông tìm cách giải thích các hiện tượng kỳ lạ này nhưng những giải đáp đã có hiếm khi làm vơi được nỗi sợ hãi. Đã nhiều lần ông tự hỏi: “Nếu sau khi chết, linh hồn phải chịu những thống khổ nơi địa ngục hoặc được hưởng những vui vẻ nơi thiên đàng, thì bản tánh của linh hồn là gì? Nhưng nếu khônglinh hồn, thì cái gì trong ta mà mọi phút giây thấy và nghe?”

 Người viết tiểu sử của ông(2) kể lại rằng Bạt Tụy thường ngồi hàng giờ gặm nhấm câu hỏi này trong trạng thái quên mình hoàn toàn, không còn biết mình có thân hay tâm. Trong một cơ hội như thế - vào tuổi nào chúng ta

 

---------------------------------------------

(2) One Myodo, môn đệ của Bạt Tụy, vào ngày 05/05/1387, năm Bạt Tụy mất, đã xuất bản cuốn tiểu sử mà lời dẫn nhập này đã lấy tài liệu từ đó để viết.

 

không được biết – Bạt Tụy bỗng nhận ra bản chất của vạn vật là cái Không sinh động, và trong thể tính, không có cái gì có thể gọi là linh hồn, thân hay tâm. Nhận thức này khiến ông phá lên cười sâu thẳm và không còn cảm thấy thân tâm mình đè ép nữa.

 Trong nỗ lực để biết đây có phải là chân ngộ hay không, Bạt Tụy đã hỏi một số tu sĩ nổi tiếng, nhưng không một ai cho ông câu trả lời ưng ý. Ông tự bảo, “Dù sao ta cũng không còn nghi ngờchân lý của Pháp nữa!” Nhưng sự bối rối cơ bản của ông về cái người thấy và nghe vẫn không tiêu tan, và một hôm khi ông xem một cuốn sách phổ thông nói: “Tâm là chủ và thân là khách,” mối nghi ngờ im lặng của ông bỗng sống dậy. “Ta đã thấy rằng nền tảng của vũ trụ là Không, song cái gì bên trong ta có thể thấy và nghe đây?” ông lại tuyệt vọng tự hỏi. Bất chấp nỗ lực thế nào, ông cũng không thể loại bỏ được nghi vấn này. Trên danh nghĩa, Bạt Tụy là một samurai (chiến sĩ) sinh trong một gia đình samurai. Ông có thực sự làm bổn phận của một samurai hay không, người viết tiểu sử không cho biết, nhưng có thể kết luận chắc chắn rằng việc Bạt Tụy liên tục tìm kiếm các Thiền sư đã cho ông ít cơ hội và phỏng chừng cũng ít thú vị, vì cuộc sống của một samurai. Dù sao, chúng ta cũng biết được Bạt Tụy đã xuống tóc lúc hăm chín tuổi, tượng trưng cho việc ông gia nhập vào hàng tăng lữ Phật giáo. Song đối với các nghi thức của một tăng nhân, ông ít dùng đến và tin rằng một tăng nhân nên sống cuộc sống đơn giản, hiến mình cho sự theo đuổi chân lý tối thượng cũng như dẫn dắt người khác đến giải thoát, không tham dự các nghi lễnếp sống xa hoa, không kể đến âm mưu chính trị mà giới tu sĩ thời ấy rất quị lụy. Trong nhiều cuộc hành cước, ông bướng bỉnh từ chối ở lại bất cứ một ngôi chùa nào dù chỉ qua đêm, mà chỉ khăng khăng ở trong một cái am cô lập nào đó trên đồi cao hay trên núi. Để tỉnh táo ông thường leo lên cây, ngồi trên cành tư duy sâu xa về công án tự nhiên của mình: “Ai là ông chủ?” mãi tận trong đêm, bất chấp mưa gió. Đến sáng, hoàn toàn không ngủ, không ăn, ông đến chùa hay tự viện để tham vấn với thầy.

 Bạt Tụy không thích nghi thức tự viện mãnh liệt đến độ nhiều năm sau, khi ông đã trở thành sư của chùa Hướng Nhạc (Kogaku-ji) (3) ông vẫn khăng khăng gọi nó là am Hướng Nhạc (Kogaku-an), chữ am [cái lều] đối lập với chữ tự (chùa, tự viện) to lớn hơn nhiều.

 Trên đường hành cước, Bạt Tụy bỗng gặp được một Thiền sư mà nhờ đó, con mắt Tâm của ông mở ra trọn vẹnThiền sư Cô Phong (Koho), một Lão sư Thiền vĩ đại thời ấy. Các bậc kém hơn mà Bạt Tụy đã gặp để tìm sự hướng dẫn, tất cả đã ấn chứng sự giác ngộ của ông, nhưng Cô Phong biết Bạt Tụy có tâm sắc bén, nhạy cảm, có sức mạnh và sự thanh tịnh của khao khát tìm kiếm chân lý, đã không ấn chứng cho Bạt Tụy mà chỉ mời ông ở lại. Về phần mình,

Bạt Tụy thấy ở Cô Phong một bậc đại lão sư nhưng từ chối ở lại chùa, dựng một cái am cô độc ở vùng đồi núi gần chùa, và tháng sau hàng ngày đến gặp Cô Phong.

 Một hôm Cô Phong biết tâm của Bạt Tụy đã chín muồi, hỏi: “Hãy nói nghe, chữ Mu của Triệu Châu là gì?”

 Bạt Tụy đáp bằng bài kệ:

 

 Núi sông

 Cây cỏ Đồng hiển hiện Mu.

 Cô Phong đáp lại: “Lời ông đáp còn dấu vết của tự thức.”

 Tức khắc, người viết tiểu sử của ông kể lại, Bạt Tụy

 

----------------------------------------------

(3) “Hướng Nhạc” có nghĩa là hướng mặt về núi. Đây chỉ núi Phú Sĩ (Fuji) tượng trưng cho Chân Tâm, hàm ý nắm lấy Chân Tâm.

cảm thấy dường như mình “mất hết gốc rễ sự sống, tựa như cái thùng bị phá vỡ đáy.” Mồ hôi từ mọi lỗ chân lông trên thân ông bắt đầu tuôn ra, và khi từ giả Cô Phong, ông bị choáng váng đến nỗi va đầu dọc theo vách tường nhiều lần cố tìm lối ra ngôi chùa. Khi về đến am, ông khóc hàng giờ tận những vùng sâu thẳm nhất của mình. Nước mắt tuôn tràn, “chảy xuống mặt như mưa.” Trong sự bừng cháy tràn ngập của kinh nghiệm này, các ý tưởngniềm tin chấp trước của Bạt tụy bị hủy diệt hoàn toàn.

 Chiều hôm sau, Bạt Tụy đến kể cho Cô Phong nghe chuyện xảy ra. Khó mở miệng nổi khi Cô Phong, người đã tuyệt vọng vì tìm mãi không ra người thừa kế đích thực trong hàng tăng chúng của mình, đã tuyên bố: “Pháp của tôi sẽ không mất. Bây giờ tất cả có thể vui sướng, Pháp của tôi sẽ không mất.”

 Cô Phong chính thức ấn khả (inka) cho người môn đệ của mình và và ban cho tên Thiền là “Bạt Tụy” (cao trên bậc thường). Bạt Tụy ở lại gần gũi với Cô Phong hai tháng, nhận sự giáo huấn và hướng dẫn của thầy. Nhưng Bạt Tụy là người có tinh thần mạnh và độc lập, muốn phát triển kinh nghiệm sâu xa qua “Pháp chiến” với các bậc sư tài năng để kiện toàn kinh nghiệm của mình trong tâm thức và trong mọi hành vi, và để phát triển khả năng dạy người khác. Vì thế ông từ giã Cô Phong và tiếp tục sống các vùng núi đồi, rừng rú không xa các ngôi chùa của những bậc sư nổi tiếng. Mỗi lần ông tọa thiền hàng giờ.

 Bất cứ nơi nào Bạt Tụy lưu lại, những người có tâm nguyện nhiệt thành cũng nhanh chóng khám phá ra chỗ ông trú ngụ và tìm xin ông hướng dẫn. Nhưng cảm thấy mình chưa đủ sức mạnh tinh thần cần thiết để dẫn dắt người khác đến giải thoát, ông phản đối những nỗ lực tôn ông làm thầy. Khi sự khẩn cầu của họ trở nên phiền nhiễu quá, ông góp nhặt các vật tùy thuộc thanh bần của mình và biến mất trong đêm. Cách xa sự khẩn cầu của những môn sinh tương lai, song vẫn hạn chế nơi cư trú ở bất cứ chỗ nào để không trở thành bị ràng buộc vào đó. Cuối cùng – bấy giờ tuổi đã năm mươi – Bạt Tụy tự dựng một cái am sâu trong một ngọn núi gần thị trấn Enzen, phủ Yamanashi. Như đã xảy ra trong quá khứ, tin đồn lan rộng qua ngôi làng gần đó rằng trong núi hiện có một vị Bồ-tát, và những người tìm kiếm lại mò mẫm phát lối mở đường tìm đến am ông ở. Bấy giờ giác ngộ đã chín muồi và tự cảm thấy mình đã đủ khả năng dẫn dắt người khác đến giải thoát, ông không còn chạy trốn những người tìm kiếm này và tự ý chấp nhận tất cả những ai tìm đến. Chẳng bao lâu họ trở thành một nhóm khá đông, và viên tri phủ tặng một khu đất và những người theo ông đã xây lên ngôi chùa. Bạt Tụy đồng ý làm lão sư của chùa.

 Mặc dù Bạt Tụy không thích “tự”, “viện,” chùa Hướng Nhạc đã lên đến tột đỉnh, với hơn một ngàn tăng chúngtín đồ tại gia, khó có thể gọi là “am” được. Bạt Tụy là người giới luật nghiêm khắc. Ba mươi ba điều lệ ông đã ban bố cho môn đồ hành xử cũng đủ để quan tâm, đầu tiên là cấm uống rượu trong bất cứ hình thức nào.

 Ngay trước khi qua đời, lúc sáu mươi tuổi, Bạt Tụy ngồi kiết già và bảo những người tụ tập quanh ông: “Chớ nhầm lẫn! Hãy nhìn này! Cái gì đây?” Ông lớn tiếng lặp lại và an nhiên ra đi.

 Các phương pháp giảng dạy của mọi bậc thầy vĩ đại đương nhiên phát xuất từ nhân cách riêng của họ, từ vấn đề tinh thần khi họ kinh nghiệm và từ cách thực hành tọa thiền đã khai sinh ra sự giác ngộ của họ. Đối với Đạo Nguyên, các nỗ lực tôn giáo để đi đến tâm điểm vấn đề hoàn toàn khác với những cố gắng với Bạt Tụy, và sự giác ngộ của Đạo Nguyên đã đến không qua một công án thuộc bất cứ loại nào, chỉ quán đả tọa đã trở thành phương pháp giảng dạy chính yếu của ông. Mặt khác, công án tự nhiên của Bạt Tụy “Ai là ông chủ?”(4), và do đó, như chúng ta sẽ thấy trong các bức thư sau đây, ông thúc giục môn đồ dùng cách tọa thiền này. Hơn nữa, vì Bạt Tụy, cũng giống như Đạo Nguyên, không thể hoàn toàn hài lòng với ước mong sâu xa sự giải thoát qua giác ngộ nông cạn, mục tiêu ông nêu ra trong các bức thư này không thiếu sự giác ngộ trọn vẹn.

 Bạt Tụy không phải là người viết nhiều. Ngoài bài viết nói về Nhất Tâm và các bức thư này, ông chỉ viết có một tập lớn gọi là Wadeigassui (Nê Thủy: Bùn và Nước) đưa ra các nguyên tắc thực hành Phật giáo Thiền và một tác phẩm khác nhỏ hơn. Chỉ khi Bạt Tụy viết bài Nhất Tâm và các bức thư chưa được biết đầy đủ, vì không một bức thư nào mang ngày tháng, nhưng phỏng chừng chúng được viết sau khi ông trở thành sư chùa Hướng Nhạc. Hiển nhiên những người liên lạc thư thư từ với ông là các môn đồ hoặc vì bệnh nặng hoặc vì sống xa chùa, không thể đến nhiếp tâmđộc tham được. Chỉ những hoàn cảnh giảm khinh như thế và lòng hăng hái nhiệt thành của họ có thể khiến Bạt Tụy dạy họ bằng thư thay vì

bằng các phương pháp truyền thống.

 Thực ra, vài bức thư có tính cách lặp lại, nhưng điều này không thể tránh được, vì trong cốt tủy, Bạt Tụy đã cho mọi người liên lạc bằng thư với ông cùng một giáo lý như nhau. Song chỉ bằng cách lặp lại như thế mà Bạt Tụy, một bậc sư, làm sáng tỏ và nện trúng đích một cách tuyệt diệu

 

----------------------------------------------

(4) Tiếng Nhật shujin-ko (chủ nhân công) có nghĩa là người chồng (tức người gia trưởng), người sở hữu chủ, địa chủ, chủ công ty…đều gọi shujin (chủ nhân). Ko (công) là từ chỉ sự rất kính trọng, dùng để nói một lãnh chúa thời xưa ở Nhật. Do đó, “ông chủ” theo ý này, có nghĩa là cái đầu, trung tâm quyền lực, sức mạnh kiểm soát.

 

chủ đề bài Nhất Tâm của ông. Trong văn học Thiền, ít có tác phẩm do các bậc sư xuất chúng viết ra hoàn toàn nhằm mục đích thực hành hay phấn khích người đọc. Bạt Tụy nói với những người liên lạc thư từ với ông ở thế kỷ 14 mà như trực tiếp nói với người đọc ngày nay, lúc nào cũng hướng dẫn và phấn khích người đọc. Thêm vào đó là ý nghĩa bén nhọn của nghịch lý đi đôi với sự đơn giản sâu sắc đã làm cho bài thuyết pháp và các bức thư này phổ biến rộng rãi ở Nhật thẳng xuống đến ngày nay. Thiền sư Trạch Thủy (Takusui-zenji), một sư nổi tiếng thời Đức Xuyên (Tokugawa, 1603 – 1866), người giống như Triệu Châu, đã sống đến tuổi chín muồi 120 tuổi (và chính sư cũng là tác giả của một số thư Thiền) đã nồng nhiệt ca ngợi cả hai loại bài viết này là có giá trị không những cho những người sùng mộ mà cho cả các Thiền sư nữa.

 

 Hy vọng rằng với bản dịch này, lần đầu tiên sang tiếng Anh, các bài viết ấy sẽ được sự mến mộ như thế của các độc giả nói tiếng Anh nhiệt thành muốn hiểu và thực hành Thiền.

 

 

 

 

BÀI THUYẾT PHÁP

 

 Muốn tự mình thoát khỏi những đau khổ trong Sáu Nẻo(5), phải biết con đường trực chỉ thành Phật. Con đường này không gì khác hơn là nhận ra Tâm mình. Bây giờ Tâm này là cái gì? Nó là bản tánh chân thật của tất cả chúng sanh. Nó hiện hữu trước khi cha mẹ sinh ra, và bây giờ nó đang hiện hữu, bất biếnthường hằng. Vì thế nó được gọi là Bộ mặt trước khi cha sinh mẹ đẻ. Tâm này vốn trong sạch. Khi ta sinh ra nó không phải mới tạo, và khi ta chết nó không biến mất. Nó không không biệt nam nữ, không nhuốm màu thiện ác. Không thể so sánh nó với bất cứ vật gì, vì thế nó được gọi là Phật tánh. Song vô số tư niệm phát xuất từ Tự tánh này giống như những làn sóng trên đại dương, hay các hình ảnh phản chiếu trong gương.

 Muốn nhận ra Tâm mình trước hết phải nhìn vào cái nguồn phát ra tư niệm. Lúc ngủ cũng như lúc thức, lúc đứng cũng như lúc ngồi, hãy tự hỏi sâu xa, “Tâm mình là cái gì?” với khát vọng kịch liệt muốn giải quyết vấn đề. Đây gọi là “tu” hay “hành” hay “khát vọng chân lý” hay “khao khát giác ngộ.” Những gì gọi là tọa thiền không gì khác hơn là nhìn vào tâm mình. Sùng mộ tìm kiếm tâm mình còn tốt hơn là hàng ngày đọc vô số kinh chú trong vô số năm. Những cố gắngtính cách hình thức như thế có thể sản sinh ra một công đức nào đó, nhưng khi công đức này tiêu tán, lại phải trải qua những đau khổ của Ba đường ác(6), bởi vì việc tìm kiếm tâm mình cuối cùng sẽ đưa đến

 

---------------------------------------------

(5) Sáu nẻo (luân hồi): Trời, thần (A tu la), người, địa ngục, ma đói (ngạ quỉ), và thú vật (súc sinh). 

(6) Ba đường ác: Địa ngục, ma đói, và thú vật.

giác ngộ, sự tu tập này là điều kiện tiên quyết để trở thành Phật. Dẫu có phạm Mười điều ác(7) hay Năm tội chết(8), song nếu biết hồi tâm tự ngộ thì tức khắc là Phật.

 Nhưng đừng phạm các tội rồi mong được giác ngộ cứu vớt [vì hậu quả của những hành động của mình. Không giác ngộ nào,] không Phật nào Tổ nào có thể cứu vớt được một người tự mê hoặc mình đi vào đường ác.

 Hãy tưởng tượng một đứa bé nằm ngủ bên cạnh cha mẹ nó và mơ thấy mình bị đánh hay bị bịnh hoạn đau đớn. Cha mẹ không thể giúp gì được đứa con dù nó đau khổ đến đâu, vì không ai có thể đi vào tâm mơ của người khác. Nếu đứa con có thể tự tỉnh giấc, nó có thể tự mình thoát khỏi đau khổ. Cũng vậy, một người nhận ra rằng Tâm mình là Phật, tức khắc tự thoát khỏi những đau khổ phát sinh từ sự biến dịch không ngừng trong Sáu Nẻo. Nếu Phật có thể ngăn hận được thì Ngài có để cho một chúng sinh nào rơi vào địa ngục không?(9)

 Không Tự ngộ, người ta cũng không thể hiểu được những điều như thế này.

 Loại “ông chủ” nào mà ngay bây giờ thấy màu sắc bằng mắt, nghe tiếng nói bằng tai, vẫy tay, động chân? Chúng ta biết đây là những chức năng của tâm mình, nhưng

không ai biết rõ chúng được thực hiện như thế nào. Có thể

 

-----------------------------------------------

 (7) Mười điều ác: Sát sinh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, vọng ngữ, nói xấu, vu khống, tham lam, giận dữ, và tà kiến.

(8) Năm tội chết (ngũ nghịch): Giết cha, giết mẹ, giết A la hán, đả thương Phật, phá hoại sự hòa hợp của tăng già.

(9) Những gì ở đây ám chỉ là chư Phật không phải là những bậc siêu nhiên có thể ngăn chận sự rơi xuống địa ngục bằng cách ban cho giác ngộ; sự giác ngộ, nhờ đó người ta có thể được cứu thoát khỏi đau khổ của một số phận như thế, chỉ có thể đạt được nhờ những nỗ lực của chính mình.

 

khẳng định rằng phía sau những hành động này không có một thực thể nào cả, song rõ ràng chúng được thực hiện một cách tức thời. Trái lại, có thể nói rằng đây là những động tác của một thực thể nào đó, song thực thể này không thể thấy được. Nếu người ta cho rằng vấn đề này không thể suy lường được, tất cả mọi cố gắng suy luận sẽ ngừng lại và người ta không biết sẽ phải làm gì. Trong tình trạng thuận lợi này, lòng khao khát ngày càng phát triển sâu hơn, sâu hơn không mệt mỏi, đến cực điểm. Khi sự hỏi thâm nhập sâu đến tận đáy, và cái đáy bị vỡ ra, không còn nghi ngờ nào, thì Tâm mình chính là Phật, là Không giới. Bấy giờ sẽ không còn lo âu về sinh tử, sẽ không còn chân lý nào để cầu tìm.

 Trong mộng mình có thể bị lạc đường, mất lối trở về nhà. Hỏi ai chỉ cho lối về, hoặc cầu Thượng đế, cầu Phật phù hộ, nhưng vẫn không thể về nhà được. Song, một khi tự tỉnh khỏi mộng, sẽ thấy mình đang ở trên giường và sẽ nhận ra rằng con đường duy nhất có thể trở về nhà được là tự tỉnh. Đây gọi là “trở về nguồn” hay “tái sinh cõi trời.” Nó là loại nội thức chỉ có thể đạt được qua tu luyện. Thực ra, tất cả những ai tọa thiềnnỗ lực thực hành, dù cư sĩ hay tăng nhân, đều có thể kinh nghiệm đến độ này. Song không thể nào đạt được dù chỉ là sự thức tỉnh như thế ngoại trừ bằng tọa thiền. Nhưng nếu cho rằng đây là chân ngộ mà không nghi ngờ gì về bản chất của thực tại ắt sẽ vấp phải sai lầm nghiêm trọng. Giống như kẻ tìm thấy đồng bèn bỏ ước mơ tìm thấy vàng.

 Khi đã nhận ra như thế, hãy tự hỏi kịch liệt hơn nữa như vầy: “Thân này như bóng ma, như bọt nước; tâm này, nhìn vào tự thể, không hình dạng như hư không, song nơi nào trong đó bên trong lại nhận thức được âm thanh. Ai đang nghe?” Nếu cứ tự hỏi như thế với sự thấm nhập sâu xa, không lúc nào buông lơi nỗ lực kịch liệt của mình, thì tâm lý luận đương nhiên sẽ tự kiệt quệ và chỉ còn lại nghi vấn ở tần mức sâu nhất. Cuối cùng, sẽ mất ý thức về thân này. Những khái niệm và quan niệm chấp trước lâu đời sẽ biến mất, sau khi sự tra vấn đã đến tuyệt đối, theo cách mọi giọt nước biến mất từ cái bình vỡ đáy, và giác ngộ viên mãn sẽ theo sau như hoa bỗng nở ra trên cây khô héo. Nhận ra như thế là đạt chân giải thoát. Nhưng ngay cả lúc bấy giờ cũng phải vứt bỏ nhiều lần những gì đã thức ngộ được, quay lưng lại với chủ thể nhận thức, tức là với căn để, và cương quyết tiếp tục, rồi Tự tánh mình sẽ trở nên sáng hơn, trong suốt hơn, khi các vọng cảm biến mất, tựa như viên ngọc được sáng lại nhờ mài dũa nhiều lần, cho đến cuối cùng, nó sẽ tự chiếu sáng cả vũ trụ. Đừng nghi ngờ điều ấy! Nếu khát vọng quá yếu, không đưa được mình đến trạng thái ấy trong kiếp này, chắc chắn sẽ đạt Tự ngộ đễ dàng trong kiếp sau, miễn là mình vẫn tra vấn như thế ngay cả trong lúc chết, giống như việc làm nửa chừng ngày hôm qua sẽ được hoàn thành dễ dàng vào hôm nay. Trong tọa thiền, đừng khinh khi cũng đừng ấp ủ các tư niệm xuất hiện, chỉ cần tìm Tâm thôi vì nó chính là nguồn phát sinh các tư niệm này. Phải hiểu rằng bất cứ cái gì xuất hiện trong ý thức hay thấy dược bằng mắt đều chỉ là hư vọng, không có thực thể tồn tại. Vì thế, không nên luyến ái cũng không nên sợ hãi các hiện tượng như thế. Nếu giữ được tâm trống rỗng như hư không, không mang vết tích của những vấn đề bên ngoài, sẽ không có quỉ thần nào quấy rầy mình được, ngay cả lúc trên giường chết. Tuy nhiên, trong lúc tham thiền nhập định chớ có giữ những lời khuyên này trong tâm. Chỉ nên trở thành câu hỏi: “Tâm này là cái gì?” hoặc “Cái gì đang nghe âm thanh đây?” Khi nhận ra Tâm này sẽ biết rằng chính nó là nguồn của chư Phật và chúng sinh. Bồ-tát Quan Âm [Avalokitesvara] được gọi như vậy vì ngài đã đạt được giác ngộ bằng cách nhận thức âm thanh của thế giới quanh mình.

 Lúc làm việc, lúc nghỉ ngơi đừng bao giờ ngừng cố gắng nhận thức ai đang nghe đây. Dù cho nghi vấn hầu như đã trở thành vô thức, cũng sẽ không tìm ra ai là người nghe, và tất cả mọi nỗ lực của mình sẽ trở thành con số không. Song âm thanh vẫn cứ được nghe, vì thế hãy tự hỏi đến tầng mức sâu hơn nữa, cuối cùng mọi vết tích của tự thức sẽ biến mất và sẽ cảm thấy mình như bầu trời không mây. Sẽ không tìm thấy trong mình cái “tôi” và sẽ không tìm ra ai nghe cả. Tâm này giống như hư không, song nó không có một điểm nhỏ nào có thể gọi là trống không cả. Trạng thái này thường bị lầm cho là Tự ngộ. Nhưng hãy tiếp tục tự hỏi kịch liệt hơn nữa: “Bây giờ ai nghe đây?” Nếu chịu đi sâu, đi sâu vào câu hỏi này, quên hết mọi sự vật khác, ngay cả cảm giác trống không này cũng sẽ biến mất và sẽ không ý thức được vật gì cả - sự u tối sẽ hoàn toàn chiếm ưu thế. Cứ tiếp tục hỏi với tất cả sức lực của mình: “Cái gì đang nghe đây?” Chỉ khi nào sự hỏi đã kiệt quệ thì câu hỏi sẽ nổ ra, lúc ấy sẽ cảm thấy mình giống như từ cõi chết trở về. Đây là chân ngộ. Lúc bấy giờ sẽ gặp được chư Phật mười phương, chư Tổ quá khứhiện tại, mặt đối mặt. Hãy tự trắc nghiệm mình bằng công án này: “Một ông tăng hỏi Triệu Châu: Bồ-đề Đạt-ma đến Trung quốcý nghĩa gì? Triệu Châu đáp: Cây bách trước sân.”(10) Nếu công án này còn để lại chút nghi ngờ nào, thì hãy bắt đầu hỏi lại: “Cái gì đang nghe đây?”

 Nếu kiếp này chưa ngộ thì kiếp nào mới ngộ? Một khi đã chết thì không thể tránh được đau khổ lâu dài trong

 

---------------------------------------

(10) Vô Môn Quan, tắc 37.

 

Ba đường ác(11). Cái gì đang cản trở ngộ? Không cái gì cả

trừ lòng mong ước nửa vời của mình đối với chân lý. Hãy suy nghĩ điều này và tận lực bình sanh.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

---------------------------------------

 (11) Theo giáo lý Phật giáo, giác ngộ chỉ có thể đạt được với thân người. Những gì ở đây và trong đoạn trước muốn nói là, nếu một người mất đi thân hình người của y, và với nó là cơ hội để giác ngộ và đạt các cảnh giới cao hơn của thức, y sẽ chịu đau khổ lâu dài trong các cảnh tồn sinh thấp hơn người.

 

CÁC BỨC THƯ


1. GỬI MỘT NGƯỜI TỪ KUMASAKA

 

Ông yêu cầu tôi viết cho ông làm sao thực hành Thiền trên giường bệnh? Ai là người bị bệnh? Ai là người thực hành Thiền? Ông có biết ông là ai không? Toàn thể con người của một người là Phật tánh. Toàn thể con người của một người là Đại đạo. Bản thể của Đạo này vốn thanh tịnhsiêu việt mọi hình thể. Trong ấy có bịnh gì? Tâm của con ngườiBản thể cốt yếu của chư Phật, là Bộ mặt trước khi cha mẹ sinh ra. Nó là chủ thể của thấy và nghe, của tất cả các giác quan. Một người nhận ra trọn vẹn điều này là một vị Phật, một người không nhận ra như thế là một người thường. Vì thế, chư Phật và chư Tổ chỉ thẳng vào tâm con người để họ có thể thấy được Tự tánh của họ và nhờ đó thành Phật. Phương thuốc chữa trị hay nhất cho một người bị bóng tối làm cho tối tăm là nhìn thấy vật thật.

Một hôm, một người được bạn mời đến nhà chơi. Khi sắp uống ly rượu mời, y tin rằng mình đã nhìn thấy một con rắn nhỏ trong ly rượu. Không muốn làm chủ nhân bối rối bằng cách lôi kéo sự chú ý vào đó, y dũng cảm nuốt luôn con rắn. Khi về đến nhà, y cảm thấy đau ở dạ dày. Nhiều phương thuốc đã được dùng nhưng vô hiệu. Bấy giờ người bệnh càng trầm trọng và y cảm thấy mình sắp chết. Người bạn kia nghe tình thế của bạn, bèn yêu cầu bạn viếng nhà mình một lần nữa. Đặt bạn ngồi y chỗ hôm trước và lại mời bạn một ly rượu nữa, bảo đó là thuốc chữa. Khi người bệnh nâng ly lên uống, một lần nữa y lại thấy con rắn nhỏ trong ly. Lần này y lôi kéo sự chú ý của chủ nhân. Không nói tiếng nào, người chủ chỉ tay lên trần nhà bên trên chỗ khách đang ngồi, nơi có treo cây cung. Bỗng người bệnh nhận ra rằng “con rắn nhỏ” là phản ảnh của cây cung ấy. Cả hai nhìn nhau cười lớn. Sự đau đớn của người bệnh tức khắc tiêu tan và y lấy lại sức khỏe.

 Trở thành Phật cũng giống như thế. Tổ Vĩnh Gia nói: “Khi nhận ra chân tánh của vũ trụ, sẽ biết rằng không có chủ cũng không có khách. Ngay giây phút ấy, cái tạo nghiệp đưa mình xuống địa ngục thấp nhất sẽ bị xóa sạch.”(12) Chân tánh này là bản thể căn nguyên của mọi chúng sanh. Song con người không thể tự khiến mình tin rằng Tâm mình chính là Đại Viên Mãn đã được Phật nhận ra, vì thế họ bám víu vào các hình thức bề ngoài là tìm chân lý bên ngoài tâm này, cố thành Phật qua các hình thức khổ tu. Nhưng khi cái ta hư vọng chưa biến mất, con người phải chịu sự đau khổ kịch liệt trong ba giới. Giống như người bị bệnh tin rằng mình đã nuốt con rắn. Thuốc thang nhiều nhưng vô hiệu, người ấy bình phục tức khắc khi nhận ra sự thật cơ bản

Như thế chỉ cần nhìn thấy Tâm mình – không ai giúp được mình bằng phương thuốc vạn năng. Trong kinh Phật nói: “Nếu muốn loại bỏ kẻ thù, ông chỉ cần nhận ra rằng kẻ thù ấy là mê hoặc.” Tất cả mọi hiên tượng trong thế gian đều hư vọng, chúng không có bản thể thường còn, chúng sinh cũng như Phật đều giống như ảnh phản chiếu trong nước. Một người không nhìn thấy chân tánh của sự vật sẽ lầm cho bóng là bản thể. Nói thế có nghĩa là trong tọa thiền, trạng thái trống vắng, tịch tĩnh kết quả của sự loại

trừ tư niệm thường bị lầm cho là Bộ mặt trước khi cha sinh

 

--------------------------------------------

(12) Nguyên Hán văn trong “Chứng Đạo Ca” của Thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác, người được Lục Tổ Huệ Năng ấn chứng ngay lần đầu tiên đến gặp Tổ:

 “Chứng thật tướng vô nhân pháp

 Sát na diệt khước A-tì nghiệp.”

mẹ đẻ. Nhưng sự tịch tĩnh này cũng chỉ là phản ảnh chiếu trên mặt nước. Phải vượt qua giai đoạn mà lý trí không ích dụng gì. Tại cực điểm không biết phải làm gì này, hãy hỏi: “Ai là ông chủ?” Ông chủ sẽ trở thành bạn thân chỉ sau khi bẻ gãy cây gậy làm bằng sừng thỏ hay phá tan cục băng trong lửa. Bây giờ hãy nói tôi nghe ai là bạn thân nhất của ông? Hôm nay là mùng tám, mai là mười ba.

 

 

2. GỬI SƯ BÀ CHÙA SHINRYU

 

Để trở thành Phật, bà phải khám phá ra ai là người muốn thành Phật. Để biết người chủ này, bà phải nhập sâu vào chính bà ngay tại đây và bây giờ bằng cách hỏi: “Cái gì đang nghĩ thiện và ác, đang thấy, đang nghe?” Nếu tự hỏi sâu xa như thế, chắc chắn bà sẽ tự ngộ. Nếu tự ngộ được, tức khắc bà là Phật.

Tâm mà chư Phật nhận ra trong giác ngộ là Tâm của tất cả chúng sinh. Bản thể Tâm này thanh tịnh và hài hòa với tất cả chung quanh. Trong thân của người nữ, nó không có hình thức giống cái, trong thân của người nam, nó không có tướng giống đực. Nó không tầm thường ngay trong thân hạng hạ lưu, nó cũng không hùng tráng trong thân hàng quí phái. Giống như hư không vô biên, nó không có chút gì màu sắc. Thế giới vật chất có thể bị hoại diệt, nhưng hư không vô hình, vô sắc không thể bị hoại diệt. Tâm này giống như hư không, bao trùm tất cả. Nó không xuất hiện với sự hình thành của thân, nó cũng không biến mất với sự phân tán của thân. Dù không thấy được, nó tràn ngập thân ta, mỗi động tác thấy, nghe, ngửi, nói hay cử động chân tay cũng chỉ là hoạt động của Tâm này. Bất cứ ai đi tìm Phật và Chân lý bên ngoài Tâm này đều là mê hoặc. Bất cứ ai trực nhận ra bản tánh tự nội của mình rõ ràngbản tánh tự nội của Phật thì chính người ấy là Phật. Không có Phật nào không nhận ra Tâm này và mọi chúng sinh rốt ráo trong Sáu Nẻo [Lục đạo] cũng vốn sẵn có trọn vẹn Tâm này. Lời Kinh nói: “Ở Phật chẳng có phân biệt nào cả” xác nhận điều ấy.

Những ai đã nhận ra Tâm này, trở thành Phật, đều muốn cho loài người biết nó. Nhưng con người ngu dại bám víu vào các hình thức bên ngoài, thấy khó tin vào Pháp thân vô sở trụ này. Để đặt tên nó, chư Phật dùng những ẩn ngữ như: “Ngọc như ý,” “Đại đạo,” “Phật A-di-đà,” “Phật Vô thượng Tri thức,” “Địa Tạng,”(13) “Quan Âm,” “Phổ Hiền,” “Bản lai diện mục.” Bồ-tát Địa Tạng là người dẫn đường qua sáu nẻo luân hồi, kiểm soát sáu thức. Mọi hình dung từ chỉ một vị Phật hay một vị Bồ- tát chỉ là những chỉ danh khác của Nhất Tâm. Nếu ai tin vào Tâm Phật của mình thì cũng như tin vào chư Phật. Vì thế, trong kinh viết: “Ba giới chỉ là Nhất Tâm,” Phật và chúng sinh chỉ là một, không có gì sai khác.

 Vì kinh chỉ nói đến Tâm này, nhận ra nó là hoàn tất việc đọc và hiểu tất cả các kinh một cái một. Kinh nói: “Lời dạy của các kinh giống như ngón tay chỉ mặt trăng.” Bây giờ, những lời dạy ấy là lời thuyết pháp mà tất cả chư Phật đã rao giảng, “Chỉ mặt trăng” là chỉ Nhất Tâm của chúng sinh. Nói rằng mặt trăng chiếu sáng cả hai bên trái đất thì cũng như nói Nhất Tâm chiếu sáng cả thế giới bên trong lẫn bên ngoài. Rồi khi nói rằng tụng kinh mang lại công đức to lớn, nói như thế cũng có nghĩa như điều vừa nói,

 

--------------------------------------------

(13) Bồ-tát Địa Tạng (Jizo) luôn luôn chiếm một chỗ đặc biệt trong tim của Phật tử Nhật bản, có lẽ đây là lý do tại sao Bạt Tụy, dường như là một cách tri ân, nêu riêng vị Bồ-tát này.

 

không có gì khác.(14)

 Lại nữa, nói rằng người ta có thể thành Phật qua sự thờ cúng Phật, nhưng thành Phật chỉ có nghĩa là nhận ra Tâm này. Như thế, công đức của sự nhận ra Nhất Tâm này trong một niệm còn vô cùng to lớn hơn là tụng kinh mười ngàn ngày, chỉ nhận thức Tâm mình trong một niệm thì cũng to lớn hơn vô song là nghe một vạn năm tại sao như thế. Nhưng chỉ khi một người phải tiến từ nông đến sâu từng bước một, hoặc lầm lẫn hoặc trì độn thì hăng hái tụng kinh hay niệm Phật danh cũng là phúc lành cho người mới tu. Họ giống như người đi bè hay đi thuyền bước đầu. Nhưng nếu họ không khao khát tiến đến bờ giác, tự bằng lòng ở lại trên bè, ấy là họ tự lừa dối mình. Phật Thích-ca Mâu-ni chịu nhiều khổ hạnh song đã không thể thành Phật được. Sau đó, Ngài tọa thiền trong sáu năm, từ bỏ mọi thứ khác và cuối cùng đã nhận ra Nhất Tâm này. Sau khi giác ngộ viên mãn, vì tất cả loài người, Ngài đã thuyết pháp về Tâm mà Ngài đã nhận ra. Những bài thuyết pháp này được gọi là kinh và đó là những lời phát xuất từ Giác Tâm của Phật.

Tâm này tiềm ẩn nơi mọi người, nó là chủ của sáu thức. Hậu quảnguyên nhân của tội lỗi biến mất trong chớp mắt như băng bỏ vào nước sôi, khi người ta giác ngộ Tâm này. Chỉ sau khi đạt nội kiến trực tiếp như thế, bà mới có thể chắc chắn rằng Tâm mình chính là Phật. Tâm thể vốn sáng láng và không tỳ vết, trong ấy không có sự phân biệt Phật và chúng sinh. Nhưng sự sáng láng của nó bị vọng

niệm che phủ y như ánh sáng của mặt trời hay mặt trăng che mờ. Nhưng các vọng niệm như thế chỉ có thể loại bỏ

 

---------------------------------------------

(14) Ở đây ý các kinh muốn nói rằng bản thân các kinh không phải là chân lý mà chỉ như là mũi tên nhắm vào chân lý mà thôi.

 

được bằng định lực tọa thiền giống như mây chỉ có thể đánh tan được bằng cơn gió mạnh. Một khi vọng niệm biến mất thì Phật tánh tự hiển hiện, giống như mặt trăng ló ra khi mây mù tan biến. Ánh sáng ấy bao giờ cũng hiện diện, không phải từ bên ngoài vào.

Muốn thoát khỏi sự đọa lạc trong Sáu Nẻo luân hồi hay vòng sanh tử, bà phải tận diệt các tình cảm và nhận thức mê hoặc của mình. Muốn tận diệt chúng, bà phải nhận ra Tâm này, bà phải thực hành tọa thiền. Bà thực hành như thế nào là điều quan trọng nhất. Bà phải thâm nhập công án đến tận tâm điểm. Nền móng của mọi công án là Tâm mình. Mong ước sâu xa nhận ra Tâm này gọi là “Tham cầu chân lý” hay “Khao khát giác ngộ.” Kẻ nào sợ bị đọa địa ngục(15) một cách sâu xa là khôn. Chỉ vì ít biết sợ địa ngục mà người ta không tham cầu giáo lý của Phật.

 Có một vị Bồ-tát đạt giác ngộ bằng cách tập trung chú ý vào mọi âm thanh nghe được vì thế Phật Thích-ca Mâu-ni gọi vị ấy là Quan Âm(16). Nếu muốn biết bản thể của Tâm Phật thì ngay lúc bà nghe được một âm thanh bà hãy tìm người nghe này. Như thế chắc chắn sẽ đến lúc bà nhận ra rằng Tâm bà không khác với Tâm của Quan Âm, Tâm này không hiện hữu cũng không phải không hiện hữu. Nó siêu việt tất cả mọi hình tướng song cũng không tách rời hình tướng.

--------------------------------------------

(15) Câu này và câu kế ám chỉ bình diện tồn sinh hay trạng thái của thức gọi là địa ngục thì đầy đau đớn hành hạ, và đó là sự sợ hãi phải rơi vào cuộc sống khốn cùng, như thế chính sự sợ hãi ấy phát sinh niềm khát vọng Tự ngộ. Vì chính sự giác ngộ xóa tan nỗi sợ hãi về địa ngục.

(16) Quan Âm (Kannon) là tiếng gọi tắt của Quan Thế Âm (Kanzeon), có nghĩa là “người nghe (hay người quan tâm) tiếng kêu thương của thế gian.” Đôi khi Bạt Tụy dùng chữ “Quan Thế Âm” và đôi khi dùng chữ “Quan Âm.” Để tránh gây bối rối, chúng tôi chỉ dùng chữ “Quan Âm.”

Đừng cố ngăn chận tư niệm xuất hiện cũng đừng cố bám vào tư niệm nào đã xuất hiện. Hãy để tư niệm hiện ra và biến mất như ý chúng, đừng đấu tranh với chúng. Bà chỉ cần không ngớt và toàn tâm tự hỏi: “Tâm tôi là cái gì?” Tôi cứ thúc giục điều này bởi vì tôi muốn đưa bà đến Tự ngộ. Khi bà khăng khăng cố hiểu cái gì ở bên kia lãnh vực lý trí ngự trị là bà sắp đến ngõ cụt, hoàn toàn thất bại. Nhưng hãy tiến tới. Ngồi hay đứng, làm việc hay ngủ, hãy dò tìm không mệt mỏi tự ngã sâu thẳm nhất của bà bằng cách hỏi: “Tâm tôi là cái gì?” Không sợ gì hết trừ không kinh nghiệm Chân Tánh mình. Đây là thực hành Thiền. Khi sự tra vấn kịch liệt này bao trùm khắp mọi phần nhỏ của con người bà và thâm nhập đến tận đáy của mọi đáy, câu hỏi sẽ bỗng nhiên bùng vỡ và Bản thể của Phật Tâm sẽ hiện ra, y như chiếc gương trong cái hộp chỉ có thể phản chiếu sau khi cái hộp đã tan tành. Hào quang của Tâm này sẽ chiếu sáng khắp mọi xó góc của vũ trụ hoàn toàn không tỳ vết. Cuối cùng, bà sẽ giải thoát mọi trói buộc trong Sáu Nẻo, tất cả hậu quả của những hành động xấu đều biến mất. Niềm vui của giây phút ấy không thể nói được bằng lời.

 Hãy xem một người đau khổ kịch liệt trong mộng, bị rơi xuống địa ngục, bị hành hạ. Một khi tỉnh giấc, sự đau khổ không còn nữa vì bây giờ người ấy đã thoát khỏi mê hoặc. Cũng thế, qua Tự ngộ người ta giải thoát mình khỏi những đau khổ của sanh và tử. Đối với giác ngộ, không cần phải sinh ra trong hàng quí tộc hay học vấn uyên bác, mà chỉ cần quyết tâm mãnh liệt là thiết yếu. Chư Phật đều có cùng một quan hệ với chúng sinh như nước với băng. Băng, giống như đá hay gạch, không thể chảy được. Nhưng khi đã tan ra, nó chảy tùy thích với mọi vật chung quanh. Bao lâu bà còn ở trong trạng thái mê hoặc thì bà giống như băng. Khi đã giác ngộ, bà trở nên tuyệt diệu như nước. Và hãy nhớ không có băng nào không trở lại thành nước. Như thế bà hiểu không có gì khác biệt giữa chúng sinh và Phật trừ một điều – mê hoặc. Khi mê hoặc tiêu tan, tất cả đồng nhất.

 Đừng để mình trở nên chán nản. Nếu bà còn thiếu khát vọng về chân lý, có thể bà không đạt giác ngộ trong kiếp này. Nhưng nếu thực hành Thiền(17) một cách thành tín ngay cả trong lúc chết, chắc chắn bà sẽ đạt được giác ngộ trong kiếp tới. Nhưng đừng có lêu lỏng. Hãy tưởng tượng bà đang ở trên giường chết ngay giây phút này. Ai có thể giúp bà được? Ai có thể ngăn được bà khỏi rơi xuống địa ngục vì những tội lỗi bà đã phạm phải? May thay có một con đường đưa đến giải thoát. Từ tận cội rễ mình, bà hãy tự hỏi một câu duy nhất: “Phật tâm của tôi là cái gì?” Nếu trong chớp mắt, bà thấy được Bản thể của chư Phật, ấy là bà nhận ra Tâm mình.

 Những gì tôi nói thực hay giả? Hãy tự hỏi ngay: Phật Tâm của tôi là cái gì?” Khi bà giác ngộ, hoa sen sẽ nở trong lửa reo và thường còn mãi mãi. Con người không khác với hoa sen ấy. Tại sao bà không thể nắm được cái này?

 

3. GỬI LÃNH CHÚA NAKAMURA,

 TRI PHỦ AKI

 

Ngài hỏi tôi thực hành Thiền như thế nào với câu kinh tham khảo: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.”(18)

 

----------------------------------------------

(17) Tức là hỏi: “Bản thể chân thực của Tâm tôi là gì?”

(18) Câu này dẫn từ Kinh Kim Cang, có nghĩa là: Khi khởi dụng tâm chớ để vướng mắc ở bất cứ chỗ nào. Nói theo Lục Tổ Huệ Năng là: Ngoài không dính tướng, trong không dính không.

 

Không có phương pháp nào để đạt ngộ cấp tốc cả. Nếu ngài cứ nhìn thẳng vào Tự tánh, không để mình xiên lệch, hoa Tâm sẽ đến kỳ nở ra, vì thế kinh nói: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.”

Hàng nghìn lời của Phật và chư Tổ có thể tóm gọn trong một câu này. Tâm là Chân tánh của sự vật, siêu việt tất cả mọi hình tướng. Chân tánh là Đạo. Đạo là Phật. Phật là Tâm. Tâm không ở trong, không ở ngoài cũng không ở giữa. Nó không phải hữu, không phải vô, không phải phi hữu, không phải phi vô hay Phật hay tâm hay vật. Vì thế gọi nó là Tâm không chỗ trụ. Tâm này thấy màu sắc bằng mắt, nghe âm thanh bằng tai. Hãy tìm ngay người chủ này.

Một Thiền sư xưa [Lâm Tế] nói: “Thân người hợp bởi bốn đại(19) không thể nghe hay hiểu được giáo lý này. Hư không trống trơn cũng không thể nghe hay hiểu được giáo lý này. Thế thì cái gì nghe và hiểu?” Hãy cố trực nhận tâm này, nếu ngài còn vướng mắc vào bất kỳ hình tướng nào, hay cảm thấy bất cứ điều gì hoặc do lý luận hoặc do suy tư tạo thành thì ngài còn cách xa ngộ như trời xa đất.

Làm sao chỉ một nhát ngài có thể cắt đứt hết đau khổ của sinh tử? Ngay khi ngài xem làm sao để tiến tới là ngài lạc đã mất trong lý luận, nhưng nếu ngài từ bỏ là ngài phản lại con đường vô thượng. Không thể tiến tới cũng không thể từ bỏ thì chỉ là “cái xác biết thở.” Nếu bất chấp tình trạng lưỡng nan này mà ngài cứ làm cho tâm trống hết tất cả mọi tư niệm và tiến tới bằng thực hành tọa thiền là ngài sắp giác ngộ và hiểu được câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.” Tức khắc ngài nắm được ý nghĩa của tất cả mọi cuộc đối thoại Thiền cũng như ý nghĩa thâm sâu của vô số kinh.

----------------------------------------------

 (19) Bốn đại: đất (chất rắn), nước (chất lỏng), gió (khí), và lửa (nhiệt).

Bàng cư sĩ (Ho koji) hỏi Mã Tổ (Baso): “Cái gì siêu việt vạn vật trong vũ trụ?” Mã Tổ đáp: “Khi nào ông một hớp uống hết cả nước Giang tây(20), tôi sẽ nói với ông.” Ngay lúc ấy Bàng cư sĩ thâm ngộ. Hãy xem chuyện ấy có nghĩa là gì? Có phải nó giải thích câu: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm,” hay nó chỉ thẳng người đọc câu này. Nếu ngài vẫn còn chưa hiểu, hãy quay trở lại hỏi: “Cái gì đang nghe đây?” Hãy tìm cho ra ngay giây phút này! Chuyện sanh tử khẩn cấp và thế gian biến đổi nhanh chóng vô chừng. Hãy tận dụng thời gian vì nó không chờ ai cả.

Tâm ngài vốn là Phật. Phật là người nhận ra Tâm này. Những ai không nhận rachúng sanh tầm thường. Ngủ cũng như thức, đứng cũng như ngồi, hãy tự hỏi: “Tâm tôi là cái gì?” hãy nhìn vào nguồn phát ra tư niệm. Chủ thể này là cái gì mà hiện đang nhận biết, ngài hãy tự thấm nhập kịch liệt vào câu hỏi. Dù cho ngài không nhận ra nó trong kiếp này, chắc chắn ngài sẽ nhận ra nó trong kiếp sau, vì những nỗ lực trong hiện tại.

 Trong lúc tọa thiền chớ nghĩ đến thiện ác. Đừng cố chận đứng không cho tư niệm xuất hiện, chỉ tự hỏi: “Tâm tôi là cái gì?” Bấy giờ, ngay cả khi sự hỏi càng lúc càng sâu hơn, ngài cũng sẽ không có được câu trả lời, cho đến cuối cùng ngài sẽ đến ngõ cụt, suy nghĩ hoàn toàn bị tắc nghẽn, ngài sẽ thấy bên trong không có cái gì có thể gọi là “tôi” hay “Tâm” cả. Nhưng ai là người hiểu tất cả việc này? Hãy tiếp tục thăm dò sâu hơn nữa, và tâm nhận ra không có cái

gì này sẽ biến mất. Ngài sẽ nhận ra không Phật nào ngoài Tâm và không Tâm nào ngoài Phật. Bây giờ, lần đầu tiên

---------------------------------------------

(20) Giang tây là tên một con sông lớn ở Trung hoa. Một dị bản của công án này nói: “Bàng cư sĩ trả lời: “Con một hớp đã uống hết nước Giang tây rồi.” Mã Tổ đáp: “Tôi đã nói với ông rồi.”

 

ngài sẽ khám phá ra rằng khi nào không nghe bằng tai mới thật là nghe, khi nào không thấy bằng mắt mới thật là thấy chư Phật quá khứ, hiện tạivị lai. Nhưng đừng bám lấy cái nào hết, chỉ kinh nghiệm cho mình thôi!

Xem nào, Tâm ngài là cái gì? Bản tánh của mọi người không kém Phật. Nhưng vì con người nghi ngờ điều ấy, đi tìm Phật và Chân lý ngoài Tâm, nên không thể đạt được giác ngộ và bị xô đẩy vô vọng vào vòng sanh tử, vướng nghiệp thiện ác. Nguồn gốc của sợi dây nghiệp là mê hoặc, tức là tư niệm, tình cảm và nhận thức. Hãy tự loại bỏ nó và ngài sẽ được giải thoát, y như lớp tro vây bọc than hồng sẽ bay biến khi bị quạt thổi, mê hoặc cũng sẽ biến mất như thế một khi ngài nhận ra Tự tánh.

Trong lúc tọa thiền, đừng ghét cũng đừng để bất cứ tư niệm nào quyến rũ. Với tâm quay vào trong, hãy đều đặn nhìn vào cái nguồn ấy và tình cảm, nhận thức mê hoặc cắm rễ trong đó sẽ biến mất. Song đây không phải là nhận ra Tự tánh. Dù cho tâm ngài trở nên quang đãng như bầu trời, không ý thức cả bên trong lẫn bên ngoài, và cả mười phương dường như đều trong sáng. Nhưng nếu cho đó là ngộ là lầm ảo ảnh với thực tại. Bây giờ hãy tìm kiếm kịch liệt hơn nữa Tâm nào của ngài nghe? Thân ngài do bốn đại hợp thành, tựa như bóng ma không có thực thể. Song xa lìa thân này không có tâm nào hết. Hư không mười phương không thể thấy, không thể nghe, song cái gì đó bên trong ngài nghe và phân biệt âm thanh. Nó là ai hay là cái gì? Khi câu hỏi này đốt cháy ngài hoàn toàn, những phân biệt thiện ác, nhận thức về có hoặc không sẽ biến mất như ánh lửa tắt ngấm trong đêm tăm tối. Mặc dù không còn ý thức về chính mình, ngài vẫn có thể nghe và biết mình hiện hữu. Hãy cố gắng nếu như ngài muốn khám phá ra chủ nhân nghe, các nỗ lực sẽ thất bại, và sẽ thấy mình ở ngay ngõ cụt. Rồi tâm ngài sẽ hốt nhiên đại ngộ và ngài cảm thấy như mình từ cõi chết sống lại, cười lớn và vỗ tay hân hoan. Bấy giờ, lần đầu tiên ngài biết chính Tâm ấy là Phật. Nếu có ai hỏi: “Tâm Phật ấy giống cái gì?” Tôi sẽ đáp: “Cá dỡn trên cây, chim bay dưới biển.” Câu này có nghĩa là gì? Nếu không hiểu, ngài hãy nhìn vào Tâm mình và tự hỏi: “Ông chủ ấy là cái gì mà nghe và thấy?”

Hãy tận dụng thời gian - nó không chờ ai hết.

 

4. GỬI MỘT NGƯỜI HẤP HỐI

 

Tâm thể của ông không tùy thuộc vào sanh tử. Nó không phải có cũng không phải không có, không phải sắc cũng không phải không. Nó không phải vật cảm thấy đau đớn hay vui mừng. Song giờ đây ông có cố gắng bao nhiêu để biết cái nào bệnh, ông cũng không thể biết được. Nhưng nếu ông không hiểu gì hết, không ước muốn gì hết, không muốn hiểu gì hết, không bám víu gì hết và chỉ tự hỏi: “Thực thể của Tâm của kẻ mà giờ đây đang đau khổ là gì?” Kết liễu đời mình như mây tan trên bầu trời, đương nhiên ông sẽ thoát được sự ràng buộc đau đớn với biến dịch không ngừng.

 

 

5. GỬI CƯ SĨ IPPO (Homma Shoken)

 

Ông đang gặp y mặt đối mặt, nhưng y là ai? Dù ông nói gì cũng không đúng. Thế thì y là ai? Trên đầu cột cờ con bò cái đẻ con. Nếu tự ngộ đến chỗ này, ông sẽ không cần gì nữa. Nếu không, ông hãy nhìn vào bên trong để thấy Phật tánh của mình. Bản thể của Tâm nơi thường nhân và Phật như nhau, không có gì khác nhau hết. Nhưng vì con người không tin như thế, họ tự buộc mình vào mê hoặc bằng sợi dây không thực bằng cách nói rằng: “Nhận ra Tự tánh là ngoài khả năng tôi. Tốt hơn nên để tôi tụng kinh, cúi đầu lễ Phậtđi vào Đạo dần dần nhờ ơn chư Phật.” Đa số nghe nói đều chấp nhận là đúng. Việc ấy giống như một người mù đang dắt một nhóm mù đi lạc hướng. Những người ấy không thật tin kinh và Phật – trái lại họ không để chỗ cho kinh và Phật. [Vì nếu họ thực sự chấp nhận kinh và Phật, họ sẽ biết rằng] chỉ tụng kinh thôi thì không gì khác hơn là nhìn kinh và Phật từ bên ngoài, và nói đến “Phật” chỉ là nói đến thể tính của Tâm bằng một cách khác. Kinh nói: “Tâm, Phật và chúng sinh không có gì phân biệt cả.” Do đó, một người không tin vào thực tại của Tâm mình mà chỉ nói mình tin Phật thì cũng giống như một người đặt niềm tin vào biểu tượng mà xem nhẹ vật thật. Thế thì làm sao y có thể nhận ra Tâm này? Một người chỉ muốn tụng kinh thôi thì cũng giống như kẻ ăn xin đang đói mà từ chối thức ăn được tặng cho, tin rằng cơn đói có thể được dịu xuống bằng cách chỉ nhìn vào tờ thực đơn. Mỗi kinh chỉ là một thư mục về Tâm tánh. Một trong các kinh nói: “Giáo lý của các kinh giống như ngó tay chỉ mặt trăng.” Phật có thể nào muốn ông chấp nhận ngón tay mà không nhận ra mặt trăng? Bên trong mỗi người đều chứa đủ các kinh. Nếu ông chỉ thoáng thấy Tự Tánh mình thôi thì cũng như đã đọc và hiểu tất cả các kinh cùng một lúc, không trừ kinh nào hết, dù cho trong tay không có kinh nào, không đọc chữ nào. Đây không phải là thực “đọc” kinh sao? Hãy nhìn xem khu rừng trúc đằng kia rõ ràng là Tâm ông, và đám hoa vàng này thì không gì khác hơn trí tuệ vô thượng của vũ trụ!

Về việc cúi đầu đảnh lễ, đây chỉ là một cách hạ cột buồm bản ngã để nhận ra Phật tánh. Muốn thành Phật phải đi đến Tự ngộ bằng những nỗ lực riêng của chính mình dù cho mình có tiềm năng hay khả năng nào đi nữa. Không may, đa số hiểu điều ấy và bắt đầu thực hành tọa thiền lêu lỏng dọc đường, vì thế không bao giờ đi đến giác ngộ hoàn toàn. Rồi có những người cho trạng thái vô niệmvô thức, nơi mà tất cả tư duyphân biệt tạm thời ngừng lại là chân ngộ. Có những người khác nghĩ rằng tu Thiền chỉ cần nhớ từng công án là đủ rồi; có những người khác nữa khăng khăng rằng con đường đúng đắn của tín đồ Thiền là không phạm giới, hoặc có những người ẩn mình trong rừng sâu, chạy trốn việc thiện ác của thế gian; trong khi có những người khác chủ trương rằng con đường đúng là thừa nhận không có chân lý nào để ngộ hoặc không có chân lý nào để nắm bắt khác hơn là uống trà khi được mời, ăn các món được dọn sẵn, hoặc hét “Katsu!” khi có ai hỏi về Phật giáo, hoặc bỗng nhiên phất tay áo rộng [kimono] lên và bỏ đi, giả vờ cự tuyệt mọi thứ, trong khi gọi bất cứ người nào tọa thiền nghiêm túc và tìm kiếm các Thiền sư tài ba là phiền não. Nếu có thể gọi những người như thế là người tìm chân lý [cầu đạo] thì cũng có thể nói đứa trẻ lên ba hiểu Thiền. Lại nữa, có những người nghĩ rằng khi các vận hành tinh thần ngừng nghỉ, người ta giống như khúc cây mục hay hòn đá lạnh là đạt vô tâm. Trong khi có những người khác nữa chủ rương rằng trong tu Thiền người ta phải đạt đến điểm quyết địnhcảm thấy sự trống rỗng sâu thẳm với trực thức không trong không ngoài, toàn thân trở nên sáng ngời, trong suốtquang đãng như bầu trời xanh vào một ngày sáng láng.

Trạng thái cuối cùng này xuất hiện khi Chân tánh bắt đầu hiện thân, nhưng không thể gọi đó là Tự chứng ngộ chân thực. Các Thiền sư ngày xưa gọi đó là “Vực thẳm của ngụy giải thoát.” Nhưng người đạt đến giai đoạn này, tin rằng họ không còn vấn đề nào nữa về Phật giáo, hành xử kiêu căng do thiếu trí tuệ, hăng hái tham dự các cuộc tranh luận tôn giáo, lấy làm hân hoan khi dồn được đối thủ vào góc tường, nhưng lại trở nên giận dữ khi chính họ bị dồn vào góc tường, lúc nào cũng tỏ vẻ bất mãn trong khi không còn tin vào luật nhân quả, nhân duyên nữa, đi lang thang lớn tiếng kể những chuyện khôi hài với giọng điệu khó hiểu, cố ý quấy rầyđùa cợt với những ai hăng say học tập và nỗ lực, gọi họ là những cái bị thịt thực hành những điều không phải Thiền. Đây giống như kẻ mất trí cười người lành mạnh. Sự lừa dối của nhưng kẻ ngu ngốc này không biết đâu là bờ bến và họ sẽ rơi xuống địa ngực nhanh như tên bắn. Tổ sư thứ nhất, Bồ-đề Đạt-ma, nói: “Kẻ nào chỉ nghĩ rằng mọi sự vật chỉ là hư vô và không biết luật nhân duyên sẽ rơi xuống tận ngục đen Vô gián.” Những ông thầy tương lai này có vẻ giống như những Thiền sư, nhưng họ không thể tự giải thoát mình khỏi những tình cảm và nhận thức mê hoặc. Đa số những người mới bắt đầu đều lầm hóa thân trần trụi nhất của chân lý với Tự chứng ngộ. Một Thiền sư xưa [Lâm Tế] nói: “Thân của Chân tánh” và “đất của Chân tánh,” những cái này tôi biết chắc là những cái bóng. Các ông phải tìm cho ra chủ thể có bóng ấy. Nó là cội nguồn của chư Phật.”

Có người nói: “Trong thực hànhnghiên cứu Thiền, chúng ta có được nhiều ý niệm khác nhau về nó(21), và những ý niệm ấy là một thứ tâm bệnh, vì lý do ấy, Tự chứng ngộ qua Thiền là khó. Nhưng nếu chúng ta không nhận ra Tự tánh và hiểu qua đọc kinh thì sao? Nếu chúng ta không phạm tội thì có cần sợ trừng phạt không? Nếu không bao giờ chúng ta thành Phật thì sao? Tại sao chúng ta cần phải cố gắng để thành Phật khi mà chúng ta chưa bao giờ bước chân lên Ba đường ác?”

---------------------------------------------

(21) Tức là những khái niệm về ngộ (satori), vô (mu), không (ku), v.v…

Đáp: Cội nguồn của tất cả mọi tội lỗimê hoặc. Không Tự chứng ngộ không thể phá được mê hoặc. Trong thân con người có sáu căn, nơi mỗi căn ẩn núp một tên cám dỗ(22) . Sáu tên cám dỗ, mỗi tên tên mang ba thứ độc: tham – sân – si. Không ai thoát khỏi ba thứ độc này. Chúng ta là nhân và Ba đường ác là quả. Nhất thiết quả phải theo nhân. Ai nói “Tôi không có tội” là không biết luật này. Ngay cả người không phạm tội trong đời này thì cũng đã có ba thứ độc từ trước. Thế còn những người phạm thêm tội mới thì sao?

Hỏi: Nếu tất cả loài người là những kẻ thừa kế ba thứ độc này thì nói rằng ngay cả chư Phật và chư Tổ và các bậc Thánh cũng không thể tránh bước trên Ba đường ác, có đúng không?

Đáp: Khi một người nhận ra Tự Tánh mình thì ba độc biến [tham thành giữ] giới, [sân thành] định, và [si thành] tuệ; Phật, Tổ và thánh nhân đã giác ngộ như thế làm sao các ngài phạm tội được?

Hỏi: Cho rằng qua giác ngộ, ba độc biến thành giới – định – tuệ, làm sao loại bỏ được bệnh mê hoặc của tâm?

Đáp: Nhận ra Tự tánhphương pháp chữa trị duy nhất cho tất cả bệnh tật [của tâm]. Đừng trông cậy vào bất cứ một phương thuốc nào khác. Tôi đã không dẫn cho ông câu: “Hãy tìm cho ra chủ thể có bóng ấy. Nó chính là

 

----------------------------------------------

(22) Các ấn tượng cảm giác của chúng ta gọi là kẻ cám dỗ, vì trừ khi nào đã kiểm soát được tâm và nhận ra chân lý thì chúng ta vẫn còn là con mồi cho những cám dỗ không bao giờ dứt, tức là cho những nỗ lực quyến rũ chúng ta xa lìa chân tánh bằng cảnh, âm thanh và những thứ mê hoặc khác. Tham, sân, si là hậu quả không thể tránh được của trói sự buộc vào đối tượng của sáu thức.

 

nguồn của chư Phật” sao? Phật tánh của ông giống như kiếm báu của vua Kim Cương: bất cứ ai chạm đến đều phải chết(23) hoặc giống như khối lửa giận dữ, mọi vật trong ấy sẽ đến mất mạng. Một khi ông nhận ra Tự tánh mình, mọi tật xấu phát xuất từ nghiệp phát triển qua vô số kiếp trong quá khứ tức khắc tiêu tan, giống như bỏ băng vào lò rửa đang reo. Không còn ý nghĩ nào về Phật hay Chân lý. tâm chưa ngộ? Ấy chỉ vì chưa đạt đến Tự chứng ngộ đích thực. Không nhận ra Tự tánh, ông muốn tự ngăn chận mình khỏi bị cuốn vào Sáu Nẻo biến dịch. Được như thế thì làm sao tâm bệnh nào còn? Tại sao không thể chế ngự được những mê hoặc do nghiệp sinh, không chế ngự được tư niệm và ý nghĩ của không ngừng còn khó hơn ông muốn không cho nước sôi mà không dập tắt lửa bên dưới.

May mà ông tin có một chân lý đặc biệt truyền bên ngoài kinh điển. Thế thì tại sao phải bận tâm ý nghĩa này của kinh điển? Hãy lập tức từ bỏ tất cả suy tư và gặp ngay chủ thể ấy. Chủ thể ấy là gì mà giây phút này đang thấy và nghe? Nếu ông đáp, như đa số đáp, rằng nó là Tâm hay Tánh hay Phật hay Bộ mặt trước khi cha sinh mẹ đẻ hay Quê nhà hay Công án hay Hữu hay Vô hay Sắc hay Không hay Hình thể và Màu sắc hay cái Biết hay cái Không biết hay Chân lý hay Mê hoặc hay nói cái gì đó hay giữ im lặng hoặc cho là Giác ngộ hay Vô minh, ông sẽ tức khắc rơi vào sai lầm. Còn gì nữa, nếu ông tự trói mình mà không dùng dây? Song dù ông cố gắng thế nào để biết nó qua lý luận hợp lý, hoặc gọi tên hay đặt tên nó, ông cũng không thể nào tránh khỏi thất bại. Và dù cho tất cả ông trở thành một khối

 

------------------------------------------------

(23) Hãy so sánh câu nói này với câu nói được qui cho Thượng đế trong Cựu Ước: “Vì ở đó không kẻ nào nhìn thấy ta mà sống.” (Exodus 33:20).

 

truy vấn khi ông quay vào trong và kịch liệt tìm kiếm tâm điểm của con người mình, ông cũng sẽ thấy rằng không có cái gì có thể gọi là Tâm hay Tánh cả. Song nếu có ai gọi tên ông thì cái gì đó từ bên trong sẽ nghe và đáp lại. Hãy ngay tức thời tìm cho ra là ai!

 Nếu ông sấn tới với giọt sức cuối cùng, ngay tại điểm này đường suy tư của ông bị khóa lại, và rồi sẽ bị bít hẳn, ông hãy giơ hai tay lên trời, nhảy vào hố lửa khủng khiếp đang áng trước mặt – vào ngọn lửa bản tánh nguyên sơ cháy mãi không bao giờ tắt ấy – thì tất cả ngã-thức, tất cả tình cảm, tư tưởngnhận thức mê hoặc sẽ biến mất cùng với cái ta cội rễ, và cội nguồn chân thật của Tự Tánh sẽ hiện ra. Ông sẽ cảm thấy mình sống lại, tất cả bệnh tật sẽ hoàn toàn biến mất và sẽ cảm thấy an lạc chân thực. Ông sẽ hoàn toàn tự do. Lần đầu tiên ông sẽ nhận ra rằng bước đi trên nước cũng như bước đi trên đất và bước đi trên đất cũng như bước đi trên nước, suốt ngày nói mà không có lời nào được nói ra, suốt ngày bước đi mà không có bước nào được bước. Trong khi mây hiện núi nam mà mưa rơi non bắc, trống pháp nổi lên ở Trung hoa mà lời pháp bắt đầu ở Cao ly, ngồi một mình trong phòng phương trượng mà gặp chư Phật mười phương, không nhìn một chữ mà đọc hết bảy ngàn bộ kinh, mặc dù được tất cả công đức và hạnh tốt mà thực chẳng có gì.

Ông có muốn biết Tâm này là cái gì không? Bàng cư sĩ hỏi Mã Tổ: “Cái gì siêu việt tất cả vạn vật trong vũ trụ?” Mã Tổ đáp: “Khi nào ông một hớp uống hết nước Tây giang, tôi sẽ nói với ông.” Nghe câu ấy Bàng cư sĩ thâm ngộ. Bây giờ làm thế nào ông một hớp uống hết nước sông Tây giang? Nếu nắm được tinh thần công án này, ông có thể thông suốt cả mười ngàn công án cùng một lúc và nhận ra rằng bước đi trên nước cũng như bước đi trên đất và bước đi trên đất cũng như bước đi trên nước. Nếu ông tưởng tôi đang nói cái gì đó siêu nhiên, một ngày nào đó ông sẽ nuốt hòn sắt nóng đỏ trước Diêm vương (Yama Raya) nhưng nếu không phải siêu nhiên thì nó là cái gì? Hãy đối mặt với cái này đi!


 

6. GỬI ÔNG TĂNG Ở AM SHOBO

 (Vì yêu cầu khẩn thiết)

 

 Lúc còn thiếu niên, vấn đề sau đây làm tôi bối rối. Bỏ thân xác sang một bên thì cái gì đáp: “Tôi tên là Ất” khi có người hỏi: “Anh là ai?” Một khi sự bối rối đã xuất hiện, nó ngày càng trở nên sâu hơn theo năm tháng. Kết quả tôi muốn trở thành một tăng nhân. Rồi tôi nghiêm chỉnh nguyện như vầy: “Giờ đây tôi đã quyết tâm trở thành tăng nhân, tôi không thể tìm chân lý chỉ vì mình. Ngay cả sau khi đắc thành Đạo vô thượng, tôi sẽ hoãn lại việc thành Phật(24) cho đến khi nào tôi độ hết tất cả chúng sinh(25). Hơn nữa, cho đến khi nào sự bối rối này tiêu tan, tôi sẽ không nghiên cứu Phật giáo hay các nghi thức và cách hành sự của một tăng nhân. Bao lâu còn sống ở nhân gian, tôi sẽ không ở lại bất cứ nơi nào trừ với các Thiền sư và trong rừng núi.”

Sau khi vào tự viện, sự bối rối của tôi càng gia tăng, đồng thời từ đáy lòng tôi một quyết tâm mãnh liệt xuất hiện và tôi nghĩ Phật Thích-ca Mâu-ni đã đi rồi, Di-lặc, vị Phật tương lai, chưa xuất hiện. Trong thời kỳ mạt pháp này(26),

----------------------------------------------

(24) Tức là cảnh giới viên mãn vô thượng. Xem “Phật,” Chương X.

(25) Lời nguyện của một vị Bồ-tát. Xem “Bồ-tát,” Chương X.

(26) Giống như nhiều người khác vào thời ông, Bạt Tụy tin mình đang ở trong thời kỳ mạt pháp, như chính đức Phật đã tiên tri. Kinh =>

lòng mong ước nhận ra Tự tánh của tôi đủ mạnh để độ tất cả chúng sinh trong thế giới không Phật này. Dù cho tôi phải chịu những thống khổ của ngục Vô gián vì kết quả của tội lỗi ràng buộc, chừng nào tôi còn có thể gánh vác được những đau khổ của chúng sinh, tôi sẽ không bao giờ trở nên chán nản vì lời nguyện vĩnh viễn này. Hơn nữa, trong tu tập Thiền, tôi sẽ không lãng phí thời giờ suy nghĩ về sống chết hoặc lãng phí dù chỉ một phút để chăm lo việc thiện, tôi cũng sẽ không làm cho kẻ khác không thấy được chân lý bằng cách cố giúp họ chừng nào tôi còn chưa đủ sức dẫn dắt họ đến Tự chứng ngộ.

 Những quyết định này trở thành một phần tư tưởng của tôi, làm phiền tôi đến độ nào đó trong việc tọa thiền. Nhưng tôi không thể làm khác hơn được. Tôi luôn luôn cầu

 xin(27) chư Phật cho tôi sức mạnh để thực hiện quyết định này mà tôi đã coi là tiêu chuẩn cho sự hành xử của tôi hợp với tất cả mọi hoàn cảnh, dễ chịu hay khó chịu, dưới con mắt dòm ngó nhưng thân thiện của chư thiên, vì thế nó còn tồn tại đến bây giờ.

-------------------------------------------

=>Mahasannipata Chandragarbha dẫn lời Phật khi nói rằng trong 500 năm sau khi Phật nhập Niết bàn, môn đồ của Ngài sẽ đạt giải thoát hợp với Chánh Pháp; trong 500 năm thứ nhì, họ chắc chắn chỉ đạt Chánh Định (Samadhi); trong 500 năm thứ ba, họ chỉ đọc và tụng kinh; trong 500 năm thứ tư, họ chỉ xây dựng chùa chiền; và trong 500 thứ năm, họ chỉ phá pháp. Nếu chấp nhận niên đại đức Phật nhập Niết bàn là khoảng năm 476 trướcTây lịch, Bạt Tụy sinh năm 1327 là thuộc thời kỳ thứ tư.

 (27) Trong Thiền người ta không biết cầu nguyện. Những người mới tu thường cầu Phật và Tổ cho họ sức mạnh để họ có thể tự gột sạch điều xấu và mê hoặc để có thể thực hiện thành công việc tập trung tinh thần. Tập Hotsugammon (Phát Nguyện Văn) chứa một số lời cầu xin như thế.

 

Kể cho ông nghe những trạng thái mê hoặc của tôi thực ra không quan trọng nhưng vì ông mạnh dạn yêu cầu, tôi viết ra đây các nguyện vọng của tôi khi còn là người mới tu.


 

7. GỬI NI CÔ FURASAWA

 

Cô đã viết rằng đối tượng của thực hành Thiền [cô tin] là hiện thân của Tâm-trong-chính-nó. Nhưng nó tự hiện thân như thế nào? Những gì có thể thấy được bằng mắt hay biết được bằng lý trí thì không thể gọi là Tâm-trong-chính-nó. Cô phải bắt đầu tọa thiền bằng cách nhìn vào tâm mình. Khi tư niệm giảm bớt cô sẽ biết, nhưng đấu tranh ngăn chận không cho tư niệm xuất hiệnsai lầm. Đừng ghét cũng đừng ấp ủ tư niệm, chỉ cần nhận ra cái nguồn chúng phát xuất, sẽ đến lúc tâm cô không thể trả lời được, không còn một gợn tư niệm nào. Song ngay cả lúc ấy cô cũng không tìm ra câu trả lời nào hết. Nhưng hãy cứ hỏi: “Tâm này là cái gì?” đến tận đáy đá sâu, tâm nghi vấn sẽ bỗng dưng biến mất và thân cô sẽ cảm thấy tựa như khôngbản chất giống như hư không mười phương.

Đây là giai đoạn đầu tiên người mới tu Thiền đạt được và họ được khích lệ đến độ nào đó. Nhưng nếu họ lầm cho đây là hiện thân của Tâm-trong-chính-nó (hay Chân-lý-trong-chính-nó) thì cũng giống như người ta lầm mắt cá là ngọc. Những người khăng khăng với những sai lầm như thế trở thành kiêu căng, phỉ báng Phật và Tổ, và làm ngơ luật nhân quả. Vì thế, họ đấu tranh với quỉ thần trong đời này và dẫm chân lên con đường chông gai trong đời sau. Nhưng với nghiệp duyên ưu ái, họ sẽ đương nhiên đạt được giác ngộ. Song con người không thể nhận thức được sự thật của tất cả điều này, họ không tin Tâm mình là Phật hay Chân lý bên ngoài Tâm này, so với những người không phải Phật tử tự trói buộc với thế giới hiện tượng, họ còn tệ hơn vô cùng.

Như tôi đã nói, khi có một nội kiến nào đến, cô hãy đến một Thiền sư có tài và chứng minh công khai với ông ta những gì cô đã nhận thức được y như nó đã đến. Nếu không đúng và cần phải giải quyết, hãy cứ để nó như nước sôi phá tan băng. Cuối cùng, giống như mặt trăng soi sáng trời không qua các đám mây đã tan, Bộ mặt trước khi cha sanh mẹ đẻ của cô sẽ hiện ra. Và lần đầu tiên cô sẽ hiểu câu: “Cái cưa múa điệu Sendai” có nghĩa là gì. Bây giờ, Sendai là tên của một điệu múa. Hãy xem “Cái cưa múa diệu Sendai.” Thế có nghĩa là gì? Hãy cương quyết lãnh hội nó, không lý luận vì nó không có nghĩa theo nghĩa thông thường. Cô chỉ có thể hiểu được khi Tự chứng ngộ.

Kế đến cô nói rằng cô sắp kiêng ăn, kiêng ăn không phải là cách tu của Phật giáo. Đừng bao giờ làm thế! Từ bỏ cái nhìn sai lầm phân biệt được và mất, thiện và ác, đây mới đúng là kiêng ăn. Buông bỏ mê hoặc trong toàn tâm thực hành Thiền – đây là tự thanh tịnh. Ham muốn những kinh nghiệm bất bình thường(28) như muốn tỏ vẻ khác người thường là lạc hướng. Cô chỉ cần giữ tâm kiên định nhưng uyển chuyển, không quan tâm đến chuyện tốt xấu của người khác và ngăn cản họ. Nếu cô nhớ rằng thế gian là một giấc mộng, trong ấy kông có buồn nào để tránh, không có vui nào để tìm, tâm sẽ trở nên yên tĩnh rõ ràng, không những chỉ vậy mà các bệnh của cô cũng sẽ biến mất khi các nhận thức mê hoặc tiêu tan, cô phải xóa bỏ ngay cả những gì cô đã nhận thức qua giác ngộ. Còn gì nữa, vì tất cả chúng đều hư vọng. Đừng dấn mình vào những ảo

 

---------------------------------------------

(28) Nghĩa là các ảo giác hay ảo tưởng phát sinh từ sự kiêng ăn kéo dài.

 

tưởng như thế mà chỉ hỏi: “Cái gì là chủ thể thấy tất cả như vậy?”

Tôi đã trả lời đầy đủ các câu hỏi cô đã nêu. Nếu cô không nhận ra Chân ngã của mình trong kiếp này dù đã thực hành Thiền như tôi khuyên, chắc chắn cô sẽ gặp một Thiền sư giác ngộ hoàn toàn trong kiếp sau và sẽ đạt chứng ngộ hơn một ngàn lần trong một [Chơn] Âm.

Tôi không thích viết chi tiết như vầy, nhưng vì cô đã viết cho tôi từ trên giường bệnh mà từ lâu cô đã bị hạn chế, đây là cách duy nhất tôi có thể trả lờichắc chắn cô sẽ hiểu.

 

 

8. BỨC THƯ TỨ NHẤT GỬI

 TU SĨ THIỀN IGUCHI

 

Tôi đã đọc lời trình bày của ông từ đầu đến cuối, nhưng nó lầm ở điểm trọng yếu của công án. Tổ sư thứ sáu nói: ‘Phướng không động, gió không động, chỉ tâm ông động.”(29) Nhận ra điều này một cách rõ ràngnhận ra rằng vũ trụ và ông cùng một cội rễ, ông và mọi sự vật là một nhất thể. Tiếng nước róc rách, tiếng gió thở dài là tiếng nói của chủ thể ấy; màu xanh của thông, màu trắng của tuyết là màu của người chủ ấy; chính là người giơ tay đưa chân, thấy, nghe. Một người trực nhận ra điều này không lý luận, không trí thức có thể là đã có một độ nội tri nào đó, nhưng chưa phải là giác ngộ đầy đủ.

Một Thiền sư xưa [Lâm Tế] nói: “Không nên bám

 

---------------------------------------

(29) Vô Môn Quan, tắc 29.

 

vào cái ý nghĩ rằng mình là cái Bản tính thanh tịnh.” Lại nói: “Thân xác hợp bởi bốn đại không thể nghe và hiểu giáo lý này. Hư không không thể hiểu giáo lý này.”

Hãy suy tư đầy đủ và trực tiếp những lời này. Hãy nắm công án này như nắm thanh kiếm báu của vua Kim Cương. Hãy chém bất cứ thứ gì xuất hiện trong tâm. Khi các tư niệm về vấn đề thế gian xuất hiện, hãy chém đứt chúng đi. Khi các tư niệm về Phật giáo xuất hiện, cũng cứ cho một nhát cho chúng rụng xuống. Tóm lại, hãy diệt hết mọi ý nghĩ về chứng ngộ, về Phật hay quỉ và suốt ngày theo đuổi câu hỏi: “Cái gì nghe những lời dạy này?” Khi ông nhổ hết gốc rễ tư niệm cho đến lúc chỉ còn cái trống rỗng này, Tâm ông hốt nhiên mở ra và cái gì nghe ấy sẽ tự hiện thân. Hãy kiên trì, kiên trì! - đừng bao giờ bỏ dở giữa chừng - cho đến khi ông đạt đến điểm cảm thấy mình dường như từ cõi chết sống lại, chỉ khi ấy ông mới có thể giải quyết được hoàn toàn câu hỏi khẩn yếu: “Cái gì nghe giáo lý này?”

Tôi sợ bất tiện cho ông vì phải viết thường xuyên cho tôi. Vì thế tôi phải viết thư này như vầy. Sau khi ông đọc xong, hãy quẳng nó vào lửa!

 


6. BỨC THƯ THỨ HAI GỬI

 TU SĨ THIỀN IGUCHI

 

Tôi đã đọc kỹ thư ông.

Từ lâu đã ngưỡng mộ vì quyết tâm của ông đối với Tự chứng ngộ. Tôi rất hài lòng được biết rằng ông không quên Câu Hỏi Lớn ấy. Câu trả lời của ông đã được chú ý ở tất cả mọi khía cạnh. Ở đây tôi muốn ông dùng câu sau đây làm công án: “Bản thể của Bản tánh tôi là gì?” Trong lúc tìm chủ thể nghe và nói, dù có hàng ngàn tư niệm xuất hiện cũng đừng ưa thích chúng mà chỉ hỏi: “Nó là cái gì?” Mọi tư niệm và tất cả tự thức rồi cũng sẽ biến mất và theo sautrạng thái trống rỗng giống như bầu trời không mây. Bây giờ chính Tâm không có hình tướng gì cả. Thế thì cái gì nghe, làm việc và cử động? Hãy đào bới, tìm kiếm trong chính mình càng lúc càng sâu hơn cho đến khi nào ông không còn biết một vật gì nữa. Lúc bấy giờ ông sẽ nhận ra Chân tánh ở bên kia cái bóng nghi ngờ, giống như người chợt tỉnh mộng, chắc chắn lúc ấy hoa sẽ nở trên cây khô và lửa sẽ cháy trên băng. Tất cả Phật giáo, tất cả quan tâm thế gian, tất cả ý niệm thiện ác sẽ biến mất, giống như giấc mộng đêm qua và Phật tánh uyên nguyên sẽ đơn độc hiện thân. Có được nội tri như thế ông chớ ấp ủ ý niệm rằng: Tâm này là Phật tánh uyên nguyên. Nếu ông còn ấp ủ là còn tự tạo cho mình một niệm thức khác.

Chỉ vì quan tâm đến khát vọng Tự chứng ngộ của ông mà tôi viết thư như thế này(30), cảm ơn ông đã biếu năm trăm gói cốm và nửa cân trà.

 

7. BỨC THƯ THỨ BA GỬI

 TU SĨ THIỀN IGUCHI

 

Tôi đã đọc thư ông rất cẩn thận. Tôi rất hài lòng khi

----------------------------------------------

(30) Thoạt nghe câu nói này có vẻ mâu thuẫn với những câu khác trong bức thư này ở chỗ Bạt Tụy nói: viết chi tiết là không thông minh. Ông luôn luôn sợ mình nói quá nhiều, gây nặng nề cho những người liên lạc thư từ với ông bằng những ý nghĩ có thể lơ lửng trong tâm họ, và do đó, làm trở ngại sự giác ngộ. Ở điểm này, Bạt Tụy ám chỉ rằng ông quá xúc động vì nhiệt tâm của tu sĩ Iguchi, bất chấp phán đoán tốt hơn của mình, ông đã viết thư kiểu này cho Iguchi.

 

nghe ông nghe ông nói về việc thực hành Thiền của ông.

Nhưng nếu tôi trả lời từ đầu đến cuối cho ông thì ông lại phải tự giải thích cho mình về những gì tôi viết và do đó trở thành chướng ngại cho sự Tự chứng ngộ của ông.

Hãy cố gắng trực nhận ra chủ thể hiện đang hỏi ấy. Phật và Tổ nói chủ thể này vốn là Phật tâm. Song Tâm này không bản thể, nơi thân ông có cái gì có thể gọi là Tâm hay Phật? Bây giờ ông hãy kịch liệt tự hỏi: “Đây là cái gì mà không thể gọi tên hay không thể biết được bằng lý trí? Nếu ông thâm sâu tự hỏi: “Cái gì giơ tay, đưa chân, nói, nghe?” Lý luận sẽ ngừng lại, mọi con đường sẽ bị phong tỏa, và ông sẽ không biết phải quẹo ngả nào. Nhưng hãy cứ tiếp tục hỏi không ngớt về chủ thể này. Hãy từ bỏ trí thức, hãy buông lơi việc nắm giữ sự vật. Khi với lòng ước mong trọn vẹn chỉ vì giải thoát thôi, ông sẽ trở thành giác ngộ ở bên kia mọi nghi ngờ.

 Trong khoảng thời gian tư niệm lắng xuống, người ta sẽ kinh nghiệm cái trống rỗng của bầu trời không mây. Song không nên lầm lẫn kinh nghiệm này với giác ngộ, gạt lý luận và lý lẽ sang một bên, hãy hỏi một cách kịch liệt như thế này: “Tâm không có hình thể, giờ đây tôi đúng như thế, vậy thì cái gì đang nghe?” Chỉ khi sự tìm kiếm thấm qua mọi lỗ chân lông và mọi thớ thịt của con người ông thì cái trống rỗng ấy sẽ bỗng nhiên vỡ tan và Bộ mặt trước khi cha sinh mẹ đẻ của ông sẽ hiện ra. Ông sẽ cảm thấy giống như người đột nhiên tỉnh mộng. Vào lúc như thế, ông hãy đến một Thiền sư đáng kính xin khảo nghiệm, phê bình. Trong khi ông không thể đạt Tự chứng ngộ trong kiếp này, chắc chắn ông sẽ giác ngộ trong kiếp sau như các Thiền sư đã dạy. Nếu ai trên giường chết mà tâm trơ trụi, không có một tư niệm nào cả và chỉ hỏi: “Tâm này là cái gì?” sẽ chết tự nhiên như lửa tắt.

Tôi đã viết như ông yêu cầu, nhưng một cách miễn cưỡng. Khi đọc xong, ông hãy đốt nó đi. Đừng đọc lại mà hãy sâu xa tìm kiếm người đang nghe. Lời tôi sẽ tựa như vô nghĩa khi tự ông kinh nghiệm giác ngộ.

 

 

8. BỨC THƯ THỨ TƯ GỬI

 TU SĨ THIỀN IGUCHI

 

Tôi vui khi biết ông đang thực hành tọa thiền hăng say biết bao. Những gì ông thuật lại hơi giống kinh nghiệm Thiền, nhưng cốt yếu đó chỉ là những gì ông hiểu bằng lý trí. Câu Hỏi Lớn không thể giải quyết bằng tâm biện biệt. Ngay cả những điều trở nên rõ ràng qua nhận thức cũng chỉ là một loại mê hoặc. Trong một bức thư trước tôi đã viết: “Chỉ khi nào ông như từ cõi chết sống dậy, nói ví như vậy, thì chủ thể nghe và thấy sẽ tự hiện thân.” Việc ông khăng khăng hỏi: “Cái gì nghe?” đương nhiên đưa ông đến trạng thái không biết gì hết trừ chính sự hỏi. Song ông không nên lầm lẫn mà nghĩ rằng đó là chủ thể nghe.

Ông nói rằng trong lúc ông tham công án này, ông cảm thấy dường như mình đã cầm thanh kiếm chém đứt mọi ý tưởng trong tâm kể cả ấn tượng về cái trống không và chỉ còn lại câu hỏi: “Nhưng cái gì đang làm tất cả việc ấy?” Hãy đào bới đến tận con người sâu kín nhất của mình và ông sẽ khám phá ra nó chính là cái nghe.

Dù cho ông kinh nghiệm Tự tánh nhiều lần và hiểu rõ Phật giáo đủ để diễn thuyết về nó, các tư niệm mê hoặc cũng sẽ sống lại, kết quả xô đẩy ông vào Ba đường ác trong kiếp sau, trừ phi được giác ngộ viên mãn cắt đứt gốc rễ của chúng. Mặt khác, nếu chưa thỏa mãn, ông hãy kiên trì tự hỏi ngay cả trên giường chết, chắc chắn ông sẽ giác ngộ vào kiếp sau.

Đừng để mình trở nên chán nản và đừng lãng phí thì giờ, chỉ tập trung vào công án với tất cả trái tim mình. Bây giờ con người bằng xương và thịt của ông không nghe cũng không tạo ra cái không. Vậy thì cái gì? Hãy cố tìm cho ra, hãy gạt bỏ lý trí hợp lý sang một bên, hãy từ bỏ mọi kỹ thuật [chiêu dụ giác ngộ], từ bỏ khát vọng Tự chứng ngộ và mọi động cơ khác. Rồi tâm ông sẽ yên tĩnh, và ông sẽ không biết phải làm gì. Không còn khát vọng đạt giác ngộ hay sử dụng các năng lực lý luận, ông sẽ cảm thấy mình như cây như đá. Nhưng hãy đi xa hơn nữa và hãy tận lực tự hỏi liên tục nhiều ngày cho đến cuối cùng, chắc chắn ông sẽ đạt thâm ngộ, cắt đứt gốc rễ của sanh tử và đi đến cảnh giới của Tâm không-biết-ta. Gốc rễ sâu nhất của sanh và tử là tư niệm và cảm giác mê hoặc phát xuất từ tâm biết-ta, tâm bản ngã. Một Thiền sư [Lâm Tế] đã có lần nói: “Không có gì đặc biệt để chứng ngộ. Chỉ cần loại bỏ [ý niệm về] Phật và chúng sinh.”(31) Điều cốt yếu để giác ngộ là làm tâm trống rỗng ý niệm về ta.

Viết chi tiết như vầy là không thông minh, nhưng vì ông đã viết cho tôi rất thường xuyên, tôi miễn cưỡng phải trả lời ông bằng cách này.

 

 

12. GỬI MỘT NI CÔ

 

Tôi đã đọc kỹ thư cô.

Rất mừng thấy cô đang thực hành Thiền hăng say biết bao, đã đặt nó lên trên mọi việc khác.

 

--------------------------------------

(31) Nói cách khác, Phật đối lập với chúng sinh.

 Cô bảo cô đã có lần nghĩ rằng cô phải đi hướng tây đến kinh đô, nhưng bây giờ cô thấy ấy là một ý nghĩ sai lầm. Kinh đô ở khắp mọi nơi, do đó cô không cần gì khác hơn là tự hỏi một cách qui nhất: “Nó cái gì?” Nhưng như thế chưa đủ, vì mặc dù cô đã thấy kinh đô ở khắp mọi nơi, nhưng chưa gặp mặt người thống trị. Ông ấy là Bộ mặt trước khi cha sinh mẹ đẻ của cô.

Khi cô đục khoét câu hỏi được chút ít, tâm cô sẽ trở nên giống như hư không; Phật và chúng sinh, quá khứ hay hiện tại đều không còn nữa. Một trạng thái tịch tĩnh giống như sự tịch tĩnh của ánh trăng tràn ngập đồng quê rót đầy tâm hồn. Nhưng không thể nói thành lời. Trạng thái tịch tĩnh như thế là kết quả, của một sự thực hành Thiền nào đó, song tâm ấy vẫn còn bệnh, vì Ngã vẫn còn điên đảo, và sự điên đảo này là cội rễ của mê hoặc. Cắt đứt gốc rễ ấy có nghĩa là khai thông tâm thái tịch tĩnh này.

Một người thiếu khát vọng đích thực muốn đạt Tự chứng ngộ sẽ đào bới các công án xưa và lý luận ra “Câu trả lời,” và tự xem mình ngộ rồi. Cô không để mình bị trói buộc vào bất cứ điều gì cô nhận thức được, cô chỉ nên tìm kiếm chủ thể nhận thức thôi. Tựa như cái gì đó đốt cháy tờ giấy bạc hay rọc nó ra từng mảnh nhỏ, tất cả những khái niệm tiên kiến của cô sẽ bị hủy diệt y như thế. Cô chỉ có thể nhận ra chủ thể ấy sau khi đã thăm dò ra “Nó là cái gì?” với chút sức lực cuối cùng và mọi tư niệm về thiện ác biến mất. Trừ khi nào cô cảm thấy như người thực sự được sống lại.

 

Đức Sơn [Tokusan] nói: “Nói được, ba chục gậy.” (32) Cô có thể tránh được gậy không? Nếu tránh được là cô

 

---------------------------------------------

(32) Toàn bộ công án nói: “Nói được, ba chục gậy. Không nói được, ba chục gậy.”

 

hiểu ý nghĩa của câu “Núi Đông vượt nước.”(33) Tôi e tôi

đã viết quá nhiều nhưng tôi đã làm như thế vì tôi ngưỡng mộ quyết tâm muốn trở thành giác ngộ của cô. Những ý nghĩ này không phải là của tôi, những gì tôi biết được là từ lời dạy của các Thiền sư xưa.

 

------------------------------------------------------

(33) Câu này trích từ Ngữ Lục của Vân Môn (Ummon). Một ông tăng hỏi Vân Môn: “Phật từ đâu đến? [nghĩa là, “Phật tâm là cái gì?”] Vân Môn đáp: “Núi Đông vượt nước.”

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1614)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1739)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1304)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 995)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1304)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 1781)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1355)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1458)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1284)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2577)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1277)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1303)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1583)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1564)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1529)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1363)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2500)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1511)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1499)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1282)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1331)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1494)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1450)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1333)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1300)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1414)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2066)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1442)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1409)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1502)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1747)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1426)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1290)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1565)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1307)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1596)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2208)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1373)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1847)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1576)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1664)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1515)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1856)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1565)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1352)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1626)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1484)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1446)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1240)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1165)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1207)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1433)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1541)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1516)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 956)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1403)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1415)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1553)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1798)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1404)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant