Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

2. Hơi Ấm Nhân LoạiTừ Bi

07 Tháng Mười 201300:00(Xem: 5147)
2. Hơi Ấm Nhân Loại Và Từ Bi

BẢN CHẤT CỦA HẠNH PHÚC
Cẩm Nang Cho Đời Sống
Nguyên tác:  The Essence Of Happiness – A Guidebook for living
Tác giả: His Holiness The Dalai Lama và Howard C. Cutter, M.D.
Chuyển ngữTuệ Uyển Tỳ kheo Thích Từ-Đức / 20 – 11 – 2010

II- HƠI ẤM NHÂN LOẠITỪ BI

 

Nếu chúng ta muốn người khác hạnh phúc, hãy thực hành từ bi; và nếu chúng ta muốn chính mình hạnh phúc, hãy thực tập từ bi

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Không có câu hỏi về việc hạnh phúc mang đến những phần thưởng cá nhân bao la. Nhưng cũng cần yếu để cho thấy rằng trau dồi niềm hạnh phúc to lớn hơn lợi lạc không phải cho chính mình, mà cũng hữu ích cho gia đình, cộng đồng, và xã hội của chúng ta. Đây là một trong những nhân tố then chốt cơ bản của Nghệ Thuật Sống Hạnh Phúc.

--- HOWARD CUTLER

Bây giờ, chúng ta chuẩn bị để tìm kiếm hạnh phúc. Và rõ ràng rằng những cảm giác của từ ái, thiện ý, thân cận và bi mẫn đem đến hạnh phúc. Tôi tin rằng mỗi người chúng tacăn bản để hạnh phúc, để tiếp cận những thể trạng ấm áp, và yêu thương của tâm thức mà những điều ấy mang đến hạnh phúc.

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Một trong những cuộc thí nghiệm mà tôi thích thú, Bác sĩ thần kinh học Richard Davidson đã yêu cầu một tu sĩ Phật Giáo thiền quán một cách sâu sắc về từ bi trong khi ông ấy ghi nhận chức năng não bộ của vị tu sĩ thể hiện trong phòng thí nghiệm. Sự kiểm tra não bộ cho thấy một sự gia tăng xúc động mạnh mẽ trong hoạt động của vỏ não phía trước bên trái của tu sĩ khi ngài phát sinh một thể trạng tâm thức từ bi một cách cẩn trọng – bật sáng vùng não bộ phối hợp với cảm giác hạnh phúc… Trong một nghiên cứu khác, những chủ đề thể hiện năm “hành vi ngẫu nhiên của ân cần tử tế” mỗi lần một tuần trong sáu tuần. Điều này đưa đến một sự tăng trưởng nổi bật trong những mức độ của hạnh phúctoại nguyện của đời sống

--- HOWARD CUTLER

Trong tất cả chúng sinh, có hạt giống của toàn hảo. Tuy thế, từ bi được đòi hỏi nhằm để khởi động hạt giống ấy mà nó vốn có trong trái tim và tâm thức chúng ta. --- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Tôi xem một người với lòng từ bi, ấm áp, và tốt bụngmạnh khỏe. Nếu chúng ta duy trì một càm nhận bi mẫn, từ ái yêu thương, thế thì điều gì đấy tự nhiên khai mở cánh cửa nội tại của chúng ta. Qua điều ấy, chúng ta có thể giao tiếp một cách dễ dàng hơn nhiều với những người khác. Và cảm nhận ấm áp ấy tạo nên một loại cởi mở. Chúng ta thấy rằng tất cả chúng sinh đều giống như chúng ta, vì thế chúng ta có thể liên hệ với họ một cách dễ dàng hơn … Tiếp cận với ngưởi khác bằng tư tưởng từ bi tự nhiên thay đổi thái độ chúng ta đối với họ, giảm thiểu sợ hãi, tự nghi ngờ, và không an toàn

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Tôi nghĩ rằng thường có nguy cơ về việc lầm lẩn giữa từ bi với luyến ái. Do vậy, khi chúng ta thảo luận về từ bi, đầu tiên chúng ta phải làm một sự phân biệt rõ ràng giữa hai loại này, luyến ái bị nhuốm màu của chấp trước hay vướng mắccảm giác của việc kiểm soát hay khống chế người nào đấy, hay thương yêu người ai đấy thì người kia phải yêu thương lại. Đây là loại thương mến hay tình yêu cục bộ và thiên kiến. Nó căn cứ trên dự kiến tinh thần của chúng ta, trên việc chúng ta nhận định người kia như một người bạn hay một người yêu. Và một mối quan hệ chỉ căn cứ trên điều này thôi thì không vững vàng.

Nhưng có một loại lòng thương thứ hai tự do khỏi sự vướng mắc hay chấp trước, đấy là từ bi. Đấy là lòng thương yêu chân thành. Loại thương yêu này, hay còn gọi là từ bi không căn cứ quá nhiều trên sự kiện người này hay người kia thiết tha chân thành với chúng ta hay không. Đúng hơn, lòng thương chân thành hay từ bi căn cứ trên nhân tố cơ bản rằng tất cả những con người có một khao khát bẩm sinh đối với hạnh phúc và vượt thắng khổ đau, giống như cá nhân của ta. Và giống như ta, người ta có quyền tự nhiên để thực hiện khát vọng căn bản này. Với điều này như nền tảng, chúng ta có thể cảm nhận từ bi yêu thương bất chấp chúng ta xem người kia như một người bạn hay một kẻ thù

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Từ bi yêu thương có thể khó khăn để định nghĩa trong hình thức của một thể trạng tinh thần bất bạo động, vô tổn hại, và không gây hấn. Đấy là một thể trạng tinh thần căn cứ trên nguyện ước vì sự do khỏi khổ đau của người khác và được phối hợp với một ý nghĩa của cống hiến, trách nhiệm, và tôn trọng người khác.

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Chữ Tây Tạng của từ bi là tse-wa, liên hệ đến một thể trạng của tâm thức bao gồm không chỉ một nguyện ước vì lợi ích cho người khác, một nguyện ước cho người khác tự do khỏi khổ đau, mà cũng là một nguyện ước vì cát tường cho chính mình. --- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Trong việc phát triển từ bi yêu thương, có lẻ chúng ta nên bắt đầu với nguyện ước choc hung ta được thoát khỏi khổ đau, và rồi thì đem cảm giác tự nhiên đối với chính mình và trau dồi nó, nâng cao nó, và mở nó ra để bao gồm và ôm ấp những người khác. 

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Nếu chúng ta nguyện ước phát triên một cảm giác về mối tương quan hay liên hệ với người khác, một cảm giác cởi mở, mà không sợ hãi hay e ngại, rồi thì lòng tin tưởng căn bản của tôi là đầu tiên chúng ta cần nhận ra sự lợi ích của từ bi yêu thương. Đấy là nhân tố chìa khóa. Một khi chúng ta chấp nhận sự kiện rằng từ bi yêu thương không phải là điều gì đấy trẻ con hay ủy mị, một khi chúng ta nhận ra nó là điều gì đấy thật sự đáng giá, nhận ra giá trị sâu xa hơn của nó, rồi thì chúng ta lập tức phát triển một sự hấp dẫn đối với nó, một ý chí để trau dồi nó. 

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Từ bi yêu thương không chỉ là một vấn đề tôn giáo, nó là một nhân tố không thể thiếu được trong đời sống hằng ngày, bắt đầu từ lúc sinh ra. Hành động đầu tiên ngay sau khi sinh ra là bú sửa mẹ chúng ta. Đó là một hành vi của tình cảm, của từ bi yêu thương. Không có điều này, chúng ta không thể tồn tại. Rồi thì, cấu tạo thân thể chúng ta dường như thích ứng hơn với từ ái, bi mẫn, yêu thương, và tình cảm; đây là những cảm xúc có những ảnh hưởng lợi ích trên sức khỏe thân thểtình trạng lành mạnh của cảm xúc. Những cảm xúcthái độ dịu dàng này cũng đưa đến một gia đìnhmột đời sống cộng đồng hạnh phúc hơn.

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Có một trình độ căn bản của nhân loại nơi mà những sự phân biệt giữa con người về giới tính, chủng tộc, tôn giáo, văn hóa, và ngôn ngữ bị phá vở. Tại trình độ nền tảng này, tất cả chúng ta là giống nhau; mỗi người chúng ta khát vọng đến hạnh phúc và không mong muốn khổ đau… Dĩ nhiên có những khác biệt trong quá khứ văn hóa, lối sống, tín ngưỡng hay màu sắc, nhưng tất cả chúng ta là những con người, tương ứng với một thân thể con người, tâm thức con người, và những cảm xúc. Bất cứ khi nào tôi gặp con người, tôi có một cảm giác rằng tôi đang chạm trán với một con người khác, giống như tôi… Nếu chúng ta có thể liên hệ đến người khác trên trình độ căn bản này và bỏ qua một bên những khác biệt, tôi nghĩ chúng ta có thể dễ dàng để đối thoại, trao đổi tư tưởng, và chia sẻ những kinh nghiệm.

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Chúng ta có thể trau dồi chính mình để từ bi yêu thương hơn không? Nếu được, thì chúng ta làm thế nào? Ở đây, tôi tin rằng nhận thức sâu sắc về sự tương đồng nền tảng của gia đình con ngườibản chất tự nhiên liên kết nội tại sâu xa về sự cát tường phúc lợi của chúng ta là quan trọng cơ bản… Tôi tin rằng như một chủng loại chúng ta cần đặt nền tảng sự tương tác của chúng ta với những đồng loại con người của chúng ta trên nhận thức về những chân lý thậm thâm nhưng giản dị này.

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Trong việc phát sinh từ bi yêu thương, chúng ta bắt đầu bằng việc nhận thức rằng chúng ta không muốn khổ đau và chúng ta có quyền để có hạnh phúc. Điều này có thể thẩm tra hay đánh giá bằng kinh nghiệm của chúng ta. Rồi thì chúng ta nhận ra rằng những người khác, cũng chỉ là giống như chính chúng ta, cũng không muốn khổ đau, và họ có quyền đế có hạnh phúc. Thế nên điều này trở thành căn bản cho việc bắt đầu phát sinh lòng từ bi yêu thương

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Trong mặt ý nghĩa, chúng ta có thể định nghĩa từ bi yêu thương cảm giác không thể chịu đựng nổi trước cảnh khổ đau của người khác, những chúng sinh khác. Và nhằm để phát sinh cảm giác ấy, trước tiên chúng ta phải có một nhận thức sâu sắc về sự nghiêm trọng hay tính dữ dội của nổi khổ đau của người khác. Vì thế, tôi nghĩ rằng nếu chúng ta thấu hiểu càng trọn vẹn hơn về khổ đau và những loại khổ đau khác nhau mà chúng ta phải chịu, thì trình độ từ bi yêu thương của chúng ta sẽ càng sâu xa hơn. 

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Khi chúng ta nghĩ về những khổ đau của chính mình, chúng ta có thể cảm thấy bị tràn ngập, vô vọng. Có một cảm giác nặng nề, một loại u tối hay tê liệt. Bây giờ, trong việc phát sinh từ bi yêu thương, khi chúng ta đang đón nhận khổ đau của người khác, chúng ta có thẻ cũng kinh nghiệm vào lúc đầu một sự không thoãi mái nào đó, một cảm giác không chịu nổi. Nhưng với từ bi yêu thương, cảm giác khác biệt hơn nhiều, bên dưới của cảm giác khó chịu là một trình độ tỉnh giácquyết tâm cao thượng bởi vì chúng ta chia sẻ khổ đau của người khác một cách tự nguyện và cố ý cho một mục tiêu cao cả hơn. Có một cảm giác liên hệ và dấn thân, một ý chí để vươn tới người khác, một cảm giác tươi sáng hơn là u tối. 

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Trong việc nhìn vào những phương tiện khác nhau của việc phát triển từ bi yêu thương, tôi nghĩ rằng sự đồng cảm là một nhân tố quan trọng, khả năng để đánh giá đúng nổi khổ của người khác … Chúng ta có thể cố gắng đề gia tăng lòng từ bi yêu thương bằng việc thử đồng cảm với cảm giác hay kinh nghiệm của người khác, bằng việc sử dụng sự tưởng tượng của chúng ta, sự sáng tạo của chúng ta, để tự hình dung trong những tình cảnh của người khác.

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Bất cứu khi nào tôi gặp con người, tôi luôn luôn tiếp cận với họ từ một quan điểm của những điều căn bản nhất mà chúng ta có thông thường. Mỗi chúng ta có một cấu trúc thân thể, một tâm thức, và những cảm xúc. Tất cả chúng ta sinh ra trong cùng một cách, và tất cả chúng ta cùng sẽ chết. Tất cả chúng ta muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau. Nhìn những người khác từ quan điểm này tốt hơnnhấn mạnh những khác biệt thứ yếu, chẳng hạn sự kiện tôi là người Tây Tạng, hay một màu sắc hay tôn giáo khác biệt, hay một quá khứ văn hóa khác biệt, cho phép tôi có một cảm giác rằng tôi đang gặp gở một người cũng giống như tôi. Tôi thấy rằng sự liên hệ đến những người khác trên bình độ ấy làm cho tôi dễ dàng hơn để trao đổi và đối thoại với mỗi người khác nhau. 

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Tôi nghĩ rằng đồng cảm là quan trọng không chỉ như một phương tiện của việc làm nổi bật từ bi yêu thương, mà tôi nghĩ, nói một cách thông thường, khi đối diện với người khác trên bất cứ trình độ nào, nếu chúng ta có một vài khó khăn nào đấy, cực kỳ hữu ích để có thể cố gắng đặt chính mình trong vị trí của người khác và thấy để thấy chúng ta đáp ứng đến hoàn cảnh như thế nào.

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Trên trình độ cá nhân, biểu hiện cởi mở và chia sẻ mọi thứ có thể rất hữu ích. Do bởi tính tự nhiên này, tôi có thể kết bạn một cách dễ dàng hơn, và không chỉ là vấn đề biết người và có một sự trao đổi bề ngoài nhưng là một sự thay đổi thật sự những vấn nạn và khổ đau sâu thẩm của tôi. Và cũng giống như khi tôi nghe một tin tức tốt đẹp; tôi lập tức chia sẻ với người khác. Do vậy, tôi cảm nhận một tình cảm và liên hệ thân mật với những người bạn của tôi. 

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Tôi nghĩ rằng nếu chúng ta đang tìm cách xây dựng một mối quan hệ toại nguyện, điều tốt nhất đem đến điều này là phải tìm hiểu để biết bản chất tự nhiên sâu xa của người ấy và liên hệ với người ấy trên trình độ ấy, thay vì chỉ đơn thuần trên căn bản của những đặc trưng bề ngoài. Và đây là loại quan hệ có vai trò của lòng từ bi chân thành

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Nếu chúng ta đang gặp phải rắc rối trong những mối quan hệ, thường thì rất hữu ích để dừng lại và quán chiếu một cách đơn giản trên bản chất tự nhiên nền tảng và căn bản của mối quan hệ ấy. Thí dụ, trong những mối quan hệ thân hữu, có thể một số đã đặt căn cứ trên sự giàu sang, quyền lực, hay vị thế. Những mối quan hệ thân hữu này sẽ tiếp tục khi mà sự giảu sang, quyền lực hay vị thế của chúng ta kéo dài, nhưng quan hệ thân hữu ấy sẽ bắt đầu biến mất một khi những thứ kể trên mà chúng ta vốn có không còn nữa. Trái lại, có thể có một loại tình thân hữu căn cứ trên cảm giác chân thật của con người, một cảm giác gần gũi, trong ấy có một ý nghĩa của chia sẻ và liên hệ

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Nhân tố kéo dài một tình thân hữu chân thành là một cảm giác ảnh hưởng.

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Một số mối quan hệ căn cứ trên sự hấp dẫn tình dục. Nhưng có thể có hai loại quan hệ chính căn cứ trên sự hấp dẫn tình dục: loại thứ nhất căn cứ đơn thuần trên sự thèm khát tình dục. Một mối quan hệ xây dựng chủ yếu trên sự thèm khát tình dục giống như một ngôi nhà xây dựng trên nền tảng của băng đá – ngay khi mà băng tan, tòa nhà sẽ sụp đổ. Trong loại thứ hai, thêm vào sự hấp dẫn thân thể là một nhận thức nền tảng đúng đắn về giá trị của người kía, một sự tôn trọng hổ tương, căn cứ trên việc có đủ thời gian để hiểu biết một cách chân thành những đặc tính căn bản của người kía. Mối quan hệ này sẽ tồn tại lâu dàiđáng tin cậy hơn nhiều. 

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Tôi nghĩ rằng, bỏ qua một bên sự theo đuổi không bao giờ chấm dứt về tình yêu lãng mạn có thể ảnh hưởng sự lớn mạnh tâm linh sâu xa của chúng ta như thế nào, ngay cả từ nhận thức của lối sống quy ước thế gian, lý tưởng hóa tình yêu lãng mạn có thể được xem như là một cực đoan. Không giống như những mối quan hệ của những ai căn cứ trên sự quan tâmảnh hưởng chân thành, đây là một vân đề khác …Nó là điều gì đấy căn cứ trên sự tưởng tượng, không thể đạt được, và do thế, có thể là một nguồn gốc của sự thất vọng. Thế nên, trên căn bản ấy tình yêu lãng mạn không thể được xem như là một vấn đề tích cực.

 --- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Tôi nghĩ rằng trong nhiều trường hợp, người ta có khuynh hướng trông chờ người khác đáp ứng đến họ trong một cách tích cực trước, hơn là tự họ khởi xướng để tạo nên sự tích cực đấy. Tôi nghĩ rằng điều ấy là sai; nó đưa đến rắc rối và có thể hành động như rào chắn chỉ phục vụ để thúc đẩy một cảm giác cô lập từ những người khác. Do vậy, nếu chúng ta mong ước chiến thắng cảm giác cô lậpđơn độc, tôi nghĩ rằng thái độ tiềm tàng của chúng ta đã làm nên một sự khác biệt vô cùng. Và sự tiếp cận của người khác với tư tưởng từ bi yêu thương trong tâm hồn của chúng ta là cung cách tốt nhất để làm điều này. 

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Một trong những niềm tin nền tảng của tôi là không chỉ chúng ta vốn sở hữu khả năng cho từ bi yêu thương, mà tôi tin rằng căn bản hay tiềm tàng tự nhiên của con ngườihiền lành và trắc ẩn… Đấy là đặc trưng tự nhiên ưu thế của con ngườiTuy nhiên, tôi cảm thấy chỉ tính tự nhiên tiềm tàng này của con người thì không đủ -- chúng ta cũng phải phát triển một sự tỉnh thức sâu xađánh giá đúng sự kiện này, thay đổi việc chúng ta nhận thức như thế nào. Điều này có thể có một tác động thật sự trên việc chúng ta tương tác như thế nào đối với người khác và hướng dẫn đời sống hằng ngày của chúng ta như thế nào.

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Một khi chúng ta kết luận rằng tự nhiên căn bản của con ngườitrắc ẩn động lòng hơn gây hấn xung đột, mối quan hệ của chúng ta với thế giới chung quanh thay đổi một cách lập tức. Việc thấy người khác vốn là yêu thương trắc ẩn thay vì thù địchvị kỷ giúp chúng ta thư giản, tin tưởng, sống thanh thản. Nó làm chúng ta hạnh phúc vui tươi hơn.

--- HOWARD CUTLER

Khi sự thông minh của con ngườithiện ý hay lòng yêu thương của con người được sử dụng phối hợp với nhau, tất cả những hành động của con người trở nên xây dựng. Khi chúng ta kết hợp một trái tim ấm áp với tri thức và học vấn, chúng ta có thể học để tôn trọng quan điểmquyền lợi của người khác. Điều này trở thành căn bản của tâm linh hòa hợp có thể được sử dụng để vượt thắng tính gây hấngiải quyết sự xung đột của chúng ta. Do vậy, bất kể sự bạo động là bao đi nữa hay bao nhiêu điều xấu mà chúng ta phải trãi qua, tôi tin rằng giải pháp cơ bản cho những xung đột của chúng ta, cả bên trong lẫn bên ngoài, dựa trên nền tảng hay tính tự nhiên tiềm tàng của con người, mà đấy là hiền lànhtrắc ẩn yêu thương

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 162)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 215)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 409)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 308)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 337)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 619)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 677)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 636)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 685)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 599)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 540)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 685)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 701)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 491)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 574)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 667)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 588)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 590)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 709)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 702)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 768)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 790)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 767)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 958)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 826)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1382)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 910)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1074)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1059)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 990)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 980)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1120)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1397)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1740)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1156)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 965)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 816)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 944)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 970)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1394)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1138)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1171)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 924)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1068)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1516)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1394)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1382)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 979)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1372)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1288)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1248)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant