Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

3. Chuyển Hóa Khổ Đau

07 Tháng Mười 201300:00(Xem: 5664)
3. Chuyển Hóa Khổ Đau

BẢN CHẤT CỦA HẠNH PHÚC
Cẩm Nang Cho Đời Sống
Nguyên tác:  The Essence Of Happiness – A Guidebook for living
Tác giả: His Holiness The Dalai Lama và Howard C. Cutter, M.D.
Chuyển ngữTuệ Uyển Tỳ kheo Thích Từ-Đức / 20 – 11 – 2010

3. CHUYỂN HÓA KHỔ ĐAU


Rắc rối chực hờ để sinh khởi trong đời sống. Cố gắng để tránh hay đơn giản không nghĩ về chúng có thể làm cho chúng ta tạm thời thoãi mái, nhưng có một sự tiếp cận tốt hơn: nếu chúng ta ở trong một chiến trận, cho đến khi nào mà chúng ta còn mờ mịt về vị thế và khả năng chiến đấu của kẻ thù, chúng ta sẽ hoàn toàn không thể chuẩn bị và tê liệt bởi sợ hãi. Nhưng nếu chúng ta biết khả năng chiến đấu, vũ khí của đối phương, và v.v…, rồi thì chúng ta sẽ ở trong một vị thế khá hơn nhiều khi chúng ta dấn thân vào cuộc chiến. Tương tự như thế, đối diện một cách trực tiếp khổ đau của chúng ta tốt hơn là lẫn tránh nó sẽ giúp chúng ta đánh giá đúng chiều sâu và bàn chất của vấn đề, và chúng ta sẽ ở trong một vị thế tốt hơn để đối phó với nó.

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Cho đến khi nào chúng ta nhìn khổ đau như một thể trạng không tự nhiên, một điều kiện bất bình thườngchúng ta sợ hãi, lẫn tránh, và phủ nhận, chúng ta sẽ không bao giờ nhổ được gốc những nguyên nhân của khổ đau và bắt đầu sống một cuộc đời hạnh phúc hơn. 

--- HOWARD CUTLER

Thái độ của chúng ta đối với khổ đau trở nên rất quan trọng bởi vì nó có thể ảnh hưởng đến việc chúng ta đương đầu với đau khổ khi nó sinh khởi. Bây giờ, thái độ thông thường của chúng ta trùng hợp một khuynh hướng ác cảm và không bao dung với nổi đớn đau và khổ sở của chúng taTuy nhiên, nếu chúng ta có thể chuyển hóa thái độ của chúng ta đối với khổ đau, đón nhận một thái độ cho phép chúng ta kiên nhẫn sâu rộng hơn với nó, rồi thì điều này có thể hoạt động nhiều hơn để giúp làm mất tác dụng những cảm giác của nổi bất hạnh, bất mãn, và bất toại nguyện của tinh thần .

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Trong khi chùn lại với khổ đau là tự nhiên, đôi khi nó có thể làm chúng ta mạnh mẽ, ngay cả đem ra cái tuyệt hảo nhất của chúng ta. Như một nhân vật trong tác phẩm Người Thứ Ba của Graham Green quán sát, “Ở Ý Đại Lợi trong ba mươi năm dưới triều đại Borgia, người ta có chiến tranh, nỗi kinh hãi, ám sát, và tắm máu – nhưng chúng đã sản sinh ra Michelangelo, Leonardo da Vinci, và thời đại Phục Hưng. Ở Thụy Sĩ, người ta có tình huynh đệ, năm trăm năm dân chủ và hòa bình, và người ta đã sản xuất được gì? Cái đồng hồ cuckoo.” 

Ở những thời điểm khác, khổ đau có thể làm dịu chúng ta xuống, nguyên nhân của một sự tổn thương có thể làm sâu xa thêm mối liên hệ của chúng ta với người khác – như nhà thơ William Wordswortb đã nói, một nỗi khổ đau sâu lắng đã nhân tính hóa tâm hồn tôi.”

--- HOWARD CUTLER

Trong việc tìm kiếm cho một ý nghĩa hay giá trị thực tiển nào đấy của khổ đau, có một khía cạnh khổ đau của chúng ta mà nó quan trọng thiết yếu: sự tỉnh thức về sự đớn đau và khổ sở của chúng ta hổ trợ chúng ta phát triển khả năng cho sự đồng cảm của chúng ta, khả năng cho phép chúng ta liên hệ đến cảm giác và khổ đau của người khác. Điều này làm nổi bật khả năng cho sự từ bi yêu thương đối với người khác. Do vậy, như một sự hổ trợ trong việc giúp chúng ta liên hệ với người khác, nó có thể được thấy như có giá trị. Nhìn vào khổ đau trong cách này, thái độ của chúng ta có thể bắt đầu thay đổi – sự khổ đau của chúng ta không đến nổi tệ hại như chúng ta nghĩ.

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Thời gian và nổ lực mà chúng ta dành để tìm ý nghĩa trong khổ đau sẽ tặng cho chúng ta những phần thưởng quan trọng khi những vấn đề tệ hại bắt đầu lên tiếng. Nhưng nhằm để thu hoạch những phần thưởng ấy, chúng ta phải bắt đầu sự tìm tòi nghiên cứu của chúng ta cho ý nghĩa ấy khi mọi việc đang diễn tiến tốt lành. Một cây to với rể cắm sâu, bủa rộng có thể đứng vững trước những cơn gió bảo mạnh nhất, nhưng cây không thể phát triển bộ rể giống như cơn bảo xuất hiện nơi chân trời.

--- HOWARD CUTLER

Phản chiếu trên khổ đau quan trọng vô cùng bởi vì bằng vào việc nhận ra bản chất tự nhiên của khổ đau, chúng ta sẽ phát triển một giải pháp to rộng hơn để chấm dứt những nguyên nhân của khổ đau và những hành vi bất thiện đưa đến đau khổ. Và nó sẽ gia tăng nhiệt tình của chúng ta cho việc dấn thân trong những hành vi và cung cách đưa đến hạnh phúc và niềm vui. 

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Quan điểm phải được phát sinh trong tâm thức, là lý do tại sao phản chiếu trên sự kiện khổ đau là rất quan trọng, là có một khả năng cho một con đường để thoát ra; có một phương cáchCó một khả năng để thoát khỏi khổ đau

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Có nhiều phương cách mà trong ấy chúng ta có thể góp phần một cách hiệu lực cho kinh nghiệm của chúng ta về sự băn khoăn và khổ đau tinh thần. Mặc dù, trong phổ thông, những cảm xúc phiền não có thể đến một cách tự nhiên, thông thường nó là sự tăng cường của chính chúng ta cho những cảm xúc tiêu cực ấy làm cho vấn đề tệ hại thêm rất nhiều. Thí dụ, khi chúng ta giận dữ hay thù hận một người, nếu chúng ta nghĩ về sự bất công đã làm cho chúng ta, những cung cách mà chúng ta đã bị đối xử không công bằng, và cứ nghĩ đi nghĩ lại về điều ấy, thì nó sẽ nuôi dưỡng cho thù hận. Qua sự lẩn quẩn và suy nghĩ liên tục này, chính chúng ta có thể làm cho những cảm xúc của chúng ta căng thẳng hơn và mạnh mẽ hơn.

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Chúng ta thường tô bồi cho sự đớn đau và khổ sở của chúng ta bằng việc thể hiện nhạy cảm thái quá, phản ứng dữ dội đến những vấn đề không quan trọng, và đôi khi ôm đồm một cách quá cá nhânChúng ta có khuynh hướng đem những vấn đề nhỏ bé một cách quá nghiêm trọng và thổi phồng kich thước của chúng, trong khi cùng lúc chúng ta thường dửng dưng đối với những vấn đề thật sự quan trọng, những vấn đềảnh hưởng sâu đậm và hậu quả lâu dài cùng những liên can trên đời sống của chúng ta. Vì thế, tôi nghĩ đến một phạm vi rộng, cho dù chúng ta đau khổ hay không tùy thuộc trên việc chúng ta đáp ứng đến hoàn cảnh nào đấy ra sao.

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Bắt đầu của việc giải thoát chúng ta khỏi khổ đau là khảo sát một trong những nguyên nhân chính: sự đề kháng để thay đổi.

--- HOWARD CUTLER

Điều cực kỳ quan trọng là khảo sát những nguyên nhân hay nguồn gốc của khổ đau, nó khởi sinh như thế nào. Chúng ta phải bắt đầu tiến trình ấy bằng việc đánh giá đúng bản chất tự nhiên vô thườngnhất thời đối với sự tồn tại của chúng taMọi vật, mọi sự kiện, và mọi hiện tượngnăng động, thay đổi trong từng thời khắc, không có điều gì là không chuyển động… Do vậy, tại bất cứ thời điểm nào, bất kể trãi nghiệm của chúng ta có thể là dễ thương hay vừa ý , nó sẽ không bền lâu. Điều này trở thành một đặc trưng căn bản của khổ đau được biết trong Đạo Phật là “khổ đau của thay đổi” (hoại khổ).

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Hành động thừa nhận hay công nhận rằng thay đổi là một bộ phận tự nhiên của sự tương tác của chúng ta với người khác, có thể đóng một vai trò quan trọng trong những mối quan hệ của chúng ta. Chúng ta có thể khám phá ra rằng chính ngay khi chúng ta có thể cảm thấy chán chường nhất, giống như điều gì đó đã đi ra khỏi mối quan hệ, thì lúc ấy, một sự chuyển hóa sâu sắc có thể xãy ra.

--- HOWARD CUTLER

Mặc dù chúng ta không thể luôn luôn có thể tránh những tình huống khó khăn, chúng ta có thể điều chỉnh mức độ đến vấn đề chúng ta khổ đau bằng việc chúng ta chọn lựa để đáp ứng đến hoàn cảnh như thế nào.

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Mỗi chúng ta đã từng làm điều gì đấy sai trái. Có những thứ chúng ta hối hận – những thứ chúng ta đã làm, những thứ chúng ta đã phải làm, hay những thứ chúng ta đã không làm. Công nhận những việc làm sai trái của chúng ta với một cảm giác chân thành của sự hổi hận có thể giữ cho chúng ta đi trên lối mòn đúng đắn, động viên chúng ta sửa chửa những sai lầmđiều chỉnh mọi việc của chúng ta trong tương lai. Nhưng nếu chúng ta cho phép hối hận để thoái hóa thành tội lỗi, chấp giữ trong ký ức về những sai phạm quá khứ của chúng ta với sự tự trách móc và tự thù hận, điều này sẽ không phục vụ cho một mục tiêu nào hơn là một nguồn gốc của sự tàn nhẫn không thương xót tự trừng phạt và tự đem lại khổ đau.

--- HOWARD CUTLER

Khả năng đề nhìn vào những sự kiện từ những quan điểm khác nhau có thể rất lợi ích. Rồi thì, thực tập điều này, chúng ta có thể sử dụng những kinh nghiệm nào đấy, những bi kịch nào đấy để phát triển một sự tĩnh lặng của tâm hồnChúng ta phải nhận thức rằng mỗi hiện tượng, mỗi sự kiện, có những khía cạnh khác nhau. Mỗi thứ có một bản chất tự nhiên tương đối.

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Trong đời sống hằng ngày của chúng ta, rắc rối sinh khởi lúc nào cũng vậy. Nhưng những rắc rối tự chúng không làm đau khổ một cách tự động. Nếu chúng ta có thể đối diện với những rắc rối của chúng ta một cách trực tiếp và tập trung năng lượng trong việc tìm kiếm một giải pháp, thí dụ, rắc rối có thể được chuyển biến thành một sự thử thách.

--- HOWARD CUTLER

Nói một cách phổ thông, một khi chúng ta đã ở trong một tình huống khó khăn rồi, thì không thể thay đổi thái độ chúng ta một cách đơn giản bằng việc tiếp nhận một tư tưởng đặc thù nào đấy một lần hay hai lần. Đúng hơn, đấy là một tiến trình của học hỏi, nghiên cứu, rèn luyện, và trở nên quen thuộc với những quan điểm mới mà có thể cho phép chúng ta đối phó với sự khó khăn.

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Một tâm thức mềm mõng, một kiễu mẫu uyển chuyển của suy tư, giúp cho chúng ta đối diện với những vấn đề của chúng ta từ những quan điểm phong phú đa dạng. Và thẩm tra nghịch đảo, thận trọng những vấn đề “từ những góc cạnh khác nhau” là một loại rèn luyện uyển chuyển cho tâm thức…Cuộc sống ngày nay được đặc trưng bởi đột ngột, bất ngờ, và đôi khi thay đổi bạo động. Một tâm thức mềm mõng có thể giúp chúng ta điều hòa những thay đổi xãy ra chung quanh chúng ta. Không có sự trau dồi một tâm thức mềm dẽo, quan điểm của chúng ta trở nên giòn cứng, dễ gãy vở và mối quan hệ của chúng ta với thế giới trở nên biểu thị bằng sợ hãi. Nhưng bằng việc tiếp nhận một sự tiếp cận mềm dẽo đến đời sống, chúng ta có thể duy trì sự điềm tĩnh của chúng ta ngay cả khi ở dưới những điều kiện náo động nhất. Qua nổ lực để đạt đến một tâm thức uyển chuyển mà chúng ta có thể nuôi dưỡng khả năng phục hồi hay sức bật của tâm linh nhân loại.

--- HOWARD CUTLER

Dường như rằng bất cứ khi nào có cảm xúc sôi nổi liên hệ, thì ở đấy có những khuynh hướng của một sự không tương ứng giữa việc sự vật xuất hiện như thế nào và chúng thật sự như thế nào.

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Thông thường, nếu chúng ta thẩm tra bất cứ tình huống nào một cách cẩn thận trong một cung cách vô tưchân thành, thì chúng ta sẽ nhận thấy rằng đối với một phạm vị rộng rãi chúng ta cũng có trách nhiệm cho việc hiển lộ sự kiện… Sự thực tập này liên hệ đến việc nhìn vào sự vật trong một cung cách chính thể luận (tương tức tương nhập) – chính là việc nhận ra rằng có nhiều sự kiện góp phần đến một hoàn cảnh

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Sự tiếp cận cân bằng và thiện xảo đến đời sống, chăm sóc để tránh những cực đoan, trở thành một nhân tố rất quan trọng trong việc hướng dẫn sự hiện hữu mỗi ngày của chúng ta. Điều này quan trọng trong tất cả mọi khía cạnh của đời sống

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Ngày xưa, có một người đệ tử của một triết gia Hy Lạp, được Thầy mình ra lệnh, trong ba năm, cho tiền đến mọi người lăng mạ anh ta. Khi thời gian ấy đã qua, vị Thầy nói, “Bây giờ con có thể đến Athens (thủ đô Hy Lạp) và học Tuệ Trí.” Trong lúc đi vào Athens, người đệ tử gặp một người thông tuệ nào đấy ngổi tại cổng, xỉ vả mọi người qua lại. Ông ta cũng sỉ nhục người đệ tử, người bật ra cười. “Tại sao ngươi cười? “người thông tuệ hỏi. Người đệ tử trả lời, “Bởi vì trong ba năm, tôi đã trả tiền cho những việc như thế này và bây giờ ông tặng nó cho tôi chẳng nhằm gì cả!” “Hãy đi vào thành,” người thông tuệ nói,”tất cả là của ngươi.”

--- HOWARD CUTLER

Khả năng để thay đổi viễn tượng tương lai – việc hỏi, “Làm thế nào tôi có thể thấy việc này một cách khác biệt?”có thể là một trong những khí cụ mạnh mẽ và hiệu quả nhất mà chúng ta có để giúp chúng ta đương đầu với những vấn nạn của đời sống. --- HOWARD CUTLER


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 100)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 127)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 196)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 135)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 188)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 170)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 199)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 227)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 310)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 548)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 411)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 404)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 499)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 687)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 741)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 771)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 771)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 678)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 633)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 651)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 759)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 779)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 875)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 634)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 554)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 643)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 769)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 648)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 649)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 750)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 763)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 760)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 800)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 842)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 816)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1018)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 882)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1538)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 996)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1150)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 891)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1133)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1055)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1050)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1207)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1481)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1836)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1027)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1291)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1034)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 890)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1012)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1034)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1452)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1203)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1230)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 974)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1113)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1578)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant