Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đức Phật đã chuẩn bị những gì trước khi Đại diệt độ?

11 Tháng Sáu 201421:52(Xem: 9198)
Đức Phật đã chuẩn bị những gì trước khi Đại diệt độ?

blankTheo truyền thống Phật giáo Theravāda, Vesak là lễ kỷ niệm ba sự kiện trọng đại gắn liền với cuộc đời Đức Phật: ngày Đức Phật Đản sinh, ngày Đức Phật Thành đạo, và ngày Đức Phật nhập Niết-bàn. Chính vì kết hợp ba sự kiện quan trọng này nên lễ Vesak cũng được gọi là lễ Tam hợp. Tưởng niệm ngày Tam hợp, cũng là dịp nhắc nhở chúng ta về những lời dạy của bậc Đạo sư.

Đức Phật là bậc tự chủ hoàn toàn chuyện sống, chết. Việc muốn sống bao lâu hoặc ra đi vào thời điểm nào, Đức Phật đều có thể tự mình quyết định. Đó là sự thực được ghi nhận khi Đức Phật báo trước cho môn đệ và cả những thế lực chống đối về thời điểm Ngài sẽ viên tịch. Hơn đâu hết, với chân lý mà Ngài đã giác ngộ: Không có cái gì sinh mà không già, không chết (1), thì việc từ bỏ xác thân tứ đại cũng là một cách khẳng định và làm rõ thêm, về những quy luật căn bảnĐức Phật đã dày công khám phá.

Có thể nói, kể từ thời điểm Ngài tuyên bốSau ba tháng bắt đầu từ hôm nay Như Lai sẽ diệt độ. Này Ananda, hôm nay tại điện thờ Càpàla, Như Lai chánh niệm, tỉnh giác, từ bỏ thọ, hành (không duy trì mạng sống lâu hơn nữa) (2), thì còn rất nhiều việc mà Đức Phật đã nghiêm cẩn chuẩn bị cho cuộc trở về vĩ đại của mình.

Qua việc khảo sát kinh Đại bát Niết-bàn, các bản kinh liên quan và các dịch phẩm tương đương trong Hán tạng, đã phát lộ những chi tiết quan trọng về việc Đức Phật đã chuẩn bị cho sự kiện Đại diệt độ. Trong số những chi tiết theo kinh văn, người viết chỉ tập trung vào bốn trọng tâm chính. Thứ nhất, kiện toàn tổ chức Tăng-già; thứ hai xác tín Kinh, Luật làm kim chỉ nam; thứ ba hiện thân cho lý tưởng phụng sựcuối cùngchỉ định cư sĩ phụ trách tang nghi.

Kiện toàn tổ chức Tăng-già

Sau những góp ý dành cho Bà-la-môn Vassakara, đại thần nước Magadha, liên quan đến những giải pháp dành cho việc trị an quốc gia, thuật ngữ thường gọi là bảy pháp bất thối; nhân đó, Đức Phật đã thể hiện sự quan tâm sâu sát đến sự tồn tại và phát triển vững chãi của đoàn thể Tăng-già.

Ngài đã cho Tôn giả Ananda triệu tập Tăng chúng ở gần Rajagaha và chỉ dạy về những nguyên tắc cơ bản cho một sự ổn định và phát triển bền vững của tổ chức đoàn thể xuất gia. Theo thống kê, chỉ trong tụng phẩm thứ nhất của kinh Đại bát Niết-bàn, Đức Phật đã liệt kê có tới 35 pháp bất thối và sáu nguyên tắc căn bản cho sự hòa hợp của đoàn thể Tăng (3).

Trong 35 pháp bất thối và sáu nguyên tắc sống chung liên quan thâm thiết đến bản thể sinh mệnh của Tăng-già. Theo Đức Phật, bản thể sinh mệnh của Tăng-già là nội chứng, là thiền định, là giới luật. Sống tuân thủ theo học giới, tu tập Tứ niệm xứ, Thất giác chi, quán lý vô thường, vô ngã, bất tịnhhư giả,… thì đoàn thể Tăng-già sẽ vững chãi về sinh mệnh. Nói cụ thể, nỗ lực chuyển hóa tự thân theo những phương thức mà Đức Phật đã chỉ dạy, là điều kiện căn bản nhằm góp phần vào việc kiện toàn tổ chức Tăng-già.

Bên cạnh đó, sức mạnh của Tăng chínhsức mạnh tổng hợp của các cá nhân sống trong đoàn thể. Muốn có được sức mạnh đó, cần phải tôn trọng những nguyên tắc sống chung. Sự cung kính, tôn trọng các bậc cao niên lạp trưởng, biết tàm, biết quý, không tụ họp và phiếm luận vô bổ, giữ gìn sáu phép hòa kính, sống với nhau hòa hợp như nước với sữa… là những nguyên tắc và chuẩn mực làm cho đoàn thể Tăng-già phát triển vững mạnh.

Sự quan tâm đến việc sống chung và những chuẩn mực ứng xử giữa các Tỳ-kheo như danh xưng, hình thức giao tiếp giữa người nhỏ với người lớn và ngược lại cũng được Đức Phật dạy bảo hết mực chi tiết (4). Không dừng lại ở đó, Đức Phật đã có những quan tâm với những cá thể đặc thù trong tổ chức Tăng-già. Việc tìm cách chuyển hóa Tỳ-kheo Channa phạm lỗi (5) vào thời khắc cuối của đời sống, là một minh chứng sống động của Đức Phật, đối với sự ổn định, đoàn kết và phát triển của Tăng chúng.

Từ hiện thực các chúng đệ tử của giáo phái Nigantha Nathaputta không biết tôn trọng lẫn nhau, đấu tranh và tàn hại lẫn nhau sau khi giáo chủ viên tịch ở Pava, cách Kusinagar khoảng 15km về phía Đông, được ghi lại trong kinh Phúng tụng (6), kinh Thanh tịnh (7), đã làm cho vấn đề kiện toàn tổ chức Tăng-già trở thành một trong những vấn đề quan trọng và bức thiết. Bảy pháp bất thối được liên tục triển khai trên năm phương diện, cộng với sáu phép hòa kính, là một trong những cơ sở biện minh cho quan điểm này.

Xác tín Kinh, Luật làm kim chỉ nam

Sau khi Đức Phật diệt độ, thì Tăng chúng phải nương tựa vào ai và ai là người lãnh đạo Tăng-già? Đây không những là băn khoăn của riêng ngài Ananda mà dường như của hầu hết những đệ tử Phật. Đức Phật đã xóa tan nghi vấn đó bằng sự khẳng định mạnh mẽ: Này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ nương tựa một gì khác. Dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một gì khác (8). Không những thế, trong những lời cuối cùng, Đức Phật đã trở lại sự khẳng định này: Này Ananda, Pháp và Luật, Ta đã giảng dạy và trình bày, sau khi Ta diệt độ, chính Pháp và Luật ấy sẽ là đạo sư của các ngươi (9).

Lời dạy của Đức Phật đã rất mực rõ ràng khi xác tín giáo pháp là kim chỉ nam, là chỗ y cứ cho mọi phương châm và hành động của chúng đệ tử Phật về sau. Thế nhưng, một thực tế được đặt ra là ở thời Phật, kinh điển chưa được ghi lại bằng văn bản, thế nên dễ xảy ra tình trạng bất cập về nội dung. Ở đây, vấn đề làm cách nào để xác tín những lời dạy hoặc truyền tụng do chính Đức Phật thuyết, cũng là một vấn đề quan trọng, được Đức Phật thuận thứ chỉ bày.

Theo Đức Phật, cơ sở để phân biệt đâu là lời dạy chân thực của Đức Phật cần phải tham chiếu vào hai yếu tố, đó là Kinh và Luật.

Theo kinh Đại bát Niết-bàn, Đức Phật đã dẫn ra bốn trường hợp liên quan đến việc xác tín tính chân thực của kinh văn (10). Trong tất cả bốn trường hợp, dù tự nhận rằng chính bản thân được nghe từ kim khẩu của Đức Thế Tôn hoặc được nghe từ chính một vị Tỳ-kheo hay nhiều vị Thượng tọathẩm quyền về kinh điển… thì cũng không nên vội vã khẳng định rằng, đó là kinh văn do Phật thuyết. Theo Đức Phật, cần phải dựa vào Kinh và Luật mới có thể minh định đó có phải là lời dạy của Đức Phật hay không. Đây cũng là ưu tư mà trước đó Đức Phật đã dạy cho dân chúng Kalama trong bài kinh Các vị ở Kesaputta (11).

Cùng liên quan đến việc kiện toàn cơ sở Kinh, Luật, do vì bị đau lưng nên Đức Phật chỉ định Tôn giả Sariputta thay Ngài tóm tắt lại những điểm chính của giáo pháp. Đáng chú ý, trước khi bắt đầu bài pháp, Tôn giả Sariputta cũng dẫn lại câu chuyện về sự tranh cãi của môn đệ sau khi Giáo chủ Nigantha Nathaputta từ trần. Sự cấp thiết của vấn đề đã được Tôn giả Sariputta trình bày thống thiết: Này các Hiền giả, pháp này được Thế Tôn khéo giảng dạy, khéo trình bày, một Chánh pháphiệu năng hướng dẫn, hướng đến an tịnh, do vị Chánh đẳng giác trình bày. Ở đây, tất cả mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc, không cãi cọ nhau, để phạm hạnh này được trường tồn, được duy trì lâu ngày, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì an lạc cho chư Thiênloài Người (12).

Có một điều đáng lưu ý, vì trước đó khá lâu, trong đô thị Campa, Tôn giả Sariputta đã thuyết cho chúng Tỳ-kheo bài thuyết giảng với mười pháp số tương tự qua bài kinh Thập thượng (13). Trong lần này, với những nội dung căn bản, sâu sắc, cô động, bài thuyết giảng của Tôn giả Sariputta có thể được xem là cuộc kiết tập kinh điển đầu tiên khi Phật còn tại thế.

Hiện thân cho lý tưởng phụng sự

Kể từ khi chứng đạo, Đức Phật đã dành trọn thời gian còn lại của đời mình chỉ với một mục đích duy nhất: giáo hóa chúng sanh nhận ra chân lý mà Ngài đã giác ngộ. Xúc động hơn cả, trong những chặng cuối và đêm cuối của hành trình, bàng bạc trên mỗi dấu chân của Ngài vẫn chất ngất chí nguyện độ sanh.

Trong câu chuyện về bữa cơm cuối cùng ở Pava do chàng thợ rèn Cunda hiến cúng, là khúc ca bi tráng về chí nguyện độ sanh của Đức Thế Tôn (14). Theo kinh văn, Cunda cúng dường Đức Thế Tôn một bữa cơm với thức ăn tinh túy và tốt nhất trong điều kiện khả dĩ của mình. Kinh Trường bộ ghi rằng, đó là món Sùkara-maddave (một loại mộc nhĩ). Điều cực kỳ bất hạnhbữa ăn đó không phù hợp với thể trạng hiện tại của Đức Thế Tôn, nói chính xác hơn là thức ăn vô tình bị nhiễm độc, nhưng Cunda không nhận ra. Với lòng chí thành của Cunda, Đức Thế Tôn hoan hỷ thọ dụng, và để phòng hộ cho mọi người, Đức Phật đã nhỏ nhẹ bảo Cunda chôn ngay món ăn mộc nhĩ còn lại, vì không một ai ở cõi Trời, cõi Người, ở Ma giới, ở Phạm thiên giới, không một người nào trong chúng Sa-môn và chúng Bà-la-môn, giữa những Thiên, Nhân, ăn món mộc nhĩ này mà có thể tiêu hóa được, trừ Như Lai (15).

Cần phải thấy, với luận điểm: các Đức Như Lai nhập Vô dư Niết-bàn không có sự hãm hại (16), do vậy, mọi sự tác động của các yếu tố bên ngoài đều không ảnh hưởng đến thọ mạng của Đức Thế Tôn. Mặc dù vậy, với trách nhiệm của một bậc Thầy tối thượng, Đức Phật e rằng, sau khi Ngài viên tịch, thợ rèn Cunda sẽ mãi hối hận về bữa cơm cúng dường, xem đó là một trong những nguyên do làm cho Thế Tôn sớm viên tịch, nên Ngài đã căn dặn Tôn giả Anan: Có hai sự cúng dường ăn uống đồng một quả báo, đồng một dị thục quả, quả báo lớn hơn, lợi ích hơn các sự cúng dường ăn uống khác? Thế nào là hai? Một là bữa ăn trước khi Như Lai chứng vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hai là bữa ăn trước khi Như Lai diệt độ Niết-bàn giới, không còn di hưởng sanh tử. Hai bữa ăn này đồng một quả báo, đồng một dị thục quả, quả báo lớn hơn, lợi ích hơn các sự cúng dường ăn uống khác.

Có thể nói, mặc dù biết rõ thức ăn có độc, thế nhưng vì muốn lợi lạc hữu tình, cụ thể là đem lại phước quả lớn cho thợ rèn Cunda, Đức Thế Tôn đã không ngại ngần thọ dụng bữa ăn cuối. Hình ảnh bữa ăn cuối cùng của Đức Phật có nhiều nét tương đồng như ly thuốc độc mà nhà hiền triết Socrate (469-399) đã ung dung uống cạn, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc cho con người và mọi loài.

Cũng trong đêm trước khi Đại diệt độ, với lòng chí thành của du sĩ ngoại đạo Subhadda, Đức Phật đã cho thuận thứ thuyết giảng, ông ta đã phát nguyện xuất gia, thọ cụ túc giới và không bao lâu, đắc quả A-la-hán. Sự hóa độ du sĩ Subhadda trong đêm Đại diệt độ, Đức Thế Tôn đã hiện thân cho lý tưởng độ sanh không mệt mỏi, dù đó là phút cuối của đời mình.

Chỉ định cư sĩ đảm trách tang nghi

Với Đức Phật, thân thể chỉ là sự hòa hợp của tứ đại. Sau khi Đức Phật nhập Vô dư Niết-bàn thì thân tứ đại dù được kết tinh thành xá-lợi thì cũng theo quy luật tụ, tán cùng thời gian. Do đó, Ngài đã chọn phương thức hỏa tángchỉ định cho hàng cư sĩ phụ trách tang nghi.

Trước trăn trở của ngài Ananda về hình thức tang nghi và ai là người đứng ra chủ trì sự kiện quan trọng này, Đức Phật đã trang nghiêm phân định: Này Ananda, các ngươi đừng có lo lắng vấn đề cung kính thân xá-lợi của Như Lai. Này Ananda, các người hãy nỗ lực, hãy tinh tấn hướng về tự độ, sống không phóng dật, cần mẫn, chuyên hướng về tự độ. Này Ananda, có những học giả Sát-đế-lỵ, những học giả Bà-la-môn, những học giả gia chủ thâm tín Như Lai, những vị này sẽ lo cho sự cung kính cúng dường thân xá-lợi của Như Lai (17).

Đây là di huấn quan trọng, có ý nghĩa tham khảo đối với mọi vấn đề liên quan đến việc hậu sự của người xuất gia, bất kể thời đại nào. Mặc dù có mặt trong khoảng thời gian diễn ra tang lễ, thế nhưng cả ba đại đệ tử của Đức Phật như Tôn giả Maha Kassapa, Tôn giả Anurudha và Tôn giả Ananda vẫn đứng ngoài mọi diễn biến tang lễ. Nếu có đóng góp chăng, thì chỉ riêng Tôn giả Maha Kassapa châm lửa vào đài hỏa táng kim thân của Đức Từ Phụ. Ngay sau khi Đức Phật vừa diệt độ, trong phần đêm còn lại, ngồi hầu bên di thể của Đức Thế Tôn, Tôn giả Ananda và Anurudha an tịnh bàn luận Chánh pháp và chờ trời sáng, để vào thành Kusinagar thông báo cho dân chúng Mala.

Sau khi được Tôn giả Ananda thông báo, các vị cư sĩ ở Mala đã đứng ra lo tang lễ của Đức Phật và họ đã làm những gì cần làm theo di huấn. Đặc biệt, vị cưtại giaảnh hưởng quyết định trong tang lễ của Đức Phật là Bà-la-môn Dona (18). Chính bản thân vị Bà-la-môn này đã ngăn ngừa một cuộc xung đột giữa tám nước, khi các nước muốn phụng thỉnh một phần xá-lợi của Đức Thế Tôn về xây tháp tôn thờ. Một vị Bà-la-môn, không phải là người xuất gia, đứng ra phân chia xá-lợi của Đức Phật và có khả năng thuyết phục cả tám nước, thì tất có một nhân thân vững chãi, đặc thù.

Đọc kỹ lại kinh văn, nhân thân của Bà-la-môn Dona hiện rõ dần. Trước hết, đó là vị Bà-la-môn phát hiện dấu chân rất lạ và dõi theo chúng, để cuối cùng diện kiến Đức Phật trên con đường giữa Ukkatthà và Setabbya. Từ cuộc hội kiến, Bà-la-môn đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác và cuối cùng nhận ra người đang đàm thoại chính là một vị Phật (19). Từ nhân duyên gặp Phật ban đầu, Bà-la-môn Dona từng bước hâm mộ Phật pháp. Trong cuộc tham vấn về năm hạng Bà-la-môn, ngài Dona đã xin quy y với Đức Thế Tônchính thức trở thành một vị cưtại gia thâm tín Tam bảo (20). Được biết, đã có một bảo tháp được xây dựng để tôn thờ cái bát mà Bà-la-môn Dona dùng để phân chia xá-lợi Đức Phật. Ngài Huyền Trangxác nhận trong nhật ký của mình và theo ngành du lịch Ấn Độ, bảo tháp này vẫn hiện còn tại một địa điểm gần Kusinagar (21).

Như vậy, mặc dù tang nghi Đức Phật chỉ định do hàng cư sĩ phụ trách, thế nhưng, căn cứ vào tư liệu kinh văn đã xác tín, đó là hạng cư sĩ vững chãi, thâm tín Tam bảo, mới đủ phước, đủ duyên thực hiện thiện hạnh rất mực quan trọng này.

Thay lời kết hay vài suy nghĩ về hậu sự của người xuất gia

Trong thời Đức Phật, các vị xuất gia lấy việc tu tập, thú hướng giải thoát, xem đó là việc chính yếu và không quá chú trọng về các thể thức tang nghi. Theo kinh điển ghi lại, đã có vài vị Tỳ-kheo bị rơi xuống núi tử nạn, bị rắn cắn chết, bị mạng vong do bệnh tật và tang lễ được tổ chức rất mực giản đơn. Ngay như cao đệ của Đức PhậtTôn giả Sariputta, tang lễ của ngài diễn ra đơn giản, chỉ có vài vị xuất gia bên cạnh và sau đó, Sa-di Cunda hỏa thiêu xác thân, thu lấy xá lợi bỏ vào bình báttrở về cáo bạch cùng Đức Thế Tôn (22).

Học theo sự giản đơn về tang nghi của tiền nhân, trong di ngôn của Huyền Tráng, ngài mong muốn chỉ được bó chiếu chôn (23). Gần hơn, Pháp sư Thánh Nghiêm cũng chọn hỏa táng và tro cốt còn lại đem rải trong rừng cho cây cối tốt tươi (24). Ở Việt Nam trong quá khứhiện tại, cũng có nhiều bậc cao tăng thể hiện sự giản đơn nhất định, trong việc lo hậu sự của mình.

Đành rằng, tùy theo không gian văn hóa mà ở mỗi quốc gia, khu vực có những cách thức xử lý đối với di thể người đã khuất. Trong những táng thức đặc thù của từng khu vực, thì riêng đối với người xuất gia, việc gia tăng sự tu tập của bản thân, hầu lấy đó làm công đức yểm trợ cho người vừa khuất, tối giản đến mức có thể các thể thức tang nghi… là những lựa chọn gần giống với những điều mà bậc Thầy của mình đã làm, từ hàng ngàn năm trước.

 Chú thích

(1) Kinh Tương ưng, tập 1, Thiên có kệ, chương 3, Tương ưng Kosala, phẩm thứ nhất, kinh Vua.

(2) Kinh Trường bộ, kinh Đại bát Niết-bàn, số 16, tụng phẩm III, NXB. Tôn giáo, 2013, tr.309.

(3) Kinh Trường bộ, kinh Đại bát Niết-bàn, số 16, Tụng phẩm I, NXB. Tôn giáo, 2013, tr.280-284.

(4) Kinh đã dẫn, tr.337. Nguyên văn: Này Ananda, nay các vị Tỳ-kheo xưng hô với nhauHiền giả. Sau khi Ta diệt độ, chớ có xưng hô như vậy. Này Ananda, vị Tỳ-kheo niên lão hãy gọi vị Tỳ-kheo niên thiếu, hoặc bằng tên, hoặc bằng họ, hoặc bằng tiếng Hiền giả. Vị Tỳ-kheo niên thiếu, hãy gọi vị Tỳ-kheo niên lão là Thượng tọa (Bhante) hay Đại đức.

(5) Kinh đã dẫn, tr.338.

(6) Kinh Trường bộ, kinh Phúng tụng, số 33, NXB. Tôn giáo, 2013, tr.645.

(7) Kinh Trường bộ, kinh Thanh tịnh, số 29, NXB. Tôn giáo, 2013, tr.571.

(8) Kinh Trường bộ, kinh Đại bát Niết-bàn, số 16, Tụng phẩm II, NXB. Tôn giáo, 2013, tr.298-299.

(9) Kinh đã dẫn, Tụng phẩm VI., tr.337.

(10) Kinh đã dẫn, Tụng phẩm IV, tr.315-316.

(11) Kinh Tăng chi, chương 3, phẩm Lớn, kinh Các vị ở Kesaputta, VNCPHVN ấn hành, 1996, tr.336.

(12) Kinh Trường bộkinh Phúng tụng, số 33, NXB. Tôn giáo, 2013, tr.647.

(13) Kinh Trường bộkinh Thập thượng, NXB. Tôn giáo, 2013, tr.691.

(14) Kinh Trường bộ, kinh Đại bát Niết-bàn, số 16, Tụng phẩm IV. NXB. Tôn giáo, 2013, tr.317-319.

(15) Kinh đã dẫn, Tụng phẩm IV, tr.318.

(16) Cullavagga, chương Chia rẽ hội chúng, Việc làm Như Lai chảy máu của Devadatta, đoạn 372.

(17) Kinh Trường bộ, kinh Đại bát Niết-bàn, số 16, Tụng phẩm V NXB. Tôn giáo, 2013, tr.329.

(18) Trong Hán tạng, kinh Trường A Hàm thì gọi là Bà-la-môn Hương Tánh; kinh Đại bát Niết-bàn, quyển 42, thì gọi là Bà-la-môn Tánh Yên; kinh Đại bát Niết-bàn, quyển Hạ, do ngài Pháp Hiển dịch thì gọi là Bà-la-môn Đồ Lô Na (徒盧那).

(19) Kinh Tăng chi, chương Bốn pháp, phẩm Bánh xe, kinh Tùy chuyển thế giới.

(20) Kinh Tăng chi, chương Năm pháp, phẩm Bà-la-môn, kinh Bà-la-môn Dona. Các bản kinh Bắc truyền liên quan đều xác tín, vị Bà-la-môn này thâm tín Tam bảo.

(21) http://www.buddhanet.net/e-learning/pilgrim/pg_04.htm

(22) Samyutt Nikaya: The grouped discourses, Satipatthana-Samyutta -The Four Frames of Reference (Foundations of Mindfulness) ; SN 47.13: Cunda Sutta - About Cunda. (Source:http://www.accesstoinsight.org).

(23) Theo, Hòa thượng Thích Minh Châu, Huyền Trang- nhà chiêm bái và học giả, theo di chúc của Pháp sư Huyền Trang, di thể ngài được phụng táng trong một cái hòm tre giản đơn.

(24) Thánh Nghiêm tự truyện, Hạnh Đoan biên dịch, NXB. Phương Đông, 2010, tr.399-342.


Hoằng Quảng

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8055)
Có ma hay không có ma ? Ma là gì ? Ma ở đâu ? Ma có làm hại được ta hay không ? Nếu phải trừ ma thì phải làm như như thế nào ?...
(Xem: 20427)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19418)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18298)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16171)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 15864)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 18953)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 14205)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 9554)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một vị Bồ tát nổi bật và được biết đến nhiều nhất trong tất cả các truyền thống Đại thừa, và đôi khi cả Tiểu thừa, như trường hợp ở xứ Tích lan và Thái lan cũng có thờ Ngài.
(Xem: 8648)
Philippe Cornu là một học giả uyên bác, thông thạo tiếng Tây Tạng, tiếng Phạn, tiếng Pali, tiếng Hán… Ông viết bảo, dịch thuật rất nhiều kinh sách, và thường được mời thuyết giảng về Phật giáo trên đài truyền hình Pháp.
(Xem: 8159)
Lý tưởng Bồ tátảnh hưởng lớn trên đời sống, tư tưởng và hành động của người Phật tử trong suốt hơn hai ngàn năm nay...
(Xem: 8845)
Đề tài của buổi giảng hôm nay là nhằm giới thiệu bức tranh ‘Địa Ngục Biến Tướng Đồ’, còn có tên là ‘Thập Vương Đồ’, do lão sư Giang Dật Tử vẽ tại Đài Trung, hiện nay đang được triển lãm tại Kinh Đô, Nhật Bản.
(Xem: 10926)
Phật giáo luôn nhắc nhở con người nên tin ở mình, tinh tấn tu hành để tự giải thoát. Thật chưa có tôn giáo nào xác nhận tinh tấnđộng lực chính giúp con người vươn đến cõi toàn thiện...
(Xem: 9061)
Tác phẩm Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo Giác Ngộ của Ngulchu Gyalsas Thogmed Zangpo là một trong những luận bản phổ biến nhất của Phật Giáo Tây Tạng...
(Xem: 8830)
Đức Phật đã dạy: “Chính sự khao khát là điều dẫn đến sự tái sinh. Đây chính là lần sinh thành cuối cùng của ta. Nay sẽ không bao giờ có sự tái sinh đối với ta”.
(Xem: 7889)
Đây là thắc mắc mà thanh niên Subha Todeyyaputta từng nêu ra cho Đức Phật với hy vọng tìm kiếm câu trả lời từ Ngài.
(Xem: 9025)
Mọi phương pháp dạy cho con người tránh né khổ đau hay trốn chạy khổ đau để tìm kiếm hạnh phúc đều không phải là những phương pháp giáo dục hoàn chỉnh.
(Xem: 35521)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 8519)
Việt Nam Đạo Phật vốn là một tôn giáo gắn bó với dân tộc, có nhiều ảnh hưởng sâu đậm đến lịch sử phát triển của đất nước, nhất là về mặt văn hóa giáo dục.
(Xem: 14988)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 8651)
Thiền định là một phương pháp hành thiền có nguồn gốc từ đạo Phật được phát triển vững mạnh trong 3 thập niên qua ở Mỹ và nhiều nước khác.
(Xem: 15188)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 9109)
Đại Tạng Kinh là một kho báu chung của mọi người Phật tử, nhưng do nhu cầu học Phật ở mỗi quốc gia mà có sự hình thành các Đại Tạng Kinh bằng những ngôn ngữ khác nhau.
(Xem: 8784)
Tâm Phật rỗng rang, không chất chứa gì cả. Tâm chúng sinh là một kho chứa khổng lồ chất đầy gánh nặng vui buồn, sướng khổ, hận thù, oan khiên nghiệt ngã của quá khứ.
(Xem: 9305)
Gót tu sĩ bốn phương trời rảo bước, Cõi Ta-bà đâu chẳng phải nhà ta, Một mình đi bình bát với cà sa, Đói xin ăn, dưới gốc cây nằm ngủ…
(Xem: 8407)
Hơn ba mươi năm, tôi làm ở hội Từ Tế. Bởi vì, tôi thường làm việc cứu trợ trong và ngoài nước, cho nên tôi cảm nhận được thiên tai, nhân họa liên tục ập xuống trái đất.
(Xem: 10256)
Báo Chánh Pháp số 34, tháng 9 năm 2014, do ĐLHT. Thích Thắng Hoan (CA) và Brodard Chateau, Brodard Restaurant & Bamboo Bistro ủng hộ ấn phí.
(Xem: 7620)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler
(Xem: 9478)
Những chướng duyên có thể giúp hành giả trên đường giải thoát. Ý niệm này, thường tìm thấy trong kinh Phật, dạy cách đánh giá cao những chướng duyên mà chúng ta gặp phải, vì nhờ chúng nên trí tuệtừ bi mới được nảy sinh.
(Xem: 7467)
Chất lượng của tâm niệm thiện lành sẽ tăng rất nhiều khi xưng danh tha thiết; vì thế, từ trạng thái nhớ nghĩ chuyển qua thực hành xưng danh niệm Phật là điều tất yếu.
(Xem: 17145)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14949)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 9463)
Kính thưa thầy, con có một thắc mắc về chơn tâmbản tánh. Sao gọi là chơn tâm? Sao gọi là bản tánh? Vậy giữa chơn tâmbản tánh giống nhau hay khác nhau?
(Xem: 20841)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 9159)
Mãi đến tận giờ, có lẽ ít người ngờ rằng Hòa thượng Thích Minh Châu ngoài phong cách một học giả có văn phong cổ kính, nghiêm túc và khô khan nhất trong làng Phật giáo Việt Nam, còn là một ngòi bút tân kỳ và thơ mộng đáng bậc thầy của không riêng Phật giáo.
(Xem: 7128)
Nếu chúng ta phân tích kinh nghiệm của chúng ta một cách cẩn thận, thế thì tôi nghĩ thật rõ ràng rằng hầu hết những quấy nhiễu tinh thần đến từ những tình trạng tinh thần tiêu cựcchúng ta gọi là phiền não.
(Xem: 17621)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17562)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 25694)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 7779)
Những người được gọi là "siêu việt" là những kẻ chân thành muốn làm tan biến tất cả khổ não của người khác bằng việc thấu hiểu nổi khổ đau của chính họ.
(Xem: 9853)
Cái không của A-hàm là xem trọng con đường giải thoát để tu trì. Cái không của Bộ phái dần dần có khuynh hướng bình luận, phân tích về ý nghĩa của pháp.
(Xem: 7240)
Tất cả mọi giáo huấn của Đức Phật đều hướng đến việc đem tới sự thực chứng nguyện vọng tức thời của chúng ta...
(Xem: 9619)
Chết là sự chấm dứt tạm thời của một hiện tượng tạm thời. Chết không phải là đoạn diệt hẳn, chết tại chỗ này nhưng lại sanh chỗ khác.
(Xem: 8090)
Thật là đại hạnh cho chúng tôi, nếu đức Thế Tôn cho phép nữ giới được sống đời xuất gia phạm hạnh thiêng liêng trong pháp và luật của đức Thế Tôn!
(Xem: 9032)
Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm...
(Xem: 7357)
Nếu bằng "cùng một nơi" chúng ta muốn nói thiên đàng[1] hay giải thoát khỏi vòng luân hồi, thế thì đấy là khó khăn...
(Xem: 8708)
Thực hành giáo lý không phải chỉ là đến chùa đọc kinh hay niệm Phật mà chính là áp dụng giáo lý của đức Phật trong đời sống hàng ngày...
(Xem: 7880)
Đức Phật nói lý nhân duyên là nói đến sự thật của đời sống con người và muôn loài vật trên thế gian này.
(Xem: 8276)
Sự hình thành các hệ tư tưởng của Phật giáo Bộ phái không ngoài mục đích đáp ứng nhu cầu thực tế của Phật giáo đương thời, xã hội hoá Phật giáo.
(Xem: 7477)
Suốt 49 năm giáo hóa độ sinh, Phật chỉ có ba y một bình bát, sống đời rày đây mai đó, tùy bệnh cho thuốc, giúp đỡ mọi người.
(Xem: 8660)
Chúng sinh trong cõi luân hồi vô thủy vô chung ấy đến rồi đi, đi rồi đến giống như hạt bụi nhỏ, phút chốc bỗng sinh trên trời, bỗng chốc sinh trên mặt đất...
(Xem: 8118)
“Ba cõi duy chỉ là tâm, muôn pháp duy chỉ là thức” là một chân lý, một sự thật được nói nhiều trong tông Duy thức, và rộng ra, có trong tất cả kinh, luận.
(Xem: 8855)
Dựa theo thuyết Thiên mệnh của Khổng Tử thì thiên mệnh là mạng lịnh của Trời. Thiên mệnh là chủ thuyết rất quan trọng trong triết lý của đạo Nho.
(Xem: 7263)
"Sau khi tôi nhập diệt, giới luật sẽ thay tôi để làm thầy của quí vị, ở đâu có giới luật thì ở đó có tôi..."
(Xem: 13939)
Tập hợp các bài viết của nhiều tác giả cùng 1 chủ đề: Tứ Diệu Đế, Bốn Chân Lý cao cả
(Xem: 7051)
... nghành Tâm lý học sẽ không bao giờ có thể giúp con người thấy đúng và rõ sự thật của tâm lý mình và tâm lý người khác.
(Xem: 10286)
Duy thức học là một học thuyết tuy được xác lập vào khoảng thế kỷ thứ tư...
(Xem: 7614)
Giáo huấn của Đức Phật nhấn mạnh rằng không có một linh hồn độc lập hay một tự ngã độc lập.
(Xem: 8442)
Trong một quyển sách nhỏ «Phật Giáo Nhập Môn» tác giả Fabrice Midal đã dành riêng một chương để tóm lược thật ngắn gọn một số các khái niệm căn bản...
(Xem: 10040)
Phật giáo vào Anh quốc bắt đầu từ thế kỷ thứ 19, qua các công trình dịch thuật kinh điển ở các nước Phật giáo Đông phương.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant