Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Cực LạcTa Bà

13 Tháng Sáu 201408:34(Xem: 7822)
Cực Lạc Và Ta Bà


Cực LạcTa Bà


Hòa Thượng Thích Thiện Huệ


blankPháp môn Tịnh độ được sáng lậptu hành dựa trên tư tưởng “Yếm ly Ta bà, hân cầu Cực Lạc”. Song vì sao phải yếm ly Ta bà và lại hân cầu Cực Lạc? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần phân tích sự khác biệt chính yếu giữa Cực LạcTa bà qua các yếu tố sau:

A. Cảnh giới

1-Cảnh giới Cực Lạc thanh tịnh từ thân tâm tới ngoại khí. Thân thanh tịnh, và tùy ý sinh thân, không có sinh lão bệnh tử. Tâm thanh tịnh luôn an trụ trong niệm Phật tam muội thuần niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng, không hề có vọng hay tà niệm, nên phàm kiến sắc văn thanh, đối lục trần đều vô nhiễm. Cảnh giới lại thanh tịnh thuần bằng bẩy báu, trang nghiêm vô cấu, không có rác rến bụi bậm, bùn sình hay phẩn uế. Khí hậu ôn hòa mát mẻ không có nóng lạnh, hạn hán, bão lụt, động đất thiên tai. Cư dân nơi Cực Lạc thân tâm thanh tịnh nên không có cảnh chém giết ăn uống, cướp đoạt sinh mạng hay tài sản của nhau. Vì vậyCực Lạc không hề nghe nói đến tam ác đạo, hà huống là thấy.

2-Cảnh giới Ta bà bất tịnh từ thân tâm đến ngoại cảnh. Thân bất tịnh được xây dựng bằng xương, quét tô bằng máu thịt, là nơi chồng chất tụ hội của vô lượng bệnh khổ và món bất tịnh, như đờm dãi, phân niệu, và chịu sự chi phối của sinh lão bệnh tử, vì thân do tứ đại hợp thành, đại nào cũng có sinh lão bệnh tử, nên thân do tứ đại hợp thành cũng phải chịu định luật sinh lão bệnh tử. Tâm bất tịnh luôn phân biệt tắng ái thủ xả theo ngã chấp, nên khởi tranh chấp gây hại tương tàn lẫn nhau. Do thân tâm bất tịnh nên cảnh giới Ta bàtam ác đạo. Cảnh giới thì bất tịnh chỉ gồm bùn đất, ô uế là nơi nhóm họp của các yếu tố gây mọi mầm bệnh. Khí hậu lại độc hại, lúc nóng lúc lạnh, đủ mọi thiên tai, xẩy ra bất ngờ, như địa chấn, hạn hán, lũ lụt, bão tố. Thân tâmcảnh giới đã bất tịnh, lại từ bất tịnh đó sinh ra cảnh chém giết tranh dành sinh mạng và tài sản của nhau, lại nuôi dưỡng thân tâm bất tịnh đó bằng sinh mạng của chúng sinh, nên tam ác đạo nhân đây mà thành hình.

B.Cư dân

1-Cư dân Cực Lạc đều là những người có niềm tin vào nguyện lực cứu độ của đức Phật Di Đà cũng như nhất thiết chư Phật. Niềm tin này bao gồm 2 loại : tin Phật và tin pháp.

Tin Phật là người có đầy đủ tâm từ bi sẽ cứu ta và mọi người. Tin pháp là trí huệ của Phật thấu triệt mọi phương pháp cứu độ ta và chúng sinh. Đức tin bao quát hai phương diện, nếu thiếu một trong hai tất không thành đức tin :
-Thứ nhất tin Ta bà là khổ cần thoát ly
-Thứ hai tin Cực Lạc là vui cần nên sinh về.

Một khi thật sự tin “Ta bà là khổ cần thoát ly”, tất quyết định lìa bỏ mọi dục lạc của Ta bà, nhạt lòng với ngũ dục. Tin “Cực lạc là vui nên sinh về”, tất quyết định vận dụng trọn ba nghiệp tiến tu tịnh nghiệp, tức đồng với quyết định tin vào năng lực từ bi cứu độ của Phật, nên niệm Phật tha thiết, cầu mong Phật tiếp dẫn về cõi nước của ngài. Đó là lý do niệm Phật, song niệm Phật cũng chính là niệm bản nguyện độ sinh của Phật. Niệm Phật hay niệm bản nguyện độ sinh của ngài lại phân thành hai trình độ. Thứ nhất niệm Phật hay niệm bản nguyện của ngài để được bản nguyện này tiếp độ. Thứ hai niệm Phật hay niệm bản nguyện của Phật để bản nguyện độ sinh của chư Phật phát khởi trong ta, dẫn đến hành nguyện độ sinh và cầu thành Phật.

Người tin Phật phát nguyện niệm Phật, lấy sự niệm Phật làm pháp tu hành, cầu sinh về cõi Phật. Tín nguyện hành của người này thuộc về trung và hạ phẩm, vì chỉ dựa vào “hạnh nguyện cứu độ” để được cứu. Người tin Phật phát nguyện độ sinh, lấy độ sinh làm pháp tu hành. Tín hành nguyện của người này thuộc trung và thượng phẩm, vì biết dựa vào “hành nguyện độ sinh” mà thành tựu vô lượng tịnh nghiệp cho ta và nhất thiết chúng sinh.

Tín là nền tảng nhập môn, từ tin vào nguyện lực cứu độ của Phật mà hành pháp “cầu cứu”, đó là hành môn của phàm nhân, có thể nói đây là dị hành môn của “dị hành đạo” (tịnh độ). Lại do tin vào nguyện có sức độ nhất thiết chúng sinh, điển hình như chư Phật chư Bồ tát thường hành, mà phát bồ đề tâm nguyện, thường hành bồ đề nguyện, độ khắp chúng sinh, nguyện hành này là nan hành môn của “dị hành đạo”.

Vì vậy ta có thể kết luận tín có hai loại. Thiển tín tức tin vào bản nguyện của Phật để được cứu. Thâm tín tức tin vào bản nguyện của Phật để hành pháp cứu độ chúng sinh.

Từ đức tin sâu hay cạn, người tu học Phật có hai cái nhìn về nguyện. Một, chỉ thấy nguyện độ sinh của Phật đối với ta, và ta phát nguyện được cứu. Hai, nhận chân do “nguyện độ sinh” mà ta được cứu, Phật được thành, cõi tịnh được lập. Lại biết thành Phậtcứu cánh của pháp môn tu tập tín nguyện hành, nên không thể bỏ qua yếu tố phát sinh công đức vô lậu của sự “phát nguyện độ sinh”, mà chỉ cầu phúc đức hữu lậu là được cứu của bản nguyện này.

Lại từ khía cạnh phát nguyện mà hành có rộng có hẹp, tùy theo hành mà “tín nguyện hành nơi tâm”, thanh tịnh nhiều hay ít. Do các yếu tố đó mà cảnh giới Cực Lạc thành có 9 phẩm, đại ý nói thanh tịnh có 9 phẩm bậc, tùy theo tâm thanh tịnh tới bậc nào thì sinh về phẩm ấy. Thanh tịnh chỉ cho tín nguyện hành, nếu tín nguyện hành càng sâu rộng thì phẩm bậc thanh tịnh càng cao. Điều này được đức Thế Tôn ấn chứng trong kinh Duy Ma Cật “Dục cầu tịnh độ, đản tịnh kì tâm. Tùy kì tâm tịnh, tất Phật độ tịnh”.

Tựu chung cư dân Cực Lạc đều tin vào lời dậy của Phật “Ta bà là khổ nên thoát, Cực Lạc là vui nên về”, tin vào nguyện tiếp dẫn của Phật, tin vào hành pháp niệm Phật được vãng sinh, đây là hàng trung và hạ cư. Tin vào nguyện tiếp dẫn của Phật mà phát và hành “nguyện tiếp dẫn” này là hạng trung và thượng cư. Nếu không hội đủ tín nguyện hành tất không thể sinh về cõi Phật này. Như trong kinh Di Đà dậy “bất khả dĩ thiểu thiện căn công đức đắc sinh bỉ quốc”. Thiện căn công đức tức tín nguyện hành, tức thanh tịnh lực.

Cần nên nhận chân rằng tin “Ta bà là khổ” tức tin “nhân sinh thị khổ” hay “khổ đế”, có nghĩa Ta bà thuần khổ, mọi niềm vui ở thế giới này đều là chỗ ẩn náu của khổ, như Lão tử than “Họa hề! phúc chi sở ỷ. Phúc hề! họa chi sở phục” họa chỉ là chỗ dựa của phúc, phúc chỉ là chỗ ẩn náu của họa. Như vậy khi đã thật sự nhận thấy “nhân sinh thị khổ” hay “Ta bà là khổ cần thoát” tất nhiên mọi niềm vui thú của Ta bà chẳng còn trói buộc được nữa, giải thoát được ách dục lạc của uế độ, và chỉ còn một niềm vui thực sự cần có là “thoát ly Ta bà, vãng sinh Cực Lạc”, được như vậy tất nhiên đức tin mới năng sinh hiệu quả. Còn như vẫn luyến lưu Ta bà tất tâm cầu sinh Cực Lạc chưa đủ mạnh, do vậy tất nhiên tái sinh về lại cảnh lưu luyến, nên Cổ đức mới khuyến cáo “Ái bất trọng bất sinh Ta bà. Niệm bất nhất bất sinh Cực Lạc”.

Cư dân Cực Lạc do nguyện sinh, nên tư duy và hành động theo nguyện, nói cách khác “cử chỉ động niệm của cư dân Cực Lạc vô phi thị nguyện”, đều đã là nguyện nên “vô bất thanh tịnh”, chúng hữu tình thanh tịnhan lạc này gọi là Thanh tịnh chúng.

Do vậy kết luận, những ai thật sự nhận chân “Ta bà là khổ cần thoát ly, Cực Lạc là vui nên sinh về” sẽ trở thành những cư dân trên Cực Lạc, và nếu phát tâm và hành bồ đề nguyện ắt mới thực sự là cư dân thích nghi với cõi Cực Lạc.

2-Cư dân Ta bà là những chúng sinh bị nghiệp kéo lôi, nghiệp này tự nhận là ngã, ngã đó bao quát thân tâm đều do nghiệp tạo nên. Nghiệp là thói quen suy nghĩ và hành động từ quá khứ lâu xa, một thói quen chấp ngã và pháp, một thói quen phụng sự cho tham dục của ngã, cho đó là hạnh phúc, và nếu ngược lại thì tự chịu đau khổ.

Khác với cư dân ở thế giới Cực Lạc thường đối trước mọi cảnh niệm Phật, pháp, tăng; cư dân ở Ta bà luôn khởi tắng ái thủ xả đối với mọi cảnh, nên luôn âu lo, chưa được cầu được, được rồi sợ mất, cả đời bất an. Chúng hữu tình tham dục bất tịnh đầy phiền não này gọi là chúng sinh. Cư dân Cực Lạc do nguyện thành, cư dân Ta bà do nghiệp sinh.

B. Yếu tố cấu tạo nên Cực LạcTa Bà

1-Cực Lạc do nguyện độ sinh của chư Phật tạo thành, mà không do nơi nghiệp sinh. Do nguyện cứu độ, chư Phật thiết lập Tịnh độ để che chở cho chúng sinh - một thứ hữu tình do nghiệp tạo nên, có thể sinh hoạt trong cảnh giới không có nghiệp, mà chỉ có thuần nguyện, nhờ vậy những chúng sinh này không còn có môi trường tạo tác nghiệp, nên không thọ báophiền não. Lại do chỉ thuần phát và hành nguyện của chư Phật nên thọ báo an lạcthanh tịnh, vì vậy đối với các pháp của cảnh giới “Phật nguyện” mà thường gọi là Tịnh độ này, những chúng sinh đó đều khởi niệm thanh tịnh phi tác nghiệp, nhờ vậy từ chúng sinh trở thành Thánh chúng, tất cả tà niệm, tạp niệm đều thành niệm Phật, niệm phápniệm tăng.

2-Ta bà do nghiệp lực chúng sinh chiêu cảm thành. Tùy theo loại chủng nghiệp cấu tạo thành thân tâm, tham dục cũng theo thân tâm đó mà chọn đối tượng. Tuy chúng sinhvô lượng chủng loại, nhưng đồng một thể sinh ra, gọi là tham dục tính. Từ tính tham dục này sinh ra vô số ham muốn, từ những ham muốn không giới hạn, nẩy sinh thủ xả khổ lạc, tranh chấp ăn giết lẫn nhau không có ngày cùng tận. Mọi suy nghĩ và hành động đều lấy ngã làm nền tảng khởi động, ngã lại do nghiệp chiêu cảm thành, do đó nói chính xác hơn, mọi tư duy của tâm và mọi hành động của thân đều do nghiệp chủ động, chính vì vậykinh Địa Tạng mới nhấn mạnh “Chúng sinh Nam Diêm Phù đề cử chỉ động niệm vô phi thị nghiệp”, và đã là nghiệp tất nhiên điên đảo vọng tưởng, nên kinh dậy tiếp “vô bất thị tội”.

Cư dân ở Ta bà do vọng nghiệp sinh, tư duy và hành động theo nghiệp, tạo nên thế giới đầy bất tịnh của nghiệp gọi là tội. Chúng hữu tình này không thoát khỏi nghiệp, nên không sao lìa được tội, và môi trường của nghiệp tội. Môi trường tranh dành tham dục không có lúc hết này được gọi là thế giới Ta bà, và chúng hữu tình đó gọi là chúng sinh.

Ta bàchúng sinh do nghiệp tạo thành. Cực LạcThánh chúng do nguyện lập nên, vì vậy không nguyện tất không sinh Cực Lạc. Nguyện ở đây phải hiểu là “bồ đề tâm nguyện”, mà không đơn thuần là “nguyện sinh Tây phương”. Nhờ phát nguyện sâu rộng, biến khắp ba đời mười phương, khiến nghiệp lực bao đời đành phải chịu hủy diệt, nghiệp cảnh cũng tiêu ma, chỉ thuần còn cảnh giới Viên giác, ví như người tỉnh mộng tan, mộng cảnh chẳng còn dấu vết, nhường lại cho thật cảnh hiên bầy.

C. Sinh hoạt

1-Thánh chúng tức cư dân ở Cực Lạc lấy thượng cầu hạ hóa làm sinh hoạt duy nhất. Thượng cầu và hạ hóaviệc làm của mười phương ba đời nhất thiết chư Phật. Tất cả chư Phật đều đã làm, đang làm, sẽ làm và chỉ làm hai việc này, do đó gọi thượng cầu và hạ hóaPhật sự - việc làm của Phật. Thánh chúng là những vị đang tu tập và chỉ hành các việc làm của Phật. Sinh hoạt của thánh chúng chính là Phật sự - thường vây quanh Phật thính pháp để thượng cầu, luôn hiện thân ở giữa chúng sinh để hạ hóa. Thân cận Phật để không bỏ bất cứ chúng sinh nào, ở giữa chúng sinh độ hóa để thân cận nhất thiết chư Phật. Đó là Phật sự sinh hoạt của thánh chúng, cảnh giới sinh hoạt này theo chỉ quy của niệm Phật tức thân cận Phật (đồng với giải đại đạo), niệm pháp tức y giáo không lìa (đồng với thâm nhập pháp tạng) và niệm tăng tức phụng hành vô tận (đồng với thống lý vô ngại).

Thánh chúng dùng Phật sự thượng cầu hạ hóa làm đại nguyện, nương vào lực của đại nguyện này không những cởi bỏ được lực trói buộc của nghiệp, mà còn tự tại vào trong cảnh giới của nghiệp như thể thỏng tay vào chốn chợ triền. Nhờ vậy thánh chúng được hưởng sự thanh tịnh an lạc từ thân tâm đến ngoại cảnh.

2-Chúng sinh tức cư dân ở Ta bà lấy thỏa mãn tham dục làm nhu cầu sinh hoạt. Lục căn đối lục trần đều sinh tham dục, mỗi trần lại có nhiều chủng loại, lục căn đối với mỗi chủng loại đó đều phát sinh tham dục, tắng ái, do vậy tham dục trở thành vô lượng. Sinh hoạt của chúng sinh là thủ xả tắng ái, chúng sinh chỉ biết tìm cầu an lạc bằng tắng ái thủ xả, mà lại đui điếc không biết do thủ xả tắng ái mà bất an. Vì vậy cảnh giới sinh hoạt của chúng sinh đầy dẫy tranh đoạt thắng bại, khổ lạc, nên chúng sinh phải chịu cảnh bất annhiễm ô từ thân tâm ra đến ngoại cảnh. Sự sinh hoạt nhiễm ôbất an này là nhân tố để tiếp tục gây quả ô nhiễm bất an đến tận cùng tương lai, cho đến bao giờ chúng sinh biết phát nguyện thượng cầu hạ hóa, và nỗ lực tư tu, hành theo đại nguyện, mới xa lìa được nghiệp ô nhiễm bất an.

D. Niệm Phật và niệm Tam Bảo.

1-Chúng sinh do nghiệp bất tịnh chiêu cảm thành thân tâm và thế giới, do vậy muốn thoát ly cái thế giới cùng thân tâm bất tịnh này tất nhiên phải từ bỏ nghiệp bất tịnh. Song chúng sinh vốn từ vô thủy đã nhận nghiệp bất tịnh đó là thân tâmthế giới của mình, nên không sao bỏ được nghiệp, vì bỏ nghiệp đồng với bỏ ta và thế giới của ta, phàm nhân bằng cách nào dám làm chuyện này, trừ phi được sự khai thị của Phật pháp, phát bồ đề tâm nguyện mới mong bỏ được cái nghiệp keo sơn khó bỏ đó. Điều chúng sinh cho là hạnh phúc nhất, chính là làm sao hưởng được ngũ dục tối đa, họ chỉ thấy ngũ dụchạnh phúc, mà không biết vì ngũ dục mà phải tính toán mưu toan, tạo tác biết bao vọng nghiệp, chưa được thì cầu cho được, được ít thì cầu cho được nhiều hơn, khi được ngũ dục tràn đầy, thì lại sợ mất, vì sợ mất nên bất an, toan tính ưu tư, khổ sở vô bờ, đời này đã vậy các đời tương lai cũng lại như thế. Chúng sinh đa dục nên nào có thể tin được ngũ dục chỉ là một tấm lưới thêu dệt bằng hoa bên ngoài để giăng bẫy phàm nhân, một khi đã bước vào thì hẳn khó có ngày ra. Sinh hoạt của thế nhân là sống trong cảnh giới của nghiệp, hành mọi nghiệp để truy cầu dục lạc, một thứ hạnh phúc của nghiệp, càng truy cầu dục lạc càng lún sâu vào lưới nghiệp, nên càng phiền não khổ đau. Chúng sinh không chịu nhận rằng cả thân tâmthế giới này của ta, cũng như của mọi chúng sinh đều do nghiệp ô nhiễm bất an tạo thành, nay muốn cho thân tâm cùng thế giới ô nhiễm bất an đó được an lạcthanh tịnh tất nhiên là điều hoang tưởng. Bởi gốc sinh ra thân tâmthế giới này vốn dĩ là nhiễm ôbất an. Nếu muốn trừ diệt ô nhiễmbất an tất phải diệt trừ từ gốc rễ, đó là tận trừ nghiệp chướng. Song nghiệp chướng khó trừ, chỉ có nguyện mới diệt được nghiệp. Do đó không phát nguyện tất không thể ra khỏi nhà lửa của nghiệp.

Chư Phật xuất hiện nơi đời chỉ bầy cho chúng sinh “nghiệp là khổ tập” và “nguyện là diệt đạo”. Lại do chúng sinh căn cơ cao thấp khác nhau, nghiệp dầy hay mỏng, nên Như Lai phương tiện giúp chúng sinh lập nguyện. Đối với hàng nghiệp chướng sâu dầy khó bỏ, khó phát đại nguyện theo gương hành nguyện cứu độ chúng sinh của chư Phật, Như lai phương tiện dậy họ lập nguyện cầu sinh cõi Phật, để thân tâm hướng dần đến cảnh giới thanh tịnh, xa dần cõi uế, bằng cách niệm danh hiệu Phật, lấy niệm Phật làm nhân đưa đến quả thân cận Phật. Bằng vào phương tiện thiện xảo của nguyện lực này, khiến “chúng sinh do nghiệp tạo thành”, sinh về “cõi Phật do nguyện lập nên”, gọi là “đái nghiệp vãng sinh”. Cõi Phật đã do nguyện thành lập, tất cảnh giới này không có môi trường tạo nghiệp hay hành nghiệp, nên nói “vô tam ác đạo”, lại do không có môi trường hay cơ hội tạo nghiệp, nên những chúng sinh vừa vãng sinh không có bất kì nhân duyên nào có thể tạo vọng nghiệp để trở về uế độ. Không những vậy lại được nguyện lực của Phật và thánh chúng gột rửa mọi nghiệp chướng, khiến các chúng sinh này chuyển nghiệp thành nguyện, niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng, vĩnh viễn không còn các thứ tà niệm. Chúng sinh đã phát đại nguyện xa lìa nghiệp chướng ắt thành Bồ đề tát đỏa (Bồ tát), trở thành thánh chúng thích nghi với sinh hoạt Phật sựcõi Phật. Thường dùng nguyện lực ra vào tự tại trong cõi nghiệp độ hóa chúng sinh.

2-Đối với hàng thượng căn nghiệp mỏng phúc dầy. Như Lai trực chỉ dậy bảo đại thừa Bồ tát đạo, thượng cầu hạ hóa, dõng mãnh vì cầu Phật đạo, vì độ chúng sinh, hành mọi nan hành. Hàng thượng căn này phát bồ đề tâm đại nguyện, học theo hạnh nguyện của nhất thiết chư Phật. Chư Phật nhờ phát nguyện thượng cầu hạ hóathành quả bồ đề, không có pháp môn nào ngoài bồ đề tâm nguyện mà có thể thành được Phật quả. Hàng Bồ tát phát bồ đề tâm đại nguyện quán sát nhận chân >“do nguyện mà Phật thành, nhờ nguyện mà cõi lập”, nên “tu hành cấp vụ, lập nguyện cư tiên”, chuyện tu hành trước nhất là phải lập nguyện. Hễ nguyện thành tất Phật thành và cõi Phật cũng tự thành. Nguyện chính là pháp tối thắng để thành Phậtđộ sinh. Nguyện là chân tâm, nghiệp là vọng tâm. Tâm vọng thành nghiệp, tâm chân thành nguyện.

3-Nguyện bao hàm phương pháp thành Phật và độ hóa chúng sinh. Thành Phật có nghĩa Phật hóa nhất thiết chúng sinh, và nhất thiết cảnh giới, không gì không phải Phật, như vậy thật nghĩa của sự thành Phật chính là độ nhất thiết chúng sinh cùng thành Phật đạo. Độ hóa chúng sinhviệc làm của chư Phật, là Phật sự khiến chúng sinh thành tựu Phật quả; nhờ hành Phật sự này mà thành Phật quả. Vì vậy thành Phậtđộ sinh vốn chỉ là một, thành Phật độ nhất thiết chúng sinh là từ nơi “bản” thùy tích. Độ sinh thành Phật là từ tích quy về bản.

Nguyện đã nhiếp pháp thành Phật và độ hóa, tức nhiếp Phật pháp tăng. Chư đại Bồ tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Quan ÂmĐịa Tạng đều không cần xưng danh niệm Phật, vì luôn thường trụ trong đại nguyện, tức thường niệm bất đoạn Phật pháp tăng, niệm đại nguyện này không chỉ bằng khẩu nghiệp mà bằng cả ba nghiệp, điển hình như 10 nguyện của Bồ tát Phổ Hiền, đều là niệm Phật, niệm phápniệm tăng qua thân khẩu ý. Hành 10 nguyện này được vãng sinh thượng phẩm. Do đó chúng ta có thể kết luận đức Phật dùng “xưng danh niệm Phật” để khai thị “nguyện” cho chúng sinh, khi chúng sinh đã nhập vào đại nguyện của chư Phật, bấy giờ chúng sinh đã trở thành Thánh chúng tự phát đại nguyện, thường niệm Phật pháp tăng để ngộ nhập bản nguyện của chư Phật. Bất luận tông phái nào hễ phát đại nguyện thượng cầu hạ hóa, tất Phật đạo còn thành, hà huống lại không thể vãng sinh tịnh độ sao? Phật và tịnh độ đã sãn có đầy đủ trong nguyện, thế nên chỉ cần phát bồ đề tâm nguyện tất thành tựu Phật và tịnh độ.

Trong pháp tu hành hễ thân tâm nương nghiệp thì dẫu có hành thiện nghiệp cũng vẫn là nghiệp luân hồi sinh tử. Nếu thân tâm nương nguyện tất đó là thiện pháp tối thắng, đưa đến thanh tịnh an lạc hóa thân tâm và cảnh giới. Nên biết từ thiện của thế gian không sánh được với độ hóa của Phật pháp.

4-Nói tóm lạichúng sinh nghiệp lực sâu dầy không thể tự phát nguyệnhành nguyện được, nên Như Lai phương tiện chỉ bầy chúng sinh nương vào nguyện lực tiếp dẫn của A Di Đà Như Lai, làm nguyện vãng sinh cho bản thân, hành nguyện bằng xưng danh niệm Phật, nhờ vậy chúng sinh đầy nghiệp lực đó bắt đầu có nguyện và hành nguyện, dựa vào hành nguyện nói trên được vãng sinh Phật quốc, điều này có nghĩa nhờ có cái nguyện “nương vào bản nguyện của Như Lai”, và hành nguyện niệm Phật nên dựa vào nguyện này diệt trừ nghiệp chướng. “Nguyện sinh nghiệp trừ” đồng nghĩa lìa Ta bà sinh Cực Lạc.

Sau khi nguyện “thoát ly Ta bà vãng sinh Cực Lạc” thành tựu rồi, chúng sinh nghiệp trở thành Thánh chúng nguyện. Thánh chúng nương Tam bảo nguyện lực tức bồ đề tâm nguyện, hành pháp (niệm pháp) thượng cầu (niệm Phật) hạ hóa (niệm tăng). Niệm Phật tức giác ngộ thật đạo nhất thật đế, niệm pháp tức thâm nhập nhất thiết pháp môn, niệm tăng tức tùy cơ thuyết pháp.

Lại nữa xưng danh niệm Phậtdựa vào nguyện lực của tha Phật, lấy đó làm nguyện để trừ nghiệp chướng, đó là phương cách nương bản nguyện của Phật để được cứu. Sau đó lấy bản nguyện độ sinh của Phật làm bản nguyện độ sinh của bản thân, để cứu độ chúng sinh trên con đường thành Phật quả. Bản nguyện này đồng với bản nguyện của chư Phật, thường niệm Phật, pháp và tăng. Bấy giờ hành gỉa với Phật là một, Phật với cảnh giới thanh tịnh không hai. Do đó nên nói “Tự tính Di Đà, duy tâm tịnh độ”.

E. Kết luận

Bất luận tu pháp môn nào, nếu muốn thành Phật đạo tất phải phát bồ đề tâm nguyện. Không phát nguyện này tất không thành Phật đạo. Phàm hễ phát bồ đề tâm nguyện tất được tùy nguyện vãng sinh. Thế nên Liên tông thập nhất tổ Tỉnh Am đại sư dậy “nhập đạo yếu môn, phát tâm vi thủ. Tu hành cấp vụ, lập nguyện vi tiên”, thật là lời dậy vô gía. Người nào đón nhận được món quà này tất hiện đời là Hiền thánh, tương lai là Thiên nhân sư.

Côn Minh 12/6/09

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2868)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 4042)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 5201)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 4186)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 3249)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 6244)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 5224)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 4554)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 6112)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(Xem: 6000)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 3788)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 5920)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 4563)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 4708)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 3316)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 6205)
Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn.
(Xem: 4845)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 3482)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 3410)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 5563)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 4148)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 5932)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 5147)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 3602)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 3678)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 3653)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 3475)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 5264)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 3892)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 4238)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 5756)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 3083)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 3019)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 3769)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 4787)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 3509)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 2984)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 4505)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 4633)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 3382)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 3933)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 4669)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 3478)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 3539)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 5083)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 4049)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 3219)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 2942)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 2975)
Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng
(Xem: 3049)
Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
(Xem: 3044)
Ai cũng mong trong cuộc sống có rất nhiều niềm vui và thật ít nỗi buồn.
(Xem: 3412)
Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần.
(Xem: 3946)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
(Xem: 5042)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
(Xem: 2607)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6056)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 2984)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3035)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3224)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3171)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant