Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Giáo Tại Anh Quốc

26 Tháng Sáu 201409:59(Xem: 10069)
Phật Giáo Tại Anh Quốc


Phật Giáo Tại Anh Quốc

 

Theo thống kê năm 2001, Phật giáo có 151.816 tín đồ tại Anh quốc. Đây là chưa kể những người có tín ngưỡng Phật giáo song song với các đức tin khác như Công giáo, Do-thái giáo, Đạo giáo, vv... và những người không thừa nhận mình là Phật giáo vì những lý do khác. Nhưng dầu sao, phải nói là dân Anh đang chú ý tới Phật giáo nhiều hơn.

 

Phật giáo vào Anh quốc bắt đầu từ thế kỷ thứ 19, qua các công trình dịch thuật kinh điển ở các nước Phật giáo Đông phương. Riêng ở Anh, một trong những học giả và dịch giả tài ba phải kể là Tiến sĩ Rhys Davids (1843-1922), con của một nhà giáo phẩm nổi tiếng của Anh giáo, đã nghiên cứu và dịch toàn bộ kinh điển Pali sang tiếng Anh, và sau đó đã tự nhận mình là người theo Phật giáo. Năm 1879, ngài Edwin Arnold tạo nên tập thơ hùng tráng tựa là "The Light of Asia" (Ánh sáng của Đông Phương) diễn tả lại cuộc đời của đức Phật. Tác phẩm nầy đã trở thành công trình Phật học cổ điển, và hiện nay vẫn còn được in để phổ biến khắp nơi.

 

Các tác phẩm Phật giáo hiếm hoi trong những năm đầu tiên ấy, tuy nhiên đã gây cảm hứng sâu đậm và làm cho một số người Tây phương bắt đầu nghiên cứuthực hành Phật giáo trong đời sống. Điển hình là ngài Allan Bennet, sang Tích-lan học Phật năm 1898, và trở về nước với pháp hiệu là Ananda Metteyya, vị sư người Anh đầu tiên được thọ giới Tì-kheo theo truyền thống của Phật giáo Nguyên thủy.

 

Năm 1907, một số người tụ họpthành lập Hiệp hội Phật giáo Anh quốc và Ái-nhĩ-lan. Sau đó, ngài Christmas Humphreys thành lập hội Phật học Luân-đôn, năm 1924. Đây là cơ sở thành công đầu tiên, để cho tất cả các trường phái và truyền thống Phật giáo có thể phát triển tại Anh quốc, trong vòng suốt 50 năm sau đó.

 

Thập niên 60 đã làm nổi bật các tôn giáo của Đông phương, kể cá Phật giáo. Trung quốc xâm chiếm Tây-tạng năm 1950, đã làm cho nhiều ngàn người Tây-tạng phải lưu vong, và đức Đạt-lai Lạt-ma phải đào thoát năm 1959. Một số vị lạt-ma đã đến các nước Tây phương, tạo thành nhiều nhóm Phật giáo. Tại Anh quốc hiện nay, hầu như tất cả các truyền thống Phật giáo đều có mặt.

 

Phật giáo ở Anh quốc có gì khác biệt với Phật giáo Đông phương?

 

Hình như chỉ có khác biệt về mặt văn hóa. Các chùa và tự viện Phật giáo ở Anh đều rập khuông theo kiểu Đông phương. Nếu bạn đến chùa Wat Buddhapadipa ở Wimbledon, chẳng hạn, bạn sẽ thấy nó chẳng khác gì một ngôi chùa Phật ở Thái-lan. Có điều khác biệt là chư Tăng Ni ở Anh không thể mặc y vàng và ôm bát đi khất thực ở ngoài chợ - bởi vì họ sẽ gặp phản ứng bất ngờ của khách qua đường, và sẽ không có ai bỏ thức ăn vào bát cho họ, như ở các xứ Đông phương. Ở xứ Anh, thực phẩm được tín đồ đem tới chùa, hay nấu nướng tại chỗ định sẵn. Tuy nhiên, về giáo lý thì nói chung họ vẫn còn trung thành với truyền thống của mình, trừ những khác biệt về văn hóa.

 

Vấn đề cải đạo tại Anh quốc

 

Có một số người tự nhận là họ đã cải đạo, nghĩa là đã lìa bỏ tín ngưỡng có sẵn của mình, và chuyển sang Phật giáo. Tuy nhiên, phần đông không cảm thấy như thế. Lý doPhật giáo không đòi hỏi sự độc quyền, nên nhiều người cảm thấy họ có thể hòa hợp dễ dàng Phật giáo với tín ngưỡng sẵn có. Chẳng hạn như những người Tây phương theo Thiên chúa Do-thái giáo vẫn giữ nguyên tín ngưỡng của họ, nhưng thực tập thêm thiền định của Phật giáo. Hay là những người Ấn giáo, Thiên chúa giáo, vv...chỉ thực hành Phật giáo như là một đường hướng tâm linh mới mẻ, mà không nghĩ là mình phải cải đạo.

 

Các ngày hội Phật giáo ở Anh quốc

 

Trong các ngày lễ hội Phật giáo hằng năm ở Anh quốc, ở các chùa và tự viện có không khí chuẩn bị rộn rịp và phấn khởi. Đồ ăn được nấu nướng tại chùa hay mang đến chùa, và lễ vật cho chưTăng gồm có tiền bạc, y áo, gia dụngthực phẩm cho kho nhà bếp. Phụ nữ mang lễ vật đến chùa trong lễ Phật đản, lễ Tự tứ (mãn Hạ) ở Manchester, vv...Những lễ hội thiêng liêng nầy, ngoài việc tụng kinh và thuyết pháp, còn là những dịp tốt để Phật tử chung vui - giống như trong những tôn giáo khác.

 

Tuy nhiên, những ngày lễ hội nầy không được Phật tử Tây phương luôn luôn đánh giá cao. Chẳng phải là họ không tham dự để chung vui, nhưng thường có cách biệt về văn hóa. Dầu sao, đây cũng là cơ hội để mọi người cúng dườngủng hộ chư Tăng Ni trong cuộc sống.

 

Các trung tâm Phật giáo ở Anh quốc

 

Phật giáo đã phát triển và biến thái trên thế giới, trải qua hơn 25 thế kỷ, trong nhiều nền văn hóa khác nhau. Vì thế, phương cách thực hành Phật giáo tại nhiều nơi, rất khác nhau. Riêng tại Anh quốc, trong mấy trăm năm qua, ta thấy có đủ loại hình thức chùa và tự viện được thành lập - phần lớn phát xuất từ Tích-lan, Trung quốc, Nhật Bản, các nước Đông Nam Á, và Tây-tạng. (Các mô hình được trưng bày ở) Butterlamp House trong Trung Tâm Samyeling (Dumfriesshire).

 

Một số chùa nầy được thành lập nhằm mục đích phục vụ các công đồng di dân, mặc dầu cũng mở cửa cho tất cả mọi người. Tăng Ni trong chùa, ngoài việc tụng niệm riêng - còn thực hành việc thuyết pháp,cầu nguyện và các nghi lễ khác cho Phật tử tại gia.

 

Có một số chùa dung hợp truyền thốngthực hành Phật giáo với đường hướng văn hóa Tây phương. Như những Phật tử Anh quốc, sau khi thọ giới ở Thái hay Nhật Bản chẳng hạn, trở về nước để thành lập các tu viện tại Anh, hay ở xứ khác. Những cơ sở nầy cũng tự nhận là truyền thống chánh thức của nhánh Phật giáo nào đó. Tuy nhiên, phương cách thực hành được cải biến theo văn hóa của họ. Thí dụ như là việc tụng kinh bằng tiếng Anh, phụ nữ được đối xử bình đẳng hơn, vv...

 

Tuy nhiên, có một số nhóm Phật tử Anh đặt trọng tâm trên vấn đề thực hành thiền định, và lơ là với phần còn lại của giáo lývăn hóa Phật giáo. Chẳng hạn họ không tụng niệm, lễ lạy hay tôn kính tượng Phật.Họ cũng không cho việc học tập kinh điển là quan trọng, mà chỉ nhấn mạnh việc thực hành thiền địnhchánh niệm trong đời sống hằng ngày.

 

Tương phản với nhóm nầy, cũng có một số tổ chức quyết định tiếp tục làm cơ sở phát triển cho tất cả mọi truyền thống Phật giáo trên thế giới. Họ không có ý định canh tân hay cải biến điều gì, nhưng vẫn mở rộng cho sự phát triển căn bản, điều nầy có thể dẫn tới một hình thức Phật giáo riêng của Anh quốc.

 

Hiện nay ở Anh, vẫn chưa có một nhóm hay hiệp hội nào có thể đại diện chung cho Phật giáo Anh quốc,mặc dầu đã có những nỗ lực trong chiều hướng nầy.

 

Vài cơ sở Phật giáo tiêu biểu ở Anh quốc

 

1) Tu viện Amaravati, Hertfordshire. Đây là một trong nhóm tu viện thành lập năm 1979 bởi ngài Ajahn Sumedho, một Tì-kheo Phật giáo Nguyên thủy sanh tại Mỹ, thuộc truyền thống Thái-lan Lâm phái (Forest tradition). Tu viện Amaravati gồm cả Tăng và Ni, có nơi tu học cho Phật tử tại gia, và một thư viện - mở cửa cho khách thăm viếng nghe phápthực tập.

 

2) Hiệp hội Phật giáo Luân-đôn. Một trong những tổ chức Phật giáo đầu tiên ở Anh quốc, do ngài Christmas Humphreys, QC thành lập năm 1924. Họ tổ chức thuyết pháp và mở lớp dạy Phật học cho mọi môn phái Phật giáo, và có một thư viện

 

3) Trung tâm Phật giáo Jamyang, Luân-đôn. Thuộc phái Geluggpa của Tây-tạng, do ngài Geshe Tashi Tsering điều khiển. Họ tổ chức các khóa Phật họcthực hành cho mọi trình độ.

 

4) Trung tâm Tây-tạng Kagyu Samye Ling, Dumfriesshire. Thành lập năm 1967 do hai sư Trụ Trì tị nạn,nay do tiến sĩ Akong Tulku Rinpoche và Lama Yeshe Losal điều khiển. Đây là một tu viện và cũng là một trung tâm tổ chức các khóa dạy Phật học và những đề mục khác.

 

5) Tu viện Throssel Hole, Northumberland. Thuộc nhánh Thiền Tào-Động Nhật Bản, thành tập năm 1972 do Sư Cô người Anh tên Jiyu-Kennett, nay do Sư Daishin Morgan điều khiển, mở cửa cho Phật tử tại gia.

 

6) Chùa Wat Buddhapadipa, Wimbledon, Luân-đôn. Đây là ngôi chùa thành lập đầu tiên ở Anh quốc, nhằm mục đích truyền bá Phật giáo đến Âu Châu, về cả lý thuyếtthực hành.

 

(Trích tài liệu từ Wikipedia, Phuớc Thiệt dịch sang Việt ngữ)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1647)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1575)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1496)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1077)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1466)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1411)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1333)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1381)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1711)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1971)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1435)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1095)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1429)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2026)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1471)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1554)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1390)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2907)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1377)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1410)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1724)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1681)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1633)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1478)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2644)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1604)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1613)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1405)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1424)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1616)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1565)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1445)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1432)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1521)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2203)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1549)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1511)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1622)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1840)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1534)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1412)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1671)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1424)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1702)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2380)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1471)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1958)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1681)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1761)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1620)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1955)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1685)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1441)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1730)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1583)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1549)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1337)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1254)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1297)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1528)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant