Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chướng Duyên Của Thân Nữ

29 Tháng Tám 201408:48(Xem: 9472)
Chướng Duyên Của Thân Nữ


CHƯỚNG DUYÊN CỦA THÂN NỮ

Rite M. Gross – Thiện Ý chuyển ngữ

Những chướng duyên có thể giúp hành giả trên đường giải thoát. Ý niệm này, thường tìm thấy trong kinh Phật, dạy cách đánh giá cao những chướng duyên mà chúng ta gặp phải, vì nhờ chúng nên trí tuệtừ bi mới được nảy sinh. Nếu thấy như vậy, chướng duyên chínhđiều kiện có thể khiến sự giác ngộ xảy ra. Thế nhưng, xuyên suốt lịch sử của đạo Phật, sinh ra làm thân người nữ bị xem là bất hạnh, một chướng duyên, nhưng không phải là một chướng duyên tốt giúp cho sự giác ngộ; mà ngược lại, khiến cho sự giác ngộ cực kỳ khó khăn, nếu không nói là không thể nào! Nhưng nếu chướng duyên là điều lợi ích trên con đường tu, tại sao chướng duyên sinh ra làm thân nữ lại bị xem là khác biệt? Không phải thân phụ nữ cũng có nhiều điểm tốt để trở thành vị thầy dạy đạo đáng kính đó sao? Điều này chưa bao giờquy luật trong suốt lịch sử Phật giáo, dù đã từng có một vài biệt lệ quan trọng. Ngược lại, chúng tôi, những người phụ nữ, thường được bảo rằng: Không nên quan tâm đến sự giác ngộ mà nên cố gắng tích lũy đủ công đức để được sinh làm thân nam trong kiếp sau. Có 2 điều trái ngược cho rằng: Chướng duyên giúp sức trên đường tu, nhưng sinh ra là thân nữ thì không. Như vậy, có vẻ không ổn vì chúng gây ra một mâu thuẩn lớn ngay trong trọng tâm của Phật giáo.

Nhiều người Tây phương theo đạo Phật không biết được mâu thuẩn này, hoặc cảm thấy khó xử với khái niệm trên. Họ có lẽ sẽ chối bỏ nó. Họ có thể chế giễu hay bực tức đối với những ai nói lên điều này. Nhiều người sẽ chối phăng truyền thống trọng nam, khinh nữ và địa vị ưu thế của người nam trong đạo Phật là điều không phù hợp đối với Phật tử phương Tây, vì chúng ta đang sống trong một xã hội tương đối bình đẳng. ‘Cuộc chiến phụ nữ bình quyền’ hiện đang ở đỉnh cao trên xứ Mỹ hẳn sẽ làm thức tỉnh những ai còn có quan niệm rằng địa vị ưu thế của người nam là chuyện của quá khứ!

Ưu tưtư tưởng của các Phật tử đòi bình quyền cho phụ nữ đã giải tỏa các cấu trúc cho rằng sinh làm người nữ là một chướng duyên không thể thay đổi được, đã khám phá rằng học thuyết kỳ lạ này đang lâm nguy, và đã giải thích rõ một vài nguồn gốc lịch sử của chủ thuyết này. Các vị Phật tử này đã bác bỏ lời tuyên bố cho rằng sinh ra làm người nữ là tiêu cực, là bất toàn, và cho thấy rằng lời dạy này đi ngược lại với những giáo lý căn bản của đạo Phật. Thế nhưng, sự kiện này vẫn tiếp tục ngoan cố cho rằng Phật tử nữ đối diện với chướng duyên mà Phật tử nam không hề có. Phật tử nam chưa bao giờ được bảo rằng họ có một khả năng tâm linh hạn chế vì họ là người nam. Nhưng Phật tử nữ được thường xuyên cho biết là họ không có đủ những khả năng này với lý do duy nhất là bởi vì họ là người nữ.

Những hành giả thực tập Phật pháp trong vài thập niên có thể sẽ đánh giá cao những gì họ học được từ những chướng duyên mà họ phải đối diện. Họ chắc cũng đã từng gặp một ai đó chỉ bảo cho họ rằng trong lúc gặp những khó khăn họ nên học hiểu giá trị của nó vì về lâu dài những khó khăn này rất là bổ ích. Tôi thường được nghe những lời khuyên như vậy; nhưng luôn luôn có vẻ bề ngoài và đôi lúc hàm ý mỉa mai. Tuy nhiên, giờ đây tôi trân quý những điều tôi học được từ những chướng duyên mà tôi đã vượt qua, và tôi tự hỏi làm sao giúp các học trò của tôi đánh giá cao những kinh nghiệm như vậy mà không mang vẻ hợm hĩnh, thiếu trung thực.

Bất kể và như thế nào sự đánh giá cao đó liên cang đến chuyện chướng duyên mà tôi kinh qua chỉ vì là phụ nữ, là một câu hỏi Phật pháp quan trọng, và câu trả lời của tôi vẫn còn rất mơ hồ. Tôi sinh năm 1943, và là một phụ nữ thuộc thế hệ trước, sinh làm thân đàn bà vào thời ấy chắc chắn đã là một chướng duyên. Một chướng duyên mà tôi có nên biết ơn chăng? Nhờ làm thân đàn bà mà tôi thành đạt nhiều hơn hay tôi đã có thể thành đạt bằng một cách khác?

Cách đây vài năm, một nhóm bạn đồng nghiệp trong những buổi hội thảo của tổ chức chuyên nghành đã có một buổi thuyết trình vinh danh sự nghiệp đời tôi, một học giả thuộc tôn giáo học. Vào buổi sáng cuối cùng của buổi hội thảo, tôi ăn điểm tâm với một bạn đồng nghiệp nam mà tôi đã từng làm chủ bút chung cho một tạp chí nghiên cứu về đạo Phật và đạo Cơ-đốc. Trong lúc chúng tôi đang ôn lại những kỷ niêm quá khứ, anh ta nói: “Rita, bạn biết không, nếu bạn là đàn ông thì bạn đã ngồi trên đỉnh vinh quang rồi đó!” Ý của chữ ‘ngồi trên đỉnh’ có nghĩa là có một vị trí tốt ở một trường đại học danh tiếng, một điều mà mặc dù đã có rất nhiều thành tích về mặt học thuật, tôi chưa bao giờ được công nhận. Tôi đáp: “Nhưng làm sao biết được tôi đã có thể tìm được một việc làm như vậy nếu tôi là đàn ông?” Tôi không nghĩ rằng tôi theo đuổi công việc đang làm về giới tính nếu tôi là đàn ông, và tôi cũng chắc rằng không có đề tài nào nổi cợm hơn trong đạo Phật, hay lãnh vực học thuật trong 40 năm qua bằng môn học về giới tính. Đó là một nan đề. Là một phụ nữ liên cang đến những chướng duyên nghịch lýđộc đoán, nhưng ai có thể giải tỏa việc này ngoại trừ người thực sự trải nghiệm chúng?

Câu chuyện về ‘chướng duyên’ sinh làm thân nữ đã từng ám ảnhhạn chế tôi trong suốt cuộc đờisự nghiệp không cần phải lặp lại. Điều cần nói là những cống hiến của tôi, như là một nhà nghiên cứu, phê bìnhxây dựng, liên quan đến giới tính và tư tưởng phụ nữ bình quyềnxuyên qua những tác phẩm đó tôi đã đóng góp cho nền kiến thức của nhân loại. Nếu một người đàn ông khám phá những điểm nổi bậtthú vị về đàn ông, chắc hẳn ông ta đã đi ‘đến đỉnh vinh quang.’ Ngược lại, riêng tôi thì vẫn còn làm việc ở một trường đại học địa phương. Ngay như sau khi tôi đã xuất bản 3 quyển sách, hoàn cảnh của tôi cũng không khá gì hơn, ngoại trừ rằng, tôi được mời thỉnh giảng ở các trường đại học danh tiếng, nơi mà họ dùng các sách của tôi để giảng dạy.

Câu chuyện như vậy có liên quan gì đến việc điều tra xem những chướng duyên có bổ ích gì cho hành giả, hoặc sinh ra làm thân nữ? Trước hết, chúng ta phải đặt câu hỏi là: như vậy, thực sự chướng duyên là gì? Nó không làm người phụ nữ giảm đi khả năng hoặc thành đạt ít hơn; không có một sự bất toàn nào liên quan đến thân và tâm thứcnữ nhân. Chướng duyên rõ ràng nằm ngay bên trong chính hệ thống, một hệ thống thiên vị theo quan điểm của nam giới mà không dựa theo lý lẽ hợp theo Phật pháp, và cũng chẳng thèm giải thích những thành kiến kỳ thị như vậy. Đối với các vị cố vấnđồng nghiệp của tôi trong lãnh vực học vấn, dường như họ đều cho rằng quan điểm của người nam là quan điểm duy nhất đáng quan tâmhệ trọng. Dưới nhãn quan của những người có ý niệm như vậy nên điều này được xem là ‘bình thường’, do vậy mà tuyệt nhiên không cần phải cải chính gì cả. Trong đạo Phật cũng vậy! Kinh Phật truyền thống thực sự công nhận, dù không công khai, rằng chướng duyên về việc làm thân người nữ là do vị trí độc tôn của nam giới, không phải do có cái gì sai trái trong thân người nữ. Theo bảng liệt kê truyền thống về việc sai trái của thân nữ nhân bao gồm 3 điều phụ thuộc và 5 tai họa, mà đều liên hệ đến địa vị độc tôn của người nam trong xã hội, hay là sự đánh giá của người nam về sinh lý của phụ nữ, mà không có ý kiến của người nữ. Nói chung, những ý nghĩ thuộc về văn hóa độc quyền, nói theo kiểu nam giới khiến sinh ra những tư tưởng nhầm lẫn như là một điều tự nhiên cần thiếtphổ cập.

Về việc nhầm lẫn này, các Phật tử, với tạng pháp bảo giồi dào, lẽ ra đã dễ dàng nhận dạng sự sai phạm này: Xem sự tương đối giống như là tuyệt đối. Cứ cho là vậy đi, sự sai lầm này mang đến sự giải thích sai lạc về luân hồi. Dù rõ ràng nhận biết vô số những sai lầm phạm phải, nhưng theo phân tích của đạo Phật truyền thống đã không thừa nhận cái giả định nói rằng việc khiến cho địa vị độc quyền của người nam trong xã hôi có vẻ tự nhiên là chỉ có về mặt hình thức chứ không phải là thực sự tồn tại sẵn có.

Những chướng duyên to lớn nhất của chúng ta thực ra có thể là người bạn đồng hành tốt nhất trên con đường tu tập, nhưng có một tiền đề cần nêu ra: Ý niệm trên chỉ được thực dụng nếu chướng duyên không tiêu diệt chúng ta trước. Chướng duyên có thể làm hại người nhiều hơn là điều bổ ích, và có vẻ thường thường chúng là như vậy. Chúng ta không nên tìm lý do để bào chữa mà bỏ qua những chướng duyên có ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc tu tập như bần cùng, kỳ thị chủng tộc hay giới tính, đồng tính luyến ái, hay đại loại như vậy, bằng cách ngây thơ cho rằng chướng duyên là bạn lành trên đường tu. Nếu trình bày không khéo léo, những lời bình luận trên chỉ có tính cách bề mặt và có hàm ý mỉa mai. Một trong những khuyết điểm lớn nhất của tư tưởng đạo Phật truyền thống đó là việc không sốt sắng lên án những vụ bạo động có tổ chức, và thường quy những việc này cho nghiệp và khuyên mọi người phải chấp nhận những bất công như là một hành động xứng hợp với luật nghiệp quả. Trong trường hợp của tôi, chỉ vì tôi mang thân người nữ nên khiến cho tôi có lý do muốn khám phá hết những vấn đề liên quan giữa Phật pháp và giới tính từ thấp tới cao. Chướng duyên có công dụng như là một vết thương cắt thẳng vào trái tim, một trở ngại làm yếu đi mục đích của Đại thừa là tận dụng thân người quý giá của tôi để phụng sự cho chúng sinh. Thế nhưng, nhờ nhìn thẳng vào mặt chướng duyên, một cách kiên định và suốt cuộc đời tôi, nên tôi đã chuyển hóa chướng duyên của mình thành một nguồn ơn phước cho chính mình và qua đó tôi đã có thể giúp đỡ những người khác. Nhưng, những việc làm trên sẽ không thể nào thành tựu nếu tôi nghe theo những lời khuyên cho rằng tôi đã hành động quá đáng, rằng không có chuyện gì đâu mà phải ầm ĩ, rằng những điều tôi thấy và nghe đều không hợp tình, hợp lý. Tôi đã may mắn không nghe theo những lời khuyên trên. Tôi biết rằng cố bỏ qua hay đè nén một cái gì đó rành rành sẽ chỉ làm vấn đề thêm sai lạc, như nó thường xảy ra cho những người phụ nữ thiếu lòng tự trọng, tâm trí thiển cận, trầm cảm, và thiếu những thành tựu đáng kể.

Trong giáo pháp Đại Ấn (Mahamudra) thuộc Phật giáo Mật tông, hành giả được hướng dẫn tiếp xúc trực tiếp, sâu thẳm, và trần trụi với những cảm thọ khó chịu, như là chấp thủ, mà không thừa nhận hay chối bỏ nó, do vậy, mà giải thoát được sự trong sángnăng lượng giác ngộ của nó. Từ ‘tiếp xúc trực tiếp và trần trụi’ có tính quyết định trong những lời dạy này. Lời chỉ dạy không nói gì về việc phản ứng hay hành động đối với cảm xúc đó, và cũng không nói gì về việc làmtoàn bộ câu chuyện. Không may, do sợ hành động quá đángxúc động mạnh thường dẫn người ta đến chỗ khuyên nên bỏ qua. Điều này có vẻ an toàn hơn, nhưng chỉ trong giai đoạn ngắn mà thôi!

Sau vài năm đương đầu với những chướng duyên ứng dụng thiền Minh Sát Đại Thủ Ấn (Mahamudra-based vipashyana), tôi đã gặt hái được kết quả không ngờ đó là thuần hóa được cơn thịnh nộsáng tỏ được nhiều điều về địa vị độc tôn của nam giới, trong đạo Phật nói riêng và những lĩnh vực khác nói chung. Khi tôi bắt đầu viết về đề tài này trong đầu thập niên 1980, tôi liền nghe rằng có những hành giả nữ rất giận tôi. Tôi nghĩ có thể là vì họ tìm thấy một trong những bài báo tôi viết khi đó về ‘làm sáng tỏ cơn bực giận,’ như là một sự đe dọa đến cơn hờn mát của họ. Cơn giận có thể biến thành hờn mát vì nó cung cấp cái cảm giác hợp tình, hợp lý là: ‘Tôi là người bực mình về sự bất công này!’

Không lâu sau khi tôi xuất bản quyển sách tựa đề Đạo Phật sau Chế Độ Phụ Hệ (Buddhism after Patriarchy) năm 1992, một bạn đồng nghiệp báo cho tôi rằng một người quen biết đã gọi ông ta và nói rằng tôi đã xử dụng nhiều nguồn kinh tạng quen thuộc nhưng với một cái nhìn mới mẻ không ngờ. Ông ta bảo rằng; ‘sự giải thích của bà ta rõ ràng rất chính xác! Tại sao chả có ai trong chúng ta trước đây giải thích như vậy?’ Tôi nghĩ lý do rất đơn giãn: Điều này chưa bao giờ nằm trong sự hiếu kỳ của ông ta vì là một người nam làm sao có thể để tâm đến việc diễn dịch quy ước các kinh tạng theo kiểu nam giới độc quyền! Sự thật rất đau lòng là người duy nhất có thể bẻ khóa giải thoát tiềm năng của một chướng duyên, chính là người đang đối diện chướng duyên đó. Nhưng một chướng duyên, theo định nghĩa, là làm suy yếu và thêm cực kỳ khó khăn cho mọi sự chuyển hóa, thay đổi. Ai cũng biết rằng, vì tự vệ, nên người nào không có quyền lựcđặc ân thường thấy rõ 2 mặt của sự việc. Chúng tôi có thể nhìn thấy từ quan điểm của người không được ưu thế, cũng như những điều mà người nào được đặc quyền, có ưu thế, không thể thấy. Điều này dạy cho chúng ta rằng, trong tất cả mọi lĩnh vực mà chúng ta có được đặc quyền, mình phải biết khiêm cung. Đó là lý do tại sao người da trắng thường không nhìn thấy sự kỳ thị chủng tôc, hay người bình thường không hiểu người đồng tính luyến ái. Và cũng chính lý do đó, các Phật tử phải càng thêm thận trọng về việc loại bỏ vấn đề công bằng xã hôi vì bất hợp lý đối với Phật pháp. Nhưng kiến thức, mà chúng tôi sở hữu được từ cách biết nhìn 2 mặt trái và phải, thật là đau thương và cực kỳ khó chịu, và thấu hiểu được tuệ giác này thật khó khăn và thường bị thất bại do những nổ lực tự hại mình.

Điều này có nghĩa là gì cho những người gặp phải chướng duyên làm thân nữ trong một hệ thống Phật pháp do người nam độc tôn? Trước tiên, thật là hệ trọng khi chúng ta thừa nhận chướng duyên về mặt xã hội, không phải siêu hình. Căn cứ vào lịch sử Phật giáođiều kiện hiện tại của Phật giáo trên thế giới, cái gì (có tính cách xì-căn-đan) sẽ tạo nên một sự chối bỏ thẳng thừng. Sự thống trị của người nam trong đạo Phật chính thực làm tổn thương các nữ Phật tử, và trong một chừng mực nào đó, làm tổn thương luôn cả các nam Phật tử. Nó cũng là một việc hết sức hổ thẹn cho các Phật tử khi tuyên bố đạo mình là một đạo hợp tình lý, nhân bản, và trên hết, từ bi.

Đây là thời điểm mà phụ nữ chúng tôi cần có sự tôn trọng và hỗ trợ từ phía các pháp huynh nam và họ nên trao cho chúng tôi cả hai thứ trên. Khi mà tuệ giác chúng tôi đau đớn dành được từ cách biết nhìn 2 mặt phải và trái, bị nhóm độc quyền chối bỏ hay không được đếm xỉa đến, thì sự đau khổ của những chướng duyên về sự kỳ thị giới tính càng tăng cao thêm cường độ. Chúng tôi mong chờ các vị giáo thọ và các pháp huynh nam nhận rõ những bằng chứng với tâm trong sángthành thật. Chúng tôi cũng mong mỏi và xin các giáo thọPhật tử nam đừng nói rằng vì sự giác ngộ vượt quá giới hạn giới tính, nên vị trí độc tôn của người nam trong các lãnh vực Phật học không còn là một vấn đề nghiêm trọng. Những tuyên bố như vậy thường gây ra hiểu lầm đáng tiếc. Hơn nữa, chúng tôi cũng từ chối không làm theo điều mà một số Phật tử bảo chúng tôi rằng sự đối kháng của chúng tôi về địa vị độc tôn và phẩm hạnh cho nữ quyền là dựa trên bản ngã của chúng tôi và rằng, nếu chúng tôi sáng suốt hơn thì nên chấp nhận những điều kiện đã được định đặt trong xã hội. Chưa bao giờ có một nhóm Phật tửđịa vị ưu thế về mặt xã hội lên tiếng về sự bất công trên. Chỉ có những nhóm bị áp bức. Thay vì phải làm theo cái cách lý giải ngược ngạo như vậy, chúng ta có thể quay lại yêu cầu các Phật tử nam ứng dụng lời khuyên của họ cho chính mình, để chứng minh sự giác ngộ về vô ngã của họ bằng cách không lạm dụng đặc quyền của mình.

Ví dụ, một hôm nọ tôi đi Bhutan với thầy tôi, Khandro Rinpoche, và những học trò khác. Chúng tôi đến một chổ linh thiêng do một người bảo vệ nam canh chừng, dù chúng tôi chả quan tâm gì đến chuyện này cả! Nhưng hóa ra tác dụng của người bảo vệ nam là không cho người phụ nữ đi vào chổ tôn nghiêm. Thầy tôi, em gái của bà, và các nữ tu cứ tự nhiên đi đại vào. Bởi vì họ là bậc thầy có uy tín, không ai dám ngăn họ lại. Khi chúng tôi, những học trò, chuẩn bị đi vào bên trong thì bị ngăn lại tức thì và bảo rằng: ‘Không cho phép phụ nữ vào.’ Một vài bạn nam người Tây phương vừa bước vào, vừa vẩy tay chào chúng tôi. Còn chúng tôi, những người nữ, nổi xung thiên. Người nam không chỉ lợi dụng ưu thế của mình mà còn hoàn toàn không hiểu tại sao phụ nữ chúng tôi nổi giận đối với họ cũng như gã bảo vệ cửa. Thầy chúng tôi bèn dẫn chúng tôi đến một nơi biệt lập để nói về biến cố trên. Một người phụ nữ bèn hỏi, ‘Khi chúng con viếng thăm nữ tu viện, có một cái phòng không cho người nam vào phải không?’ Một người đàn ông bạo gan trả lời, ‘phải đó, phòng của đàn bà!’ Một người nam khác hỏi tôi rằng họ nên làm gì trong tình cảnh đó. Anh ta chẳng hiểu nổi khi tôi đáp rằng, ‘Anh lẽ ra không nên vào trong mà nên ở bên ngoài với chúng tôi.’

Bất kể các pháp huynh của chúng tôi sẽ bình tâm chấp nhận những sự thật rõ ràng đã phơi bày hay không, điều hệ trọngchúng tôi hành xử với tuệ giác về sự thật đó. Chúng ta không nên rơi vào sự cám dổ của ba độc, mà độc hại nhất là vô minh. Chúng tôi chịu nhiều áp lực từ các nam Phật tử và các vị lãnh đạo Phật giáo bởi vì họ đơn giản không ngó ngàng gì đến những tài liệu lịch sử của đạo Phật nói về những thành kiến đối với phụ nữđịa vị ưu thế của nam giới hiện nay. Phụ nữ được dưỡng nuôi trong nền văn hóa phụ hệ, bất kỳ là phụ nữ Á châu hay Tây phương, đều dạy học cách làm hài lòng và chiều theo các ông. Rốt cuộc, tránh đối đầu với đàn ông còn quan trọng hơn cà việc nhận biếtbảo vệ quyền lợi của chính mình, nhu cầu của mình, và hợp tác với những phụ nữ khác. Đó là lý do tại sao phụ nữ thường dạm nhờ nam giới đề nghị những luật nghi dành cho nữ giới theo dòng truyền thừa của họ, thay vì nhận biết rằng người nữ cũng có khả năng tương tự.

Vô minh thường biến dạng thành sự chối bỏ hay không nhận biết rằng giới tính luôn là đề tài tranh luận trong Phật giáo, rằng sự thực trong kinh Phật nhan nhản những mẩu chuyện và phê bình, hạ thấp hay nhạo báng nữ giới và đề cao địa vị ưu thế của nam giới. Từ lúc Bà di mẫu của Phật, Ma Ha Ba-Xà Ba-Đề (Mahaprajapati), không chấp nhận lời từ nan để thành lập Giáo đoàn Ni, Các vị ni và một vài vị tăng đã từng tích cực ủng hộ những lý tưởng về sự dung hòa giới tính và tính bao dung, không kỳ thị giới tính hay thân nữ nhân. Thật là một điều đáng buồn đến độ không hiểu nổi, khi có người Phật tử chối bỏ truyền thống tuyệt vời đó, và xưa cũ từ thời đức Phật, mà tuyên bố rằng những phong trào đương thời ủng hộ quyền lợi và nhu cầu của nữ Phật tử là ‘ngoại lai’, bắt nguồn từ phong trào bình quyền của phương Tây. Người phụ nữ đã bước một bước dài học cách hòa nhập và chiều theo nam giới; dù phải bỏ qua những di sảnlợi ích, nhu cầu cho bản thân. Đã đến lúc chúng ta không thể làm ngơ đối với cái phần di sản Phật giáo sai lầm và nguy hại này, xem thân nữ là chướng duyên. Nếu ai đó có thể phá vỡ cái khuynh hướng vô minh đối với giáo thuyết về thân nữ, thì họ là đầu tàu phải chịu nhiều đòn sân hận dữ dội. Đạo Phật coi sân hận như là một sự hủy hoại đối với phần tâm linh và nên cần tránh né. Sự chẩn đoán đó rất chính xác. Một trong những điều khó khăn nhất khi đối đầu với chướng duyên này là ý nghĩ sai lầm cho rằng không có gì thay thế cho cơn sân hận đối với sự bất công; rằng nếu mình không nổi giận, thì mình là kẻ không tình cảm. Nếu ai có thực hành thiền tập, sẽ thấy rằng cơn giận thường không tồn tại lâu, và có thể thay thế bằng sự thấu hiểu sáng suốt về nguyên nhân của nó. Nhưng sau khi đã thuần hóa cơn giận, chúng ta không nên quay lại làm ngơ với nguyên nhân gây cơn giận phát sinh, mà nên giải thích rõ ràngchính xác sự sai lầm của việc nam giới chiếm địa vị độc tôn trong Phật giáo.

Sự liên hệ giữa sân hậntỉnh giác là một trong những giáo lý bổ ích trong đạo Phật để học cách đương đầu với những chướng duyên này. Một phụ nữ có lần hỏi sư phụ tôi làm sao giải quyết cơn sân hận. Thầy tôi trả lời, ‘sân hận luôn luôn là hành động phí thời gian’. Người hỏi sửng sốt, lầm bầm nói, ‘Nhưng còn cái chuyện mà mình nên tức giận thì sao, như là bị đánh đập chẳng hạn?’ Ngay lập tức thầy tôi đáp, ‘Tôi bảo cho cô biết sân hận là phí thời gian. Tôi đâu có nói là cô phải từ bỏ cái tuệ giác của cô!’ Duy trì tuệ giáccăn bản. Nếu ai đó không thích nghe về kết cục tốt đẹp của tuệ giáctiếp tục giận mình, đó là vấn đề của họ. Chúng ta không nên đè nén tuệ giác của mình, nhưng nên giải thích hợp lý, không ác ý vì có người không muốn nghe những điều khó chịu. Chúng tôi không muốn giới tính hóa Phật pháp khi nêu lên vấn nạn kỳ thị giới tính và vị trí độc tôn của nam giới, và chứng minh chúng có hại như thế nào. Câu trả lời duy nhất cho sự kết án này là Phật pháp đã bị giới tính hóa từ lâu do những người đầu tiên dựng lên chủ thuyết đạo Phật độc quyền cho người nam. Họ tuyên bố rằng sinh làm thân nữ là bất hạnh và đề nghị giải pháp tốt nhất là nên tái sinh làm thân nam hơn là muốn tạo ra sự bình đẳng trong Phật pháp lúc này.

Có một chiều hướng rất khác để đối đầu với mọi chướng duyên, nhưng đặc biệt là cho chướng duyên có dính líu đến sự bất công. Những người Phật tử sinh ra làm thân nữ thường bị chối bỏ tiềm năng toàn diện của kiếp người quý giá. Điều này không may lẫn không công bằng, nhưng trong kiếp người ai cũng đều dính líu đến một cái gì đó trắc trở, hoặc bị từ chối một việc gì đó quan trọng dù không có lý do rõ rệt. Ai biết cách sống với sự từ nan đó sẽ được xem là người thành công về mặt hành trì. Sau khi, người này đã làm mọi thứ mình có thể để vượt qua chướng duyên đó, dù là không được hoàn toàn mãn nguyện, liệu người này có thể duy trì sự buông xả, tri túc, và hoan hỉ, tránh được sự than thở và tự thương hại mình hay không? Làm được như vậy không phải dễ, nhưng đây chính là lợi ích lớn lao nhất nhờ biết hành trì. Nếu có người biết sống mãn nguyện trước những chướng duyên thử thách, người này hiểu rằng sự an lạc của mình không phải do điều kiện, cũng như không phải chỉ do những hoàn cảnh may mắn mà thôi. Sự thành tựu này mang đến niềm hạnh phúcbình an rộng lớn. Chắc chắn đây chính là lời dạy của các vị đạo sư khi họ nói rằng chướng duyên chính là ơn phước về lâu, về dài.

Một điểm cuối cùng xin được nhấn mạnh. Vài chướng duyên, như kỳ thị giới tính và chủng tộc, nghèo khổ, đồng tính luyến ái, không hòa đồng tôn giáo, hủy diệt sinh môi, và chủ nghĩa dân tộc không thể nào tránh được trong kiếp làm người, nhưng nguyên nhân gây ra là do ba độc tham, sân, si của con người. Vì vậy, chúng ta có thể vượt qua được. Để thích ứng với chướng duyên sinh ra làm thân người là đã đủ khó khăn rồi. Vì có một số người thích ứng được với những chướng duyên do xã hội gây ra; không có nghĩa là cách biện hộ cho một ai đó đề cao và trục lợi từ những chướng duyên này. Các vị Phật tử, đặc biệt là các thầy giáo thọ, không nên bao giờ cho rằng vì có một vài người biết cách sống với những chướng duyên do xã hội gây ra, nên những việc làm như vậy được cho phép để các lãnh đạo Phật giáo, hay các tổ chức Phật giáo tiếp tục làm. Đó là sự xuyên tạcbóp méo lời dạy hữu ích và khích lệ của Phật vì cho rằng chúng ta cảm kích những chướng duyên như vậy, như là một ân phước lành trên đường tu.

*Vài dòng về tác giả:

Bà Rita M. Gross là tác giả nhiều sách về Phật học, thầy giáo thọ, và giáo sư danh dự nghành tôn giáo tỷ giảo. Những tác phẩm nổi danh của bà là Đạo Phật Sau Thời Kỳ Phụ Hệ: Lịch sử Về Quyền Giới Tính, Phân Tích, và Tái Cấu Trúc Đạo Phật , và Vòng Hoa Chiến Thắng Cho Tư Tưởng Bình Quyền: 40 năm Khám Phá Tôn Giáo.

Nguồn Anh ngữ:

The Man-Made Obstacle – Distinguishing between problems of human birth and problem of human making, by Rita M. Gross, published by Tricycle Magazine Online, June 8, 2014.

Tháng 7, 2014

Thiện Ý chuyển ngữ
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7643)
Một trong những nền tảng quan trọng của đạo đức Phật giáotuân theo tinh thần bất bạo động... Tác giả: Charles K. Fink; Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 8760)
Đức Phật đã thuyết giảng như thế nào về sự đau đớn? Ngài bảo rằng sự bất an của chúng ta gồm có hai thể dạng khác nhau... Ajahn Brahmavamso, Hoang Phong dịch
(Xem: 7053)
Không là một khái niệm xuất hiện khá sớm trong thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy, trải dài đến Phật giáo Đại thừa... Thích Nữ Nhuận Bình
(Xem: 9282)
Tác phẩm “Tuệ Sanh Định” là một trong số ít tác phẩm được viết bởi Bậc Thầy Maha Boowa (Bhikkhu Ñanasampanno)... Nhất Như dịch Việt
(Xem: 8715)
Nguyên tác tiếng Anh của Darwinism, Buddhism and Christanity được đăng trong tạp chí The Maha Bodhi, Sri Lanka, Tập 82 Dec 1974 Thích Nữ Liên Hòa dịch
(Xem: 10167)
Trong Kinh Duy-Ma-Cật, khi Phật bảo Ngài Duy-Ma-Cật thị hiện cõi nước Diệu-Hỷ có Vô-Động Như-Lai, các Bồ-Tát, và đại chúng nước ấy cho đại chúng xem... Toàn Không
(Xem: 8154)
Chân Nguyên kết luận: “Đức Phật Thích Ca đã tự chính mình đem thánh hiệu mà dạy cho hai người già, điều đó không còn có thể nghi ngờ gì nữa”... Thích Phước An
(Xem: 9486)
Một sự kết hợp thú vị giữa đạo đức chính trực, sự phục tùng, lòng khoan dung, cầu nguyện, khả năng tự lực, tự thanh lọc và tình yêu... Mai Thục
(Xem: 6897)
Mũi tên biểu trưng cho một sự đau đớn trên thân xác, nhưng cũng có thể là nguyên nhân gây ra một sự hoảng sợ trong tâm thần... Hoang Phong
(Xem: 7938)
Yết-ma, được phiên âm từ karmam[1] của tiếng Phạn. Hán dịch là “biện sự tác pháp”, được định nghĩa: “Vạn sự do tư thành biện cố”... Thích Minh Cảnh
(Xem: 8321)
Quảng bản kinh được Pháp Nguyệt dịch năm 732, rồi đến Bát NhãLợi Ngôn tái dịch năm 790. Cho đến Thi Hộ đời nhà Tống dịch lần chót là có tất cả 7 bản... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 8584)
Bồ tát hành đạo bắt đầu từ giữa lòng xã hội nên sự tiếp cận với mọi thống khổ nhân sinh là lẽ tất nhiên... Thích Tuệ Sỹ
(Xem: 8346)
Thiền sư Vĩnh Bình Đạo Nguyên, hoặc Đạo Nguyên Hy Huyền (1200-1253), là vị tổ sáng lập ra dòng Tào ĐộngNhật Bản... Ngọc Bảo dịch
(Xem: 8454)
Một cách vắn tắt, đó là vị trí của nữ giới trong Phật Giáo. Người phụ nữ xứng đáng có một chỗ đứng danh dự ngang hàng với nam giới... Piyadassi Mahathera; Dịch giả: Phạm Kim Khánh
(Xem: 11205)
Người vợ cần quán chiếu tâm mình thật cẩn thận trong một thời gian và từ đó đi đến quyết định đúng cho cuộc đời của mình... Mithra Wettimuny; Diệu Liên Lý Thu Linh chuyển ngữ
(Xem: 8512)
Đức Thế Tôn là người đầu tiên đòi quyền lợi cho giới nữ, đưa vị trí giới nữ ngang bằng nam giới... Thích Hạnh Bình
(Xem: 10650)
Hội Phật giáo Trung Quốc ước tính rằng hiện có khoảng 180,000 tăng niTrung Quốc... Nguyên tác: Tịnh Nhân; Thích Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 9415)
Ngài đã gọi dứt khoát, rõ ràng “tự phá thai mình” là một tội, phải chịu quả báo hết sức nặng nề và kéo dài... Chân Minh
(Xem: 9199)
Làm thế nào để những cha mẹ Phật tử có thể dạy tốt lời dạy của Phật giáo cho con em của họ?... Helmuth Kalr; Thích Minh Diệu
(Xem: 9510)
Rồi lần lượt không bao lâu, khi Ðức Phật đúng 80 tuổi đời, 45 tuổi đạo, Ngài cũng giã từ Tứ chúng để an hưởng quả vị Vô Dư Niết-bàn... Thích Thiện Minh
(Xem: 10266)
Con người không bao giờ ngưng tìm kiếm trong thiên nhiên để mong thâu thập được nhiều thứ hơn nữa nhằm chất đầy cái nhà kho mãi mãi thiếu thốn của mình... Tuệ Sỹ
(Xem: 16105)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19084)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 8621)
Long Thọ (Nagarjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán mà ngài còn được coi là vị Phật thứ hai sau đức Thế Tôn trong lịch sử phát triển Phật giáo.... Vũ Thế Ngọc
(Xem: 7980)
Như thế giải thoát cho vô số vô biên chúng sinh, nhưng thực ra không có chúng sinh nào được giải thoát... Vũ Thế Ngọc
(Xem: 24079)
Cúng dườngbố thí vốn cùng một nghĩa "cho". Cái gì của mình mà có thể đem ra "cho" người khác, thì gọi là "cho"... TT Thích Nhất Chân
(Xem: 9338)
Lịch Sử Văn Học Phật Giáo Tiếng Sanskrit (Literary History of Sanskrit Buddhism - Nguyên tác: J. K. Nariman; Thích Nhuận Châu dịch Việt
(Xem: 7590)
Yết-ma là phiên âm từ karman của tiếng Phạn. Hán dịch là «biện sự tác pháp», và thường được các luật sư Trung quốc giải thích rằng «Vạn sự do tư thành biện cố.»... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 10470)
Chúng ta có thể thấy được đức tính của những khóm tre cây trúc, của những dòng sông, của cây mai, của đất, của áng mây... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17599)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 6901)
Giáo dục Phật giáo – nền giáo dục minh triết, vốn ở cao, ở trên triết học... Minh Đức Triều Tâm Ảnh
(Xem: 8816)
Đọc công trình của Francois Jullien những độc giả "Tây giả" (Á và Âu) có thể thấy được rằng người bà con nghèo của triết học có những sở đắc... Nguyên Ngọc dịch
(Xem: 12285)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 7640)
Chúng ta thường nghĩ là mình đã hiểu nhưng thật ra có lẽ ta chưa hiểu rõ thế nào là quy y Tam Bảo... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 14513)
Tăng đoànhình ảnh của Đức Phật, mang trọng trách thừa Như Lai sứ, hành Như Lai sự... Thích Phước Sơn
(Xem: 8179)
Ðại Tạng Kinh là một công trình tập thành tâm huyết của bao nhiêu thế hệ Tổ Sư, cổ đức Ấn Ðộ, Trung Hoa, Nhật Bản, Cao Ly... Liên Hương kính ghi
(Xem: 7740)
Trong Phật giáo đại thừa nói rất rõ: Phiền não tức bồ đề, Niết bànsinh tử. Niết bànsinh tử là một cặp bài trùng, không có cái này thì không có cái kia...
(Xem: 8784)
Có thể nói “tâm” là cơ sở và động lực giải nghiệp, giải hạn khổ ách đối với con người trong mọi không giannăng lực chuyển nghiệp.
(Xem: 14748)
Tổ tiên ta đã Phật hóa gia đình, giáo dục con cháu phải biết chia sẻ hạnh phúc, ban rải tình thương đến mọi người, mọi loài... TT Thích Lệ Trang
(Xem: 9212)
"Khi cúng dường tứ sự đến cho một vị tỳ-khưu, hai vị tỳ-khưu, cận sự nam nữ đừng nghĩ đến cá nhân vị ấy mà cứ khởi tâm cúng dường Tăng..." Tâm Tịnh
(Xem: 12262)
Từ Trạch Pháp này rất quen thuộc trong Phật Giáo, nhưng đã có mấy người Phật tử chịu tìm hiểu tận tường... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 8452)
Theo Phật giáo, con người sinh ra từ vô thủy (thỉ) đến giờ đã trải qua vô lượng đời, và sẽ còn tiếp nối vô số đời nữa ở tương lai cho đến vô chung... Toàn Không
(Xem: 14440)
Hoa dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền-Trang; Việt dịch: HT Thích Trí-Quang; Anh dịch: Buddhist Text Translation Society
(Xem: 12394)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 8348)
Chúng tôi xin bàn về một số điểm liên hệ, nhất là làm rõ về niên đại Hán dịch của tác phẩm, từ đó chúng tôi xin ghi nhận một số từ ngữ, thuật ngữ Phật học đã được Hán dịch vào thời ấy... Đào Nguyên
(Xem: 10092)
Dù tâm mộ đạo, nhưng Phật tử còn theo nghi lễ xa xưa và kinh điển cổ ngữ, nên việc tu tập không còn phù hợp với nhu cầu của thời đại mới... Johan Galtung, Đỗ Kim Thêm
(Xem: 7710)
Trong việc quảng bá sự hiểu biết, vai trò của người Thầy thật hết sức cần thiết, thế nhưng người Thầy thì cũng phải có đầy đủ khả năng... Hoang Phong
(Xem: 15969)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý. ... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 8162)
Nói đến văn hóa tức là nói đến tổ chức đời sống của một dân tộc, trong đó bao gồm các mặt kinh tế, xã hội, luật lệ, văn chương, mỹ thuật, tôn giáo, v.v... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 8218)
Chân: chân thật, không hư vọng. Như: như thường, không biến đổi, không sai chạy. Chân Như tức là Phật Tánh, cái tánh chân thật, không biến đổi, như nhiên, không thiện, không ác, không sanh không diệt... Lâm Như Tạng
(Xem: 7811)
Thủy Giác: mới tỉnh giác. Cái bổn tánh của hết thảy chúng sanh sẳn có lòng thanh tịnh tự tánh, đủ cái đức vốn chiếu sáng tự thuở nay, đó kêu là Bổn Giác... Lâm Như Tạng
(Xem: 11122)
“Bản Giác : Tâm thể của chúng sinh tự tánh thanh tịnh, lìa mọi vọng tưởng, sáng tỏ vằng vặc, có đức giác tri. Đó chẳng phải do tu thành mà như thế, mà chính là tính đức tự nhiên bản hửu, nên gọi là Bản Giác... Lâm Như Tạng
(Xem: 9079)
Thượng tọa Thích Thuyền Ấn trình bày tại Viện Đại Học Vạn Hạnh vào ngày 9-4-1967. Sau đó, bài diễn thuyết này được in trong tập Diễn Đàn Vạn Hạnh, số 1, do Ban Tu thư Đại Học Vạn Hạnh ấn hành năm 1967.
(Xem: 9214)
Bản Chất Của Tâm Thức - Tác giả: His Holiness the Fourteenth Dalai Lama, Anh dịch: Alexander Berzin, Tuệ Uyển chuyển ngữ
(Xem: 8345)
Niết bàn, nirvana (S), nibbana (P), trong Sanskrit và Pali có nghĩa bóng là, một "thể trạng dập tắt". Hình ảnh của một ngọn lửa đã bị dập tắt qua việc không còn nhiên liệu nữa... Tác giả Alexander Berzin; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 7491)
Long Thọ nói, giáo pháp của Chư Phật y trên hai chân lý, tương đối hay thế tục đế, và tuyệt đối hay thắng nghĩa đế. Những ai không phân biệt được hai chân lý này, không thể hiểu thấu giáo pháp thâm sâu... Thích Tuệ Sỹ
(Xem: 7954)
Kinh Hoa nghiêm, nói một cách đơn giản, là bộ kinh nghiên cứu về Pháp giới và cách phát khởi trí tuệ để thể nhập Pháp giới. Trong Pháp giớilý sự vô ngạisự sự vô ngại... Hồng Dương
(Xem: 8756)
Các nhà khảo cổ phát hiện ra bằng chứng về 1 ngôi chùa Phật giáo cổ nhất chưa từng được khám phá, niên đại khoảng năm 550 TCN... National Geographic
(Xem: 9248)
Học Phật Nên Biết - Tác Giả: Pháp Sư Thánh Nghiêm, Pháp Sư Ấn Thuận, Pháp Sư Kim Minh và Phương Khắc Minh; Dịch Việt: Thích Nguyên Thành
(Xem: 11399)
Kinh PHÁP CÚ là một bộ Kinh rất xưa, được xem là kinh Lời Vàng cho những ai có chí nguyện tu tâm, dưỡng tánh để tiến thân trên lộ trình hành đạo giải thoát... Thích Nữ Nguyệt Chiếu
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant