Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chánh NiệmĐạo Đức - Giao Thoa Giữa Khoa Học và Tâm Linh ở Mỹ

16 Tháng Chín 201415:19(Xem: 8671)
Chánh Niệm và Đạo Đức - Giao Thoa Giữa Khoa Học và Tâm Linh ở Mỹ

CHÁNH NIỆMĐẠO ĐỨC
Giao thoa giữa khoa học và tâm linh ở Mỹ

 Kaelyn Stiles

Bản dịch của Minh Phúc

---o0o---

Mục Lục:

Bối Cảnh Về Chánh Niệm Ở Mỹ

Trường hợp chứng nghiệm MBSR (Mindfulness Based Stress Reduction)

Học Viện Tâm Và Đời Sống MLI (Mind And Life Institute)
Thiền Quán Vipassana

Quán Tưởng Trong Đạo Chúa

Y Học

Khoa Học

Tôn Giáo

Nguyên Tắc Nhiên Cứu

Chương Trình MBSR Boston – Massachusetts

Viện Nghiên Cứu Mùa Hè về Tâm và Đời Sống MLSRI

Hội Nghị “Khoa Học ở Ngã Tư Đường và Thần Kinh Học” - 2005

Đại Học Massachusetts: Hội Thảo Hàng Năm về Giảm Thiểu Bức Xúc Dựa Vào Chánh Niệm MBSR (Mindfulness Based Stress Reduction) – 2006

 


 Nội Dung

 

Thiền định là  một phương pháp hành thiền có nguồn gốc từ đạo Phật  được phát triển vững mạnh trong 3 thập niên qua ở Mỹ và nhiều nước khác. Bài nghiên cứu của Kaelyn Stiles nhằm dẫn chứng và phân tích ý nghĩa về sự phổ biến nổi bật của thiền định trên đất Mỹ và nhận diện những nhân tố góp phần vào trào lưu này. Bài viết chủ yếu trình bày sự giao thoa của chánh niệmtôn giáo, so sánh hình thức nhập thế của chánh niệm đối với cả hai lối hành thiền trong đạo phật và đạo Chúa tại Mỹ. Tác gỉa rất phấn khởi khi thuyết trình về hai khía cạnh có vẻ tương phản nhau giữa tôn giáo và khoa học liên quan đến thiền và tâm.

Trước hết, có nhiều nghiên cứu khoa học về bộ não, chú trọng vào những xúc cảm như hạnh phúctình thương; đặc biệt người ta bắt đầu tìm đến với khoa học hay các khoa học gia, thay vì đến các tôn giáo, để tư vấn ý nghĩa dẫn đến một đời sống hạnh phúctình thương. Thứ đến là quan sát về ý niệm bản ngã và những đường hướng mà thiền định có thể làm thay đổi quan niệm đạo đức của người phương tây.

Sự phát triển của thiền định một phần nào nhờ vào những nghiên cứu khoa học dẫn chứng những hiệu qủa của thiền định trên sức khỏe, bao gồm những tác dụng dương tính của thiền trên chức năng của bộ não Từ kết qủa của những nghiên cứu này, các chuyên viên y tế càng khuyến khích bệnh nhân nên tìm đến thiền định hầu giúp vượt qua những chướng ngại do các bệnh trạng của thân và tâm. Những khóa học về chánh niệm xuất phát từ truyền thống Phật giáo nhưng lại hoàn toàn biến thành phương pháp trị liệu thực tiễn trong dân gian.

Tác gỉa cố gắng tìm hiểu xem vì sao mà thiền định được phổ biến như vậy, tại sao lại có những sắc thái đặc thù, và được giao tiếp như thế nào với các xu hướng khác ở Mỹ.

Từ  những nghi vấn nghiên cứu của tác giả dẫn đến khảo sát vai trò của những can thiệp dựa vào chánh niệm MBIs (Mindfulness Based Interventions) ở Mỹ. MBIs là những can thiệp lâm sàng được phác họa cho mục đích thực tập về thiền định.

Những khóa huấn luyện thông dụng nhất là 8 tuần lễ, nhưng có thể thu xếp thành vài giờ hoặc cả năm học hay nhiều hơn nữa. Đã có sự bột phát lớn về tầm quan trọng của những ứng dụng lâm sàng MBIs cùng với nhiều nghiên cứu khoa học về thiền và MBIs.

Tác giả khảo sát sự giao lưu của MBIs qua 3 phương diện chính là y học, khoa học và tôn giáo. Mặc dù nghiên cứu này đề cập cả 3 phương diện chồng chéo nhau, đề tài thuyết trình ở đây sẽ chú trọng về sự giao thoa của chánh niệmtôn giáo

Trường hợp chứng nghiệm đầu tiên chú trọng về chánh niệm và y học khi khảo sát một ứng dụng lâm sàng đặc biệt trên chánh niệmgiảm thiểu bức xúc dựa vào chánh niệm MBSR (Mindfulness Based Stress Reduction).

Trường hợp chứng nghiệm thứ 2 tập trung vào vai trò của chánh niệm trong khoa học qua   sự khảo sát một cơ sở nghiên cứu về chánh niệm: Học Viện Tâm Và Đời Sống MLI (Mind and Life Institute).

Trường hợp chứng nghiệm thứ 3 là chánh niệmtôn giáo, đặt trọng tâm vào thiền tứ niệm xứ (Vipassana) và phép quán của đạo Chúa (Christian comtemplation).

Trước khi đề cập đến các trường hợp chứng nghiệm và những nghi vấn nghiên cứu cũng cần định nghĩa sơ qua về thiền địnhgiải thích các cơ sở có liên quan đến đề tài rộng lớn hơn của chánh niệm.

---o0o---

Bối Cảnh Về Chánh Niệm Ở Mỹ

Một số chuyên gia ước đoán ở Mỹ  có gần 3 triệu tín đồ Phật giáo. Theo một nghiên cứu năm 2004, có hơn 25 triệu người Mỹ tin rằng những giáo pháp của Phật có tầm ảnh hưởng quan trọng trên tâm linh của họ. Với cách nhìn khái quát, vì Phật không phải là một đấng thần linh (God) nên đạo Phật được xem có tính triết học hơn là tôn giáo. Sự lưu hành của thiền tông, Yoga, và những hình ảnh phật tử trong các quảng bá cùng những bài diễn văn đã đang gia tăng khá nhiều. Người ta có lúc sử dụng các danh từ như nghiệp, thiền, giác ngộ đồng thời chắp nối một cách méo mó phật tử với những kẻ theo hippy phóng túng trong những thập niên ’60 và ’70. Có rất nhiều sự quan ngại, lầm lẫnlo lắng về ảnh hưởng của Phật giáo trên đất Mỹ. Bằng cách nào đạo Phật đã có thể được dung nhập vào xứ này? Phật giáo phương tây thường khác biệt với những hình thức của Phật giáo Châu Á bởi vì những người truyền giáo đến từ Á châu chỉ du nhập rất ít những lý thuyếtthực hành được chọn lọc từ những giáo lý của Nam Tông -Thượng Tọa Bộ (Theravada) hay Bắc Tông -Đại Thừa (Mahayana). Họ không bắt buộc phải mang đến hình thức Phật giáo chính gốc, mặc dù có những trường phái khác nhau đã tìm đến gây ít nhiều ảnh hưởng. Nói chung phật tử được tự do cũng như bị đưa đẩy vào những kinh nghiệm về cơ cấu và hình thức của một  tôn giáo mới lạ để có thể được chấp nhận một cách kỳ đặc trên đất Mỹ.  Tuy nhiên một số khía cạnh của đạo Phật  không dễ dàng được truyền đạt hay chấp nhận bởi người Mỹ như phương cách xử thế và qui y theo Phật. Đây là một trong những đặc điểm mang lại nét đặc thù của những hình thức Phật giáo phương tây tuy vẫn còn giữ lại một số đặc tính chung của nhà Phật.

Người ta thường cho rằng có 3 dạng thức Phật giáo ở phương tây. Đó là (1) nhóm chuyển đạo, (2) nhóm chủng tộc mới di dân đến và (3) nhóm Phật tử kỳ cựu Á-Mỹ (Tàu và Nhật).

Trước hết nói về thành phần chuyển đạo. Đây là những Phật tử đầu tiên gốc Âu Mỹ mà họ đã quyết định từ bỏ tôn giáo trước đây của mình để qui y theo Phật. Hình thức đạo Phật này gia tăng rất nhanh  trong vòng 5 năm nay. Có 4 loại chuyển hướngThiền Tông (Zen Buddhism), Mật Tông Tây Tạng, Theravada (Nam Tông) và Soka Gakkai (hậu thân của Nhật Liên Tông - Nhật Bản).

Ba thể loại đầu tiên có liên quan với nhau do sự hội nhập thân cận về văn hóa đối lập trong thập niên 1960 và cùng chia sẻ tương tự phương pháp hành thiền. Ở đây cần nhấn mạnh về sự phát triển của phong trào thiền định Theravada. Hai phương pháp hành thiền chính yếu của Theravada là thiền quán (Vipassana) và thiền chỉ (Samatha). Trong 3 dòng Phật giáo ở Mỹ (Thiền tông, Mật tông và Theravada), thiền quán (4 niệm xứ) Vipassana của Theravada có nét độc đáo hơn cả vì được truyền đến phương tây mà không mang sắc thái Phật giáo cổ truyềnnhấn mạnh phương pháp hành thiền qua những lễ nghi tôn giáo với phương thức giảng dạy thiết thực.

Phương thức giảng dạy của Theravada ở Mỹ, mặc dù đặt nền tảng trên triết học Phật giáo, không có ý làm chuyển đạo thiền sinh, mà thật ra là cố gắng thu nhận càng nhiều càng tốt mọi lớp người. Thay vì bỏ mất nhiều thì giờ vào lý thuyết người ta chú tâm nhấn mạnh  phần kỹ thuật và thực hành thiền định. Phương pháp truyền đạo nhập thế này của Theravada đã tạo nhiều cơ hội thuận lợi cho việc truyền đạt lan rộng

Về phần những tín đồ chuyển đạo thì sao? Nét đặc trưng của Phật giáo phương tây là khuyến khích mọi người tập thiền trong mọi hoàn cảnh. Thông thường thiền quán Vipassana ít được thực hành ở Châu Á vì quan niệm cần phải có đầy đủ phong thái tu hành của người xuất gia và phải luyện tập rất nghiêm ngặt. Hình thức đạo Phật mới (new buddhism) có nét đặc sắc qua vai trò của những người tin theo, đặc biệt là những tín đồchức nghiệp chuyên môn và học vấn cao, có mối liên hệ đến việc tổ chức và điều hành đường lối. Phật giáo Theravada được xem như bị tách riêng lẻ nhất trong vai trò hành đạo của người phương tây. Ngày nay thiền quán Vipassana thích nghi hoàn toàn với những người tự do, thường là những người Mỹ sống bình thường ngoài đời. Tuy vậy quan điểm của những hành giả Vipassana thường không tương hợp với Phật giáo Tharavada có truyền thống gốc Á châu. Những nét thay đổi truyền thống Theravada bởi người Mỹ là do chịu ảnh hưởng của cá nhân chủ nghĩa, ý tưởng phóng khoáng, tinh thần dân chủ, trị liệu tâm thần, nữ giới bình quyền, nhàm chán khoa học và lý do tín ngưỡng.

Thiền quán Vipassana còn được hiểu theo ý nghĩa bao quát trên đất Mỹ là thiền định (mindfulness meditation). Chánh niệm (mindfulness) là một danh từ được áp dụng rộng rãi trong lúc hành thiền để nuôi dưỡng sự tỉnh giác vào mọi thời khắc. Đây là sự tỉnh giác tập trung có chủ ý, một phương thức chú tâmmục đích ngay trong lúc hiện tại, mà không có sự phán xét nào. Nguồn gốc của thiền định nằm trong thực hành thiền quán Vipassana của nhà Phật và từ đó chuyển tải vào chánh niệm. Tác giả điều nghiên những yếu tố khác nhau bao gồm trong chánh niệm, thời gian thực hành chánh niệm, phạm vimục đích hành thiền.

---o0o---

Trường hợp chứng nghiệm MBSR (Mindfulness Based Stress Reduction)

Ứng dụng của thiền định đã và đang được xuất hiện trong nhiều cơ sở tại Mỹ, đáng kể  nhất là sự hội nhập vào lãnh vực y học. Vì vậy, tác gỉa chú tâm vào phần nghiên cứu đầu tiên của mình trong chương trình 8 tuần lễ MBSR, do Jon Kabat-Zinn thành lập tại trung tâm y khoa đại học Massachusetts từ 1979. MBSR hiện nay không chỉ áp dụng trong trị liệu y học mà còn được phổ biếnlưu hành trên hơn 170 vị trí khắp nước Mỹ.

Xuất phát từ phòng mạch giảm thiểu bức xúc, Kabat-Zinn bắt đầu giới thiệu phương pháp thực hành chánh niệm với bệnh nhân có vấn đề liên quan đến thân và tâm bệnh. Ông ta cẩn thận dẫn chứng cách thức mà thiền định đem lại hiệu qủa cho người bệnh. Kabat-Zinn là một trong những nhà nghiên cứu tiên phong ở Mỹ tìm hiểu thiền định ảnh hưởng ra sao đối với sức khỏelợi ích con người. Những nghiên cứu của ông khẳng định rằng thiền định là một trong những kỹ thuật ưu thế nhất trong các chọn lựa trị liệu ở Mỹ. 

Trong khi chương trình MBSR có nguồn gốc từ truyền thống Phật giáo Tây Tạng, phương pháp này đã biến thành một phép trị liệu đại chúng được quảng cáo rầm rộ bởi các nhà cung cấp dịch vụ y tế và được các công ty bảo hiểm chi trả. Trên qui mô lâm sàng, đã có hơn 16.000 người hoàn tất chương trình 8 lễ MBSR, được dạy phương thức đáp ứng một cách hiệu quả đối với các triệu chứng như bức xúc, đau nhức, và bệnh hoạn. Chương trình này là một sự giới thiệu chính xác về hành thiền và có sức lan tỏa nhanh chóng khắp nước Mỹ cùng những chỉ dẫn về yoga, thiền tọa, thiền hànhchánh niệm trong cuộc sống hàng ngày. Các khóa học được tổ chức mỗi tuần một lần trong 8 tuần liên tục và một ngày thảo luận. Khóa học đòi hỏi học viên phải bỏ ra ít nhất 45 phút mỗi ngày, 6 ngày trong tuần để làm các bài tập ở nhà qua các băng giảng được ghi âm sẵn của Kabat-Zinn về chánh niệm hay yoga.

Kabat-Zinn chủ trương rằng những kỹ thuật được giảng dạy trong các khóa MBSR mang tính đại chúng và không liên quan đến một tôn giáo nào cả. Ông ta biện luận rằng Phật giáo đã trải qua hàng ngàn năm lịch sử và đây chỉ là một thay đổi quan trọng giúp cho việc chữa trị sẵn sàng đến với quần chúng một cách sâu rộng hơn. Một trong những trọng điểm khiến chương trình MBSR được thành công như vậy là nhờ Kabat-Zinn đã chuyển hóa giáo pháp, nghi thứcngôn ngữ của Phật giáo thành một triết lý thoải mái mang tính chất xã hộinhập thế rộng rãi.

---o0o---

Học Viện Tâm Và Đời Sống MLI (Mind And Life Institute)

Tính phổ biến gần đây của ứng dụng chánh niệm trong y học được thúc bách bởi nhiều yêu tố, trong đó có những bản tường trình rõ ràngtích cực từ những nghiên cứu của chương trình MBSR nêu trên. MLI là một trong những nhà bảo trợ chính yếu cho những nghiên cứu khoa học sớm nhất về thiền định. Trang web của chương trình giải thích rằng “Nhằm cống hiến cho những đối thoại hữu ích và nghiên cứu hợp tác giữa các nhà khoa học phương tây và các tu sĩ, đặc biệt của Phật giáo”. Học viện là nơi gặp gỡ giữa các khoa học gia, duy lý gia, lãnh tụ tôn giáo, tâm linh gia, và những ai chưa có định hướng. Họ đã tìm thấy rằng những kỹ thuật hành thiền rất bổ ích cho các triệu chứng của thân bệnh và tâm bệnh, và ngay cả có thể tạo ra những thay đổi bên trong các cơ cấu hoạt động của bộ óc - liên hệ đến những cảm xúc dương tính.

---o0o---

Thiền Quán Vipassana

Tác giả quan sát ảnh hưởng của việc thực hành chánh niệm trên các cộng đồng theo đạo Phật và đạo Chúa ở Mỹ. 

Trước hết so sánh khóa học MBSR với thiền quán Vipassana truyền thống. Những bài học và thực tập trong các khóa giảng ở MBSR được căn cứ trước tiên vào truyền thống thiền quán Vipassana, nhưng khóa học chỉ bao gồm một số phần thực hành Vipassana mà thôi. Khi Kabat-Zinn mở khóa MBSR, ông ta đã chọn phương pháp thiền quán Vipassana vì nghĩ rằng đó là giải phápquần chúng phương tây dễ tiếp nhận nhất. Đặc biệt là sự so sánh MBSR với thiền quán Vipassana để khảo sát chương trình MBSR thích ứng như thế nào về mặt lý luậnthực hành, từ đó có thể hòa nhập một cách hợp lý với y học phương tây, cũng như sự thích ứng này có ảnh hưởng kế tiếp như thế nào đối với Phật giáo phương tây. Hai vị trí nghiên cứu thiền quán Vipassana tại Mỹ là Trung Tâm Tùng Lâm Nữ Tu của Thiền Viện Spirit Rock tại Woodacre/California và Hội Thiền Định ở Barre/Mssachusetts. Jack Kornfield, Sharon Salzberg và Joseph Golstein là 3 sáng lập viên của các trung tâm truyền thống Vipassana của Phật giáo nước Mỹ. Họ có công mang về đất Mỹ những thực hành chánh niệm sau  thời gian tu họcẤn Độ, Miến Điện và Thái Lan. Năm 1976 họ thiết lập trung tâm thiền quán Vipassana đầu tiên ở Barre/Massachusetts. Sau đó Jack Kornfield di chuyển về California năm 1984 và thành lập trung tâm thiền nữ tu tại Woodacre còn gọi là Spirit Rock. Mặc dù đây là 2 trung tâm thiền quán Vipassana chủ yếu, các cơ sở Vipasana đã gia tăng hơn gấp đôi trong khoảng thập niên 1988-1998 và đến nay chiếm đến 15% các trung tâm thiền Phật giáo ở Mỹ, đạt thành tích cao hơn các trung tâm của Thiền tông (Zen) và Mật tông có từ trước. Mặc dù hầu hết những giảng viên của chương trình MBSR đã được huấn luyện theo truyền thống Vipassana , khuynh hướng này có thể thay đổi trong những năm tới đây trong lúc chương trình MBSR tiếp tục phát triển thanh thế của mình. Vì nhu cầu đòi hỏi gia tăng giảng viên nên sẽ có nhiều giảng viên các lớp MBSR đuợc đào tạo cấp tốc theo phương cách thế tục về thực tập chánh niệm.

---o0o---

Quán Tưởng Trong Đạo Chúa

Tác gỉa cũng quan sát sự giao lưu giữa thực hành chánh niệmtruyền thống đạo Chúa. Cơ sở “Tỉnh Tu” là một tổ chức quốc tế của Thiên Chúa với mục đích truyền đạt sự thực hành cầu nguyện tập trung. Theo trang web của họ: Cần bắt đầu bằng những phản ứng qua đó người ta không có đầy đủ nội lực để chống đỡ lại những tác động của xã hội đặt để lên họ, đặc biệt là theo truyền thống Thiên Chúa. Đây là tính linh cảm trong trong triết học đông phươngthần bí của đạo Chúa. Việc thực hành cầu nguyện tập trung không giống như thiền địnhcăn bản chỉ là một khoảng thời gian tỉnh lặng, cầu nguyện không tính toán trong đó hành giả trải lòng mình đến thượng đế.

Bình Luận

Đến đây hãy thử xét qua nghi vấn về tư tưởng Phật giáo được chuyển biến ra sao theo thể chế nước Mỹ. Bằng cách nào mà triết học Phật giáo có thể tiếp xúc và làm thay đổi con ngườithể chế này? Để thực hiện việc này, tác giả chú ý đến những khác biệt về thế lựcphương sách của những diễn viên khác nhau; đồng thời xem xét những khác biệt này ảnh hưởng như thế nào đến đặc tính và hình thái của sự phát triển thiền định. Vậy cần tìm hiểu những liên quan làm thúc đẩy, cản trở hay nhũng nhiễu trong sự trỗi dậy của khuynh hướng này.

---o0o---

Y Học

Có thể nói sự phát triển gần đây nhất của Phật giáo phương tây một phần nào đó do những nghiên cứu khoa học chứng minh hiệu qủa của thiền định trên sức khỏe. Từ một phần kết quả của nghiên cứu này và một phần khác của hiện tượng độc lập, chúng ta thấy được những ứng dụng lâm sàng mới lạ của thiền định vào y học. Chương trình MBSR được đề xướng như là một cơ hội cho bệnh nhân khi mà cơ cấu y tế không biết phải làm gì và phương pháp trị liệu qui ước cũng chịu bó tay. Các bác sĩ gữi bệnh nhân đến đây với những bệnh chứng như trầm cảm, lo nghĩ, suy tim, cao huyết áp, bệnh da, ung thư và đau nhức kinh niên. Nó tiêu biểu cho một phương pháp thay thế và mở rộng của ngành sinh-y học truyền thống. Như Davis Hess (2001) giải thích trong sách “Chọn Lựa Kỹ Thuật, Khoa Học và Y Học” của ông ta: “Trong cùng thời gian mà ngành sinh-y học (bio-medicine) chiếm ưu thếcan dự vào nền y tế toàn cầu, những kiến thức và y học địa phương cũng góp phần tương tự như những hình thức bổ sung và thay thế”. Quan điểm của Davis Hess về tính đa nguyên của y học được đưa ra ở đây để nêu lên điều phải làm thế nào mà trường hợp này có thể so sánh với những thực hành y học bổ sung-thay thế khác. Trong những năm gần đây, chuyên ngành sinh-y học đã chuyển hướng từ định chế hạn hẹp đển bao dungchấp nhận phương pháp chữa trị bổ sung-thay thế CAM (Complementary and Alternative Therapies). CAM đã thật sự hôi nhập vào ngành sinh-y học chính gốc. Vì càng ngày càng có nhiều người đòi hỏi phương pháp trị liệu này, nên tên gọi cũng được thay đổi từ y học bổ sung-thay thế thành y học hợp nhất. Những tên của các chương trình y học bổ sung-thay thế cũng đang được hoán chuyển, gây nên những thay đổi chính yếu trong cơ sở hạ tầng của các tổ chức y tế. Một sự kiện rất có ý nghĩa là sự trỗi dậy của chánh niệm trong y học đã trùng hợp với sự chuyển hướng của y học hợp nhất. Việc sử dụng nghiên cứu khoa học như một cơ chế chọn lọc phẩm chất trong những chương trình y học hợp nhất có nghĩa là những cộng đồng nghiên cứu đã kiểm soát được phần lớn sự hội nhập của phương pháp trị liệu bổ sung-thay thế.
Tuy nhiên những nhà nghiên cứu không phải là những tác nhân duy nhấtliên hệ đến những thay đổi này. CAM đòi hỏi nhà khoa học phải hợp tác với bác sĩ, y tá, nhà điều hành y tế, và nhất là những ai có vốn kiến thức và chuyên môn trong lĩnh vực này. Nhân viên CAM có lẽ còn phân vân khi phải hội nhập vào hệ thống y học chính thống. Có thể họ muốn trao truyền phép trị liệulợi ích tiềm tàng, nhưng không muốn phải trả giá cho sự thay đổi hay làm méo mó nghề nghiệp của mình. Thêm vào đó, họ không mấy thích thú việc các bác sĩ và khoa học gia đoạt mất uy tín, sự công nhận của quần chúng, và tiền thù lao nghề nghiệp của họ đang có và đã đeo đuổi trong bao nhiêu năm qua.

Một nhận xét rất rõ là phái nữ tham gia các khoá “giảm thiểu bức xúc dựa vào chánh niệm” MBSR nhiều hơn nam giới, có lẽ vì chương trình này thiên về xã hôi tính nên dễ được phái nữ chấp nhận hơn . Lại nữa chứng bức xúc của phụ nữ Mỹ đạt được kết quả  tốt hơn với loại kỹ thuật này .Trừ bệnh ung thư , những bệnh trạng khác được nghiên cứu qua chương trình MBSR thường gặp ở phụ nữ là trầm cảm, máu chạy rân trong người (hot flashes), tê khớp và đau nhức cơ thịt.

---o0o---

Khoa Học

Như vậy Phật giáo làm thay đổi khoa học hay ngược lại?  Sự đàm thoại giữa các khoa học gia và tu sĩ Phật giáo đã biến đổi những đề tài nghiên cứu khoa học, đào sâu vào lĩnh vực nghiên cứu về xúc cảm và tri giác con người. Họ cũng thay đổi phương pháp nghiên cứu khoa học, ví dụ xem người đầu tiên tường trình về kinh nghiệm bản thân như là một dụng cụ chứng nghiệm cho nghiên cứu tri giác. Thiền tự nó được định nghĩa như là một hành vi chứng nghiệmhành vi quan sát tâm – và do đó được xem là một khoa học. Sau hết các nhà khoa học đã làm thay đổi vai trò của chủ thể nghiên cứu, dành cho các tu sĩtự do ý chíuy tín khi tham gia nghiên cứu. Dĩ nhiên, sự chuyển tiếp này chưa hoàn chỉnh và còn là một đề tài hấp dẫn để bàn bạc đối với những nghiên cứu khoa học về thiền. Đây là một trường hợp rõ ràng trong việc bành trướng biên giới, bởi vì các khoa học gia mở rộng địa bàn hoạt động vào lĩnh vực đạo đức mà trước đó chỉ do tôn giáo nắm giữ. Nghiên cứu thiền không những chỉ làm thay đổi chủ đề khoa học mà cũng chuyển hướng vai trò của những nhà nghiên cứu khoa học. Tất cả những khoa học gia mà tác giả có dịp phỏng vấn đã tham gia hành thiền, cùng lúc thực hiện công tác nghiên cứu thiền. Điều này gây nên một vấn đề biên giới tiềm tàng. Để giải quyết vấn đề này, chúng ta có thể xem chính các khoa học gia như những mục tiêu biên giới; danh từ này được hiểu là biên gìới chung giữa 2 thế giớiđồng thời nuôi sống cả hai. Khoa học gia vừa là nhà nghiên cứu vừa là thiền giả. Điều này giúp họ có được một sự thông cảm và từ vựng chung trong các đề tài nghiên cứu. Như vậy người trong cùng một nhóm có thể diễn tả kinh nghiệm hành thiền của mình bằng những cách thức khác nhau. Điều này nêu ra 2 sự kiện: vấn đề và cơ hội cho các nhà nghiên cứu. Những nghiên cứu gia hành thiền ở một vị thế khả quan hơn khi va chạm những thách thức phải đặt những câu hỏi khoa học thích nghi. Họ có thể lãnh hội tốt hơn , cân bằng những giới hạn của nghiên cứu khoa học và  những suy tính đối với những phức tạp của thiền.

---o0o---

Tôn Giáo

Một số nhà xã hội học biện luận rằng bộ óc tưởng tượng ra sự nghiên cứu, mặc dù có  tính thuyết phục gượng ép; nhưng quan điểm này không thể giải thích gì nhiều về những quyết định đạo đức nào là đúng, lòng tốt sẽ ảnh hưởng ra sao trong việc giao tiếp, ý nghĩa của tình yêu, hay tại sao người ta cầu nguyện? Và bao quát hơn, những xác nhận sinh học về căn bản tiến hóa của đạo đức đã bị phản đối hay lơ là trong khoa học xã hội. Xã hội học đã bị chỉ trích vì cho rằng bản tính con người được hình thành trước tiên bởi những yếu tố xã hôi và văn hóa mà không chú ý đầy đủ đến các yếu tố di truyền và sự tiến hóa giúp tạo nên những thái độ đặc thù. Những xác nhận rằng khoa thần kinh học về nhận thức (cognitive neuroscience) - liên quan đến những ảnh hưởng cảm xúc lâu dài của thiền – đã đón nhận được sự chú ý và tính công khai của quần chúng cũng như xứng đáng được đánh gía từ triển vọng xã hội học. Tác gỉa quan tâm về 2 biến chuyển trong nghị trình tôn giáo/khoa học liên hệ về thiền và tâm: (1) hầu hết những nghiên cứu khoa học về bộ óc tập trung vào những cảm xúc, bao gồm hạnh phúctình thương. Đặc biệt người ta đang hướng về các nhà khoa học, thay vì tôn giáo, để tìm câu trả lời cho ý nghĩa gì dẫn đến cuộc sống yêu thương, hay những bí mật của hạnh phúc. (2) Nội dung của đạo đức đang chuyển từ phép xử thế phương tây, đặt nền tảng sơ khởi trên sự tương trợ và dịch vụ xã hội, để trở thành thứ đạo đức chú trọng nhiều hơn về tình thương cho chính mình.

Đạo đức trong đạo Do Thái và đạo Chúa đề nghị rằng để làm một người đạo đức, chúng ta phải bắt đầu suy nghĩ về người khác và cư xử với họ như chính mình muốn được cư xử. Tuy nhiên căn bản đạo lý nhà Phật nhấn mạnh về thứ tình thương không đối tượng (objectless) hoặc bắt đầu với tình thương cho chính mình trước hết. Trong truyền thống Thiên chúa, công việc phụng sự xã hộiưu tiên. Đối với Phật giáo, bản thânưu tiên, nhưng tình thương của mình được chấp nối một cách thân mật với người khác. Trong tạp chí Phật giáo phương tây Tricycle, Robert Bellah viết về những nguy hiểm tiềm tàng của sự chuyển tiếp này. Ông ta cho rằng hết sức quan trọng để tìm hiểu phạm vi văn hóa đặc thù, trong đó truyền thống tôn giáo được thực thi hầu giúp lãnh hội tốt hơn những lý lẽ nằm sau một số truyền thốnglễ nghi. Ông ta báo động về sự nguy hiểm trong việc hậu thuẩn một cách vô ý thức cho tính chủ nghĩa cá nhân trong đạo Phật, đặc biệt là đối với Thiền tông. Bellah nghĩ rằng Thiền tông (Zen Buddhism) được phát triển vào lúc mà ở nước Nhật có sự gắn bó chặt chẽ giữa cộng đồng với cá nhân, làm cho quyền tự do cá nhân bị gìới hạn và khiến người ta phải gia nhập vào các chùa chiền như là một cách chạy trốn cơ chế xã hội thời đó. 

Ngược lại tại nước Mỹ, chủ nghĩa cá nhân rất mạnh và sự gắn bó với cộng đồng thì yếu, cho nên việc hành thiền nhắm vào cá nhânvấn đề tiềm tàng. Vậy câu hỏi đặt ra ở đây: những gì là hậu qủa có thể lường trước đối với sự trỗi dậy của chánh niệm trong cá nhân người Mỹ? Có phải tình thương trong tôn giáo là điều nghịch lý với chủ nghĩa cá nhân? Robert Wuthnow trong cuốn sách nói về những hành vi của tình thương (Acts of Compassion -1991), đã khảo sát bản chất của tình thương qua tri thức của người Mỹ đương thời. Wuthnow đề nghị rằng mặc dù tinh thần chăm sóc cho người khác có tính cách di truyền trong chủ nghĩa cá nhân của người Mỹ, chủ nghĩa vị thachủ nghĩa cá nhân không xung khắc với nhau. Gần đây hơn, Paul Lichterman bắt đầu gỡ rối ý niệm phức tạp của chủ nghĩa cá nhân. Ông ta tách rời chủ nghĩa cá nhân phương tiện với chủ nghĩa cá tính, qua đó ông ta tán thành phần bản ngã - thường hay đối nghịch lại với tập thể chung quanh, nhưng dù sao chăng nữa cá nhân cũng phải tham gia vào việc chung. Ở đây tác gỉa muốn dựa vào ý niệm chủ nghĩa cá nhân của Lichterman để nêu lên một phạm trù thứ ba, qua đó cộng đồng và tập thể được hậu thuẩn bởi tình thương dành cho bản ngã. Đây là mức độ của chủ nghĩa cá nhân mà người ta cần chú trọng trước nhất vào chính bản thân mình, với mục đích sau đó là để chú trọng tốt hơn cho người khác. Phạm trù này được truyền thừa trong giáo lý nhà Phật nhưng cũng có thể hoặc không thể xãy ra khi được thực hành trong xã hội Mỹ. Một trong những lĩnh vực qua đó chúng ta có thể xem xét sự thực hànhtruyền đạt ý niệm Phật tính của tình thương trong dân gian là xuyên qua các khóa học của chương trình MBSR như đã nêu trên. Vai trò của tình thương hay những căn bản luân lý trong chánh niệm thế tục vẫn đang còn được điều nghiên một cách tích cực. Càng ngày càng có nhiều tranh luận về việc hoặc cần phải có - hoặc đã sẵn có - một căn bản luân lý đối với chánh niệm. Những bàn thảo về căn bản luân lý trong chánh niệm chỉ mới được phát triển gần đây trong chương trình MBSR. Trong kỳ hội thảo về Tâm và Đời Sống năm 2005, Kabat-Zinn đã trình bày một đề tài trong đó có liệt kê những căn bản luân lýthái độ của chương trình MBSR: không phán xét, tính kiên nhẫn, tâm ban đầu của hành giả, lòng tin, sự cố gắng, chấp nhận, buông xả, không làm hại, thân ái, tình thương, lòng biết ơn, tính hiếu kỳ và mong cầu học hỏi. Tác giả sẽ xem xét những ý niệm này cũng như những phương thức được hội nhập qua phương pháp quán từ bi (loving-kindness medittion) đã thường xuyên, nhưng không chính thức, được xen vào trong các khóa học của MBSR. Như một trong những giảng viên MBSR từng nói rằng “có một căn bản về thái độluân lý rất mạnh đối với MBSR trong việc giảng dạy. Chúng tôi không cho ra nhiều bài học về luân lýđạo đức nhưng cố gắng cài vào và tạo nên một nơi tích trữ trong lớp học, tiếp nhận cái hay của người khác, tính liêm khiết của họ, lòng tốttình thương, ý thức biết ơn đối với người đương thời, hoặc ngay cả đối với những khó khăn của một người, bồi dưỡng sự quan tâm và tính hiếu kỳ, cũng như một định hướng không thù địch”. 

Sự trích dẫn này chỉ rõ có vài đối kháng trên huấn luyện luân lý, tuy vậy đây là điều quan trọng. Tác giả có dịp quan sát nhiều sự bàn luận căng thẳng về trình độ huấn luyện thích ứng mà một giảng viên phải trải qua để được xem là đủ tư cách cho chương trình MBSR. Quan điểm vượt trội là giảng viên phải có kinh nghiệm hành thiền vững chắc, và hầu hết những giảng viên với kinh nghiệm như vậy đều được thụ huấn trong truyền thống tôn giáo dựa trên căn bản luân lýđạo đức rất nghiêm mật.

---o0o---

Nguyên Tắc Nhiên Cứu

Nghiên cứu này của tác giả căn cứ trước tiên trên sự phân tích tài liệu, quan sát đương sự tại chỗ và phỏng vấn bán phần các giảng viên chương trình MBSR, giảng viên thiền quán Vipassana, khoa học gia thần kinh và nhân viên Viện Nghiên Cứu Tâm và Đời Sống MLI. Tác giả khởi sự nghiên cứu hiện trường đầu tiên vào mùa hè năm 2005 và đã phỏng vấn: (1) nhân viên và hội viên chuyên ngành của Hội Thiền Định IMS (Insight Meditation Society) tại Massachusetts, một trung tâm thiền quán Vipassana, (2) giảng viên chương trình MBSR tại nơi xuất xứTrung Tâm Chánh Niệmtrường y khoa thuộc đại học Massachsetts (UMASS), (3) những giảng viên khác tại Massachusetts, (4) những nhà nghiên cứu thiền ở Viện Nghiên Cứu Mùa Hè về Tâm và Đời Sống MLSRI (Mind & Life Summer Research Institutes) tại Washington D.C. Tác giả cũng đã phụ trách nghiên cứu ở MLSRI vào những năm 2005 và 2006, dự hội thảo năm 2005 về “Khoa Học ở Ngã Tư Đường và Thần Kinh Học”, và hội thảo thuờng niên về MBSR tại đại học Massachusetts. Tác gỉa cũng trải qua kinh nghiệm lâu dài với những khóa học của chương trình MBSR và các chốn tùng lâm Vipassana. Căn cứ vào những kinh nghiệm này, tác giả phác họa ra những câu hỏi trong các cuộc phỏng vấn liên hệ đến đề tài nghiên cứu của mình.

---o0o---

Chương Trình MBSR Boston – Massachusetts

Tác gỉa trải nghiệm thời gian phỏng vấn với các hội viên và nhân viên chuyên ngành của Hội Thiền Định IMS (Insight Meditation Society) tại Massachusetts. Có 10 hội viên nòng cốt ở IMS và nhiều hội viên khác thường ghé qua để giảng dạy hay hành thiền. Trong thời gian lưu trú tại IMS, tác gỉa cũng dành thời gian quan sátphỏng vấn các giảng viên của chương trình MBSR tại vị trí đầu tiên là Trung Tâm Chánh Niệm (Center for Mindfulness) thuộc trường Y Khoa, đại học Massachusetts (khoảng chừng 35 km từ IMS). Thêm vào đó còn có 10 chương trình MBSR khác tại Massachusetts mà tác gỉa đã bố trí phỏng vấn với các giảng viên ở đây. Như vậy có tất cả 14 cuộc phỏng vấn đươc thực hiện

---o0o---

Viện Nghiên Cứu Mùa Hè về Tâm và Đời Sống MLSRI

Trong năm 2005 tác gỉa sắp đặt nghiên cứu sơ bộ về dân tộc học tại MLSRI (Mind and Life Summer Research Institute). Một tuần lễ hội nghị được tổ chức cho các học viên tiếp cận với những tu sĩ và khoa học gia quan tâm về thiền. Mục đích của hội nghị này nhằm đề xuất sự nghiên cứu hợp tác giữa các nhà thần kinh học, hành vi học, và những học gỉa khác. Tác gỉa được nhận tham gia vào chương trình này như một nghiên cứu sinh với số tham dự viên được giới hạn ở mức 90 người. Viện nghiên cứu này được thành lập đầu thập niên 1980 qua trao đổi giữa đức Dạt Lai Lạt Ma và những nhà khoa học phương tây. Hội nghị đầu tiên về Tâm và Đời Sống được tổ chức vào tháng 10, 1987 tại Dharamsala - Ấn Độ.

---o0o---

Hội Nghị “Khoa Học ở Ngã Tư Đường và Thần Kinh Học” - 2005

(“Science at the Crossroads” and Neuroscience Conference – 2005)

Tác gỉa là một dự thính viên tại Washington D.C. trong kỳ hội nghị này. Cuộc hội họp chuyên về điều tra nghiên cứu tâm, khoa học và những phương diện lâm sàng của thiền. Cuộc hội thảo này được tổ chức vào các ngày 8-10 tháng 11 năm 2005, là cuộc họp thứ 8 về loại đề tài này và cũng là lần sau cùng trong loạt đối thoại giữa đức Dạt Lai Lạt Ma, các khoa học gia và những tu sĩ Phật giáo về khoa học thực nghiệm phương tây và truyền thống tu đạo. Cuộc hội nghị lần này nhằm khảo sát tỉ mỉ về tầm quan trọng của thiền đối với tân y học và sinh-y học đã khơi dậy trong 30 năm qua và nghiên tầm những cơ hội lâm sàng nồi bật của thiền. Tác gỉa ghi chú những tác động qua lại giữa các khoa học gia và các vị tu sĩ và đã thực hiện 6 cuộc phỏng vấn. Thêm vào cuộc hội thảo về Tâm và Đời Sống, tác gỉa cũng tham dự buổi nói chuyện của đức Dạt La Lạt Ma tại Hội Thần Kinh Học ở Trung Tâm Hội Nghị Washington vào ngày Thứ bảy, 12 tháng 11. Không những buổi nói chuyện được tiếp nhận một cách nồng nhiệt mà cả hàng ngàn người phải sắp hàng lâu hơn cả tiếng đồng hồ để có dịp dự thính cũng như người ta đã phải tranh nhau đến trước thính đường để tìm chỗ ngồi gần ngài Lạt Ma.

---o0o---

Đại Học Massachusetts: Hội Thảo Hàng Năm về Giảm Thiểu Bức Xúc Dựa Vào Chánh Niệm MBSR (Mindfulness Based Stress Reduction) – 2006

Gần đây nhất, tác gỉa đã tham dự khóa hội thảo cuối tuần về MBSR thường niên tại Worcester, tiểu bang Massachusetts. Đây có lẽ là kinh nghiệm phỏng vấn thành công nhất từ trước đến giờ. Tác gỉa thực hiện 14 cuộc phỏng vấn trọng yếu với các nhà nghiên cứu thiền, liên quan đến thực hành chánh niệm cá nhân và chuyên môn của họ. Những câu hỏi khác cũng được đặt ra như lý do tại sao họ quyết định nghiên cứu chánh niệm và họ kỳ vọng gì về kết quả nghiên cứu của mình. Cuộc hội nghị được phân ra thành những buổi hội thảo và những diễn từ chủ chốt. Tác gỉa bỏ qua những buổi hội thảo để dành thời giờ cho các cuộc phỏng vấn, chú tâm tham dự các bài diễn từ chủ chốt, và sau đó dành một ngày tham gia vào cuộc hội thảo tổng kết sau khi hôi nghị kết thúc.

---o0o---

Tóm Lược

Tóm lại,với những quan tâm đối với nghiên cứu thiền, sự gặp gỡ giữa khoa học và tôn giáo xuyên qua những can dự của chánh niệm tiếp tục giữ một vị thế đàm phán sôi nổi.  Sự chèn ép giữa Phật giáo và khoa học là một thách thức chủ thuyết tôn giáo và hội nhập nhau với rất ít sự chống đối. Có một một nhóm phụ huynh theo đạo Chúa thuộc tiểu bang North Carolina gần đây đã phản đối những khóa học giảm thiểu bức xúc MBSR ở trường học của con em họ, bởi vì họ cho rằng thiền là tân chủ nghĩa kỳ thị tuổi tác (new ageism) và chủ nghĩa này là một loại tôn giáo. Họ phản đối lối dạy này vì cho rằng nó phát xuất từ Phật giáo và Ấn giáo (Hinduism) mà họ xem như một vi phạm đối với Bản Tu Chính Thứ Nhất.

Ngược lại, đã có sẵn một sự chấp nhận rộng rãi trong công chúng. Đức Đạt Lai Lạt Ma bắt đầu loạt giảng thuyết “Đối Thoại Giữa Thần Kinh Học và Xã Hội” vào ngày 12 tháng 11 năm nay trong những buổi họp mặt của Hôi Thần Kinh Học tại Washington D.C. với sự tham dự của hơn 7.500 khoa học gia. Một vài nhà thần kinh học phản đối sự mập mờ của khoa học và tôn giáo, nhưng phần lớn đã chấp nhận một cách tích cực.

Mặc dù những nghiên cứu của tác giả còn ở giai đoạn sơ khởi, những dữ kiện đạt được cho thấy còn nhiều việc phải truy cứu đối với sự khởi dậy của chánh niệm và những can dự căn cứ vào chánh niệm ở Mỹ. Quan điểm chính trị lộ ra từ ranh gìới của khoa học và tôn giáo sẽ trở thành những đề tài nghiên cứu hết sức phong phú trong tương lai. Những cuộc phỏng vấn của tác giả cho thấy rằng những đối thoại giữa giới phật tử và các nhà nghiên cứu về thân-tâm đã được thận trọng đàm phán trong 30 năm qua và bây giờ là lúc trình bày trước công chúng. Tác gỉa sẽ tiếp tục truy cứu động hướng hấp dẫn này. Tâm lý học và triết học Phật giáo, phương pháp thực hành, và những khám phá khoa học là những đề tài rất thú vị đang gây cảm hứng cho nhiều người khắp nước Mỹ. Tác gỉa sẽ khảo sát động hướng này đóng góp được gì cho những tranh luận hiện tại về khoa học, tôn giáo, tình thương, và chủ nghĩa cá nhân.

Đề tài nghiên cứu này của Kaelyn Stiles được thuyết trình trong kỳ họp thường niên của American Socilogical Association tại New York ngày 11 tháng 8- 2007 
(Bản dịch của  Minh Phúc)  E-mail:  nguyenmphuc@yahoo.com

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7355)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4521)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4574)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7340)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2965)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12220)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3996)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3807)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4224)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3686)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5064)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6688)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4011)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4126)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5339)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3789)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4531)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3552)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3934)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4391)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5396)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3844)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3941)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3876)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4828)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4527)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4261)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3830)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4638)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4210)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6113)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4611)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4952)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4194)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4826)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5671)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3653)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4042)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4591)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5288)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3149)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4764)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4559)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4293)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4743)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4491)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4607)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7219)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5213)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5009)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4599)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5618)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5271)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4163)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6021)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4721)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4880)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5485)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5622)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5824)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant