Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bồ Tát Biết Lắng Nghe

02 Tháng Mười 201410:08(Xem: 9549)
Bồ Tát Biết Lắng Nghe


BỒ TÁT BIẾT LẮNG NGHE


Thiện Ý 

 

bo-tat-quan-the-am          Bồ Tát Quán Thế Âm là một vị Bồ tát nổi bật và được biết đến nhiều nhất trong tất cả các truyền thống Đại thừa, và đôi khi cả Tiểu thừa, như trường hợp ở xứ Tích lan và Thái lan cũng có thờ Ngài. Các học giả cho rằng vào đời nhà Tống (960-1126) Ngài được tạo hình là thân đàn ông. Tại Ấn độ, Ngài thường được tô vẽ như là một hoàng tử trẻ đẹp, trên đầu đội mảo có hình Phật ở giữa. Nhưng từ thế kỷ thứ 12 về sau, Các hình tượng của Ngài khắp Á Châu được biểu tượng bằng hình dạng của một vị Thánh Nữ.  Không ai biết chính xác khi nào có sự thay đổi này.

          Tuy nhiên, dù là hình tượng thân nam, hay thân nữ ai trong chúng ta cũng đều xem Ngài là một bậc ‘Đại Cứu Khổ.’ Ngài như là mẹ hiền luôn ra tay cứu vớt tất cả những ai đang cầu đến, từ những tên tướng cướp giết người không gớm tay đến các bậc tu hành suốt cả cuộc đời không làm hại ai cả. Ngài bình dịgần gủi, hiện thân khắp các giai tầng trong xã hội và khắp nơi để cứu khổ mọi loài.  Theo kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn, Ngài hiện thân ra làm 33 tướng trạng khác nhau từ thân Phật cho đến thân các loài A-tu-la, ngạ quỷ… Có thể chính vì sự từ bi không phân biệt của Ngài:


Tâm Bi như sấm động

Lòng Từ như mây hiền

(Sư Ông Làng Mai dịch)

 nên sự kính ngưỡng và tôn thờ Ngài không phải chỉ có các Phật tử, mà luôn cả những người không phải đạo Phật.

          Theo kinh lăng Nghiêm, Ngài tu hành chứng đắc được ‘nhĩ căn viên thông’ nên Ngài có thể lắng nghe và thấu cảm tất cả những tiếng ta thán, khổ đau khắp cả mọi nơi, mọi chốn. Tôi nhớ có xem qua một bộ phim Mỹ nói về một anh chàng nọ được đức Chúa Trời giao cho đóng vai của Chúa.  Nhưng mỗi ngày anh ta cứ phải nghe hàng triệu triệu lời cầu xin nên không chịu nổi.  Cuối cùng, đành năn nỉ đức Chúa Trời để bàn giao lại.  Cho nên, thực sự mà nói biết cách lắng nghe là cả một nghệ thuật và, đặc biệt, phải phát tâm từ bi rộng lớn mới có thể lắng nghe có hiệu quả.  Nhờ phát ra 12 nguyện lớn mà đức Quán Thế Âm mới chứng đắc được nhĩ căn viên thông. Chính 12 nguyện lớn này cho chúng ta thấy hạnh nguyện cao cả của Ngài. Nếu không có tấm lòng đại từ bi thì khó mà có thể biết cách lắng nghe để hiểu, để thương.

          Muốn có tấm lòng từ bi thì cũng như trồng hoa, trồng trái chúng ta phải biết cách tưới tẩm những hạt mầm thương yêu trong tâm.  Đây là một quá trình tu luyện, không phải tự dưng mà có.  Có người miệng nói từ bi nhưng không làm được vì hoàn toàn không biết tưới tẩm hạt giống từ bi.  Tưới tẩm hạt giống từ bi có nghĩa là chúng ta phải biết học pháp bố thí. Như chúng ta biết, bố thí không nhất thiết phải là tài vật.  Khi chúng ta nói những lời dễ thương, thông cảm thì đó chính là một hành động bố thí, hay mình có thể khuyên người vượt qua những khó khăn, sợ hãi cũng là một hình thức bố thíNuôi dưỡng tâm từ bi bằng cách mở rộng lòng mình, học cách không phán xét, không phê bình, chỉ trích mà chỉ biết lắng nghe để hiểu, để thương.  Đương nhiên, có người nói rằng từ bi quá mà không có trí tuệ thì sẽ bị lợi dụng. Cho nên mình phải biết quân bình cả hai.  Nhưng đa số những người bị lợi dụngtừ bi là do mình còn đắm say danh lợi.  Hễ nghe khen mình dễ thương, từ bi thì có gì cho nấy, thậm chí còn đi vay mượn để cho!  Cho nên, từ bi thực sự là không tham đắm những lời khen chê, thị phi.  Mình chỉ có thấy người đó đang đau khổ là mình ra tay giúp đỡ.  Giống như đức Quán Thế Âm, không phân biệt người cầu xin là ai và trong quá khứ họ đã làm những gì. Giờ đây họ đang đau khổ nên cầu xin thì Ngài đều ra tay cứu độ.      

          Sở dĩ đức Quán Thế Âmtâm từ bi rộng lớn vì Ngài biết lắng nghe những gì cần nghe và loại bỏ những gì không cần thiết phải nghe. Muốn học cách lắng nghe để thương để hiểu, chúng ta phải biết uyển chuyển và thiện xảo trong cách lắng nghe.  Chúng ta không chỉ lắng nghe những gì người kia đang nói mà còn tìm hiểu câu chuyện đằng sau những lời nói đó.  Nếu khi chúng ta lắng nghe với tâm từ bi mình sẽ không bị chao đảo bởi những lời nói tiêu cực của người khác; ngược lại, mình quan tâm nhiều đến sự khổ đau và phiền não mà họ đang gánh chịu.  Một ngày nọ, một học sinh 12 tuổi, vốn rất là hiền lành, bổng nổi cơn thịnh nộ và phun nước miếng vào mặt vị Thầy dạy toán vì ông mắng em quá dốt. Em này bị gửi lên văn phòng để gặp vị hiệu trưởng và có thể sẽ bị đuổi học vì bất kính quá đáng đối với thầy cô.  Nhưng khi tìm rõ nguyên do thì nhà trường biết rằng ngày hôm trước ba em nhậu say về chửi mắng em và đánh đập mẹ em thậm tệ đến nỗi phải vào nhà thương.  Riêng ba em thì bị bắt vào tù.  Gia đình em đang đầm ấm bỗng dưng tan nát. Rõ ràng, em học sinh 12 tuổi đã không biết cách nào để giải tỏa nổi đau thương này nên đã có hành động nông nỗi như vậy!

          Ngoài việc biết lắng nghe những âm thanh kêu cầu của mọi loài, Ngài còn biết lắng nghe những nỗi sợ hãi, âu lo nên Ngài còn có danh hiệuThí Vô Úy Giả.  Nghĩa là người biết xoa dịu những nổi hoảng sợ, âu lo. Theo môn tâm lý học, rối loạn âu lo, hoảng sợ là những tâm lý vi tế, rất khó mà nhận biết vì người đang trải nghiệm những tâm lý này hay có khuynh hướng che dấulảng tránh. Theo Giáo sư Johannes Tauscher bệnh viện tâm thần trường đại học Viên (Áo), khi bị mắc các chứng rối loạn lo âu, thường người bệnh trì hoãn quá lâu.  Nỗi sợ có thể núp dưới vô vàn các dạng thức khác nhau: Chứng sợ nhện (arachnophobia), Sợ xã hội (social phobia), Chứng sợ đi máy bay (aerophobia), Chứng sợ bị nhốt kín (claustrophobia), Chứng sợ độ cao (acrophobia), Chứng sợ bị ung thư (carcinophobia), Chứng sợ chết hoặc sợ xác các vật đã chết (necrophobia), v.v… Với tâm từ bi bao la, khi niệm danh hiệu đức Quán thế Âm người bệnh có cảm giác như một đứa bé đang sợ hãi được nép vào lòng mẹ khiến cho mình cảm giác được an toàn nên sự rối loạn âu lo sẽ dần dần biến mất. 

Từ nhãn thị chúng sanh, Phước tụ hải vô lượng.” Nghĩa là dùng mắt thương nhìn chúng sinh thì phước đức sẽ như biển rộng vô cùng. Với tâm từ bi vô lượng 33 ứng thân của Ngài cũng chỉ là con số tượng trưng. Thực sự mà nói tôi luôn tin rằng Bồ táthiện thân của chúng ta. Như trong câu kệ chúng ta thường tụng hằng ngày: ‘Năng lễ, sở lễ tánh không tịch…’ câu này có nghĩa là: năng lễ là người bái lạy; sở lễ là người được bái lạy tức là Phật hay Bồ tát; vốn đều là bản tính thanh tịnh. Nếu trong một ngày, chúng ta biết đem tâm từ bi cứu giúp người khác.  Chúng ta đang đóng vai hóa thân của đức Bồ tát Quán Thế Âm vì tâm chúng sinh và tâm Bồ tát đồng nhau, chẳng khác!  Tuy nhiên, vì còn vướng mắc nên tâm chúng sinh chưa được thực sự giải thoát.  Như vậy có nghĩa là hàng triệu triệu người nếu biết học pháp ‘Lắng Nghe’ của Ngài thì có thể đóng vai ứng thân của Ngài, ban rải lòng từ đến tất cả mọi người, mọi loài.   

San Jose, tháng 9, 2014

Thiện Ý

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1620)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1612)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1008)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1481)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1464)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1644)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1910)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1492)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1328)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1346)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1517)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1117)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1241)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1245)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1674)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1623)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2916)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1799)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1353)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1208)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1264)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1381)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1299)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1898)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1650)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1864)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1797)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2371)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1774)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2102)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2170)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2283)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1830)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1952)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2002)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1916)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2566)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1918)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1852)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1925)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1868)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2131)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2274)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1944)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2050)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1836)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1883)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2391)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2302)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3918)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2452)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3153)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2443)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2031)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1783)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3286)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2326)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3000)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2679)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant