Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Duyên Khởi Và Tính Nhất Quán Trong Giáo Lý Nhà Phật

04 Tháng Mười Hai 201411:07(Xem: 7886)
Lý Duyên Khởi Và Tính Nhất Quán Trong Giáo Lý Nhà Phật


DUYÊN KHỞI VÀ TÍNH NHẤT QUÁN TRONG GIÁO LÝ NHÀ PHẬT




TÁNH KHÔNG - DUYÊN KHỞI  TRONG GIÁO LÝ ĐẠI THỪA

Có người tìm đến Phật pháp không chỉ mong cầu lợi ích cho chính mình, mà còn mong cầu mang lại lợi ích cho những người khác, không chỉ mong cầu giác ngộ giải thoát cho chính mình mà còn mong cầu mang lại giác ngộ giải thoát cho tất cả chúng sinh. Vì những người này, đức Phật thuyết giảng giáo lý Đại thừa.      

Đến đây, chúng ta cần làm quen các khái niệm sau:

Pháp, được dùng để chỉ cho mọi sự, mọi vật. Thánh, phàm, chân, vọng, tâm (tư tưởng, tình cảm), vật (từ các vật cực lớn như thiên hà vũ trụ, các vật trung bình như sông, núi… đến các vật cực bé như nguyên tử, hạt hạ nguyên tử…) v.v… mỗi mỗi đều là pháp. 

Pháp tánh, là tánh của pháp, chỉ cho yếu tính, là phần bất biến nơi pháp. 

Pháp tướng, là tướng của pháp, chỉ cho tất cả những gì mà pháp biểu hiện ra để chúng ta có được sự thấy, nghe, ngửi v.v… hiểu biết về pháp. 

Điểm khác nhau giữa giáo lý Tiểu thừagiáo lý Đại thừa nằm ở chỗ trong giáo lý Tiểu thừa, chỉ nói đến pháp tướng, cùng với thực lý Nhân duyên chi phối các pháp tướng, chưa nói gì đến pháp tánh. Có chăng cũng chỉ nói rằng, pháp khôngtự tánh, không có tự thể. Giáo lý Đại thừa nói đầy đủ về tánh tướng của pháp. Giáo lý Đại thừa chỉ ra rằng, thực tánh của pháp là không tánh (gọi là tánh  không), thực tướng của pháp là không tướng. Muôn sự, muôn vật đang bày hiện trước mắt chúng ta với vô vàn tướng trạng sai khác là tướng Duyên khởi của pháp. Do thực tướngkhông tướng, nên tướng Duyên khởitướng không tướng. Tướng không tướng là tướng phù hợp tánh không của pháp. Chúng ta sẽ thấy rõ điều này qua phần giáo lý Tánh không - Duyên khởi

1. Tánh không : Trong Trung luận, Bồ-tát Long Thọ đã chứng minh rằng, thực tánh của tất cả pháp vốn không sinh không diệt, không thường không đoạn, không đến không đi, không một không khác (Bát bất).   

Nói một cách ngắn gọn, thực tánh không phải có cũng không phải không. 

Nói một cách đầy đủ, thực tánh không thuộc phạm trù các nhị biên phân biệt[1].        

Lìa khỏi phạm trù các nhị biên phân biệt, ngôn từ mất hết tác dụng. Nghĩa là, ngôn từ không thể diễn tả được thực tánh, nhưng tánh ấy lại luôn đầy đủ nơi tâm mỗi chúng sinh. Vì thế, Phật Tổ dùng ngôn từ làm phương tiện giúp chúng sinh tự ngộ, là tự nhận ra thực tánh của mình, cũng là thực tánh của tất cả pháp. 

Do sự hạn chế của ngôn từ, nên qua ngôn từ, chúng ta chỉ có được những diễn giải phù hợp với thực tánh, không phải là chính thực tánh. Ở đây, chỉ những mệnh đề phủ định là thích hợp[2]. Điều này lý giải tại sao trong kinh luận nhà Phật sử dụng nhiều mệnh đề phủ định. 

Thực tánh thì không sinh không diệt v.v… (bất nhị), không là một hình tướng, không là một tính chất, không là một tính cách, không là một tổ hợp của các tính chất, tính cách v.v… Thực tánh thì không tánh. Tánh không tánh, gọi tắt là tánh không. Tánh không là thực tánh qua ngôn từ. Kinh Viên giác nói “Tánh viên giác, phi tánh tánh hữu”. Nghĩa là, tánh Viên giác không là có, không là không, không là hình tướng, không là tính chất v.v… Không là một cái gì để chúng ta có thể cảm nhận bằng các giác quan hay nghĩ tưởng ra được, nên nói là “phi tánh”. Dù vậy, cái “không là gì cả” đó lại là nền tảng để những cặp nhị biên như có-không, tâm-vật, tánh-tướng… y vào đó mà hiện khởi. Vì chẳng thể không có tánh Viên giác nên nói là “tánh hữu”. 

2. Duyên khởi   

Do pháp tánh là không, nên pháp tướng không tướng. Vì pháp không tự tướng nên muốn khởi tướng, pháp phải nương vào pháp khác, lấy pháp khác làm duyên (điều kiện) để khởi lên tướng của chính mình. Vì nương vào duyên để khởi tướng nên gọi là Duyên khởi

Thí dụ: Khi ngón tay áp út đứng một mình, chúng ta không thể nói nó là ngắn hay là dài (không tướng ngắn dài). Khi đứng cạnh ngón út, ta thấy nó dài. Khi đứng cạnh ngón giữa, ta thấy nó ngắn. Các tướng ngắn dài của ngón áp út xuất hiện khi có pháp khác làm duyên đối chứng. Khi duyên thay đổi, như từ ngón út sang ngón giữa, tướng ngón áp út sẽ thay đổi từ dài sang ngắn. Không riêng gì với ngắn dài, tất cả các tính chất khác cũng đều như thế. 

Pháp dù nương vào duyên để khởi tướng nhưng thực tướng của nó vẫn là tánh không, nên pháp tướng phải vận hành theo luật vô thường

Luật vô thường: Do pháp tánh không, nên pháp tướng phải luôn biến đổi không dừng nghỉ. Vì nếu tại một thời điểm nào đó, pháp có một tướng xác định và nắm bắt được, lúc đó pháp tướng chẳng không, không tương hợp với tánh không của pháp. Đó là lý do lý giải tại sao muôn sự muôn vật hiện nay luôn biến đổi không dừng nghỉ. Do pháp tướng luôn biến đổi, không thường trụ, nên nói “vô thường”. 

Để biến đổi được, tướng mới phải xuất hiện, tướng cũ phải mất đi. Sự mất đi của tướng cũ, gọi là diệt. Sự xuất hiện của tướng mới, gọi là sinh. Do pháp tướng sinh diệt, sinh diệt không dừng nghỉ, nên nói “vô thường”. 

Như huyễn: Hiện tượng pháp tướng biến đổi cực kỳ mau chóng, được kinh gọi là như huyễnLăng-già nói: “Các pháp chẳng thật, chóng diệt như điện, ấy là như huyễn”. 

Y tha khởi: Do duyên là pháp khác, nên pháp Duyên khởi còn được gọi là Y tha khởi. Y tha khởi, là y vào pháp  khác mà khởi. Tướng của pháp Y tha khởi thì như huyễn

Tướng vô tướng: Nhờ duyên mà pháp hiện tướng, tướng ấy lại biến đổi cực kỳ nhanh chóng, không thể xác định, không thể nằm bắt, nên tướng mà vô tướng. Tướng vô tướng là tướng phù hợp với tánh không của pháp. 

Pháp Duyên khởi vì thế mà không phải là có (vì không có tướng xác định), cũng không phải là không (vì pháp vẫn có tác dụng, dù chỉ là tác dụng như huyễn, tức thời). 

Duyên khởi các cặp tương đãi, đối đãi:  Do pháp không thể tự hiện khởi, nên muốn tìm hiểu một pháp chúng ta phải khảo sát cùng lúc hai pháp, là pháp và pháp làm duyên. Cặp pháp và pháp làm duyên này được gọi là cặp tương đãi. Khi hai pháp trong cặp tương đãi ấy là hai đầu của một cặp nhị biên phân biệt, thì nó có tên là cặp đối đãi. Gọi là tương đãi, vì hai pháp này phải đợi nhau, hỗ tương cho nhau mới xuất hiện được. 

Tính chất của cặp tương đãiđối đãi

1/ Hai pháp trong cặp tương đãi thì không phải một cũng không phải khác. Nếu là một, thì không có pháp làm duyên, vì duyên là pháp khác. Không phải khác, vì không thể tách lìa hai pháp này ra khỏi nhau. Nếu tách lìa được thì không cần duyên, pháp vẫn tự hiện hữu được. 

2/ Hai pháp trong cặp tương đãi thì không pháp nào là có hay là không. Nếu có, thì pháp đã tự hiện hữu, không cần duyên. Nếu không, thì pháp kia làm duyên cho gì?     

Có nhiều cặp tương đãi như có-không, tâm-vật, một-tất cả v.v… Ở đây chúng ta chỉ khai triển cặp tương đãi “một - tất cả” qua phần Pháp giới duyên khởi nói sau. 

Một và tất cả, là hai pháp của một cặp tương đãi. Chúng không tách lìa nhau, làm duyên cho nhau để cùng hiện khởi. 

Pháp giới Duyên khởi: Khi một khởi thì tất cả pháp làm duyên cho nhau cùng khởi, tạo thành cõi pháp trùng trùng vô tận (trùng trùng duyên khởi), trong đó một làm duyên cho tất cả (một là điều kiện để cho tất cả pháp hiện khởi), tất cả làm duyên cho một (tất cả pháp còn lại là điều kiện để cho pháp một hiện khởi)[3]. 

Trong pháp giới Duyên khởi, pháp xuất hiện trong sự tương duyên với các pháp khác. Với luật vô thường, pháp trong pháp giới duyên khởi là một dòng chuyển biến trong sự tương quan tương tác với tất cả pháp còn lại trong pháp giới

Hiện nay, nhận thức của chúng ta khá thô thiển, nên chúng ta không thấy được tính như huyễn cũng như tính tương duyên của pháp, nhưng chúng ta có thể tạm nhận ra hai điều trên bằng lý. 

1/ Tính như huyễn: Mọi sự trên đời đang chuyển biến. Sự chuyển biến đó phải mất một thời gian chúng ta mới nhận ra được. Thực ra, sự chuyển biến đó đang diễn ra trên từng sát-na. Nếu tâm thức chúng ta tinh tế hơn, phân biệt được sự thay đổi trong từng sát-na của sự vật, ta sẽ thấy pháp như huyễn. Đây là cái thấy của hàng Bồ-tát. 

2/ Tính tương duyên: Mọi sự trên đời đều nương vào duyên mà hiện khởi. Nhưng ta thường quên mất các duyên mà thấy pháp xuất hiện như có tự tánh riêng. 

Thí dụ

. Với một cục sắt, ta thấy nó có một thể tích và một khối lượng riêng biệt. Thực ra đó chỉ là cái thấy trong điều kiện bình thường hiện nay. Nếu quan sát cục sắt đó trong điều kiệndi chuyển với vận tốt lớn, ta sẽ thấy thể tích của nó giảm đi và khối lượng của nó tăng lên (Thuyết Tương đối). Điều đó cho thấy khối lượng cũng như thể tích của cục sắt thay đổi theo duyên, lệ thuộc vào duyên, không có tự tánh của riêng nó. 

. Nói “nước sôi ở 100°C”. Câu nói đó chỉ đúng trong điều kiện thường. Trong điều kiện áp suất cao hoặc thấp hơn, nước không còn sôi ở 100°C nữa. 

. Đường thẳng được cho là đường ngắn nhất qua hai điểm. Định lý này chỉ đúng với hình học Euclide. Với hình học phi Euclide, đường cong mới là đường ngắn nhất.       

Sắc tướng: Thứ gì chiếm một phần hạn trong không gian,gọi là sắc tướng. Trong pháp giới Duyên khởi thì không có sắc tướng. Do việc “nắm lấy” một số tướng như huyễnsắc tướng hiện ra. Hiện tượng tâm “nắm lấy” một số tướng như huyễn đó, được kinh gọi là “chấp” hay “chấp tướng”. 

Thí dụ: Trong chỗ tối, nếu quay tròn đầu cây nhan đã được thắp sáng với vận tốc lớn, chúng ta thấy một vòng sáng hiện ra. Đây, chúng ta cần lưu ý: Khi đầu cây nhan đến điểm nào, ở đó xuất hiện một chấm sáng. Khi đầu cây nhan qua điểm mới, chấm sáng ở điểm cũ phải mất đi. Theo lý mà nói, chúng ta phải thấy một chấm sáng di chuyển liên tục. Do tâm chúng ta có khả năng lưu giữ hình ảnh ghi nhận được trong một khoảng thời gian, nên thay vì thấy một chấm sáng, chúng ta lại thấy nhiều chấm sáng hiện ra tạo thành một vòng sáng. 

Tam giới duy tâm: Tâm nói đây không nên hiểu là ý thức mà là 8 thức cùng với nền tảng tạo ra 8 thức (bản tâm). Do có sự chấp tướng nơi tâm mà sắc tướng hiện ra

. Nếu trên các sắc tướng ấy, sinh ra ngũ dục thì pháp giới Duyên khởi biến thành Dục giới

. Nếu ly lìa ngũ dục, tâm hết các dục nhiễm, sắc tướng trở nên thanh tịnh thì pháp giới Duyên khởi biến thành Sắc giới

. Nếu diệt hết các sắc tướng thì pháp giới Duyên khởi biến thành Vô sắc giới

Tam giới không lìa tâm riêng có. Nên kinh nói “Tam giới duy tâm”. 

Vạn pháp duy thức:  Thức có hai nghĩa là liễu biết và phân biệt

Liễu biệt, là sự nhận biết sắc tướng một cách rõ ràng trong phần hạn của nó. Tác động liễu biệt đã biến các sắc tướng vốn tồn tại trong tương quan tương tác với nhau thành các sắc tướng tách biệt. 

Trên các sắc tướng tách biệt ấy, nếu khởi lên các so đo suy lường sai khác giữa các sắc tướng thì gọi là phân biệt

Tác động của thức đã biến các sắc tướng thành muôn ngàn pháp sai biệt

Tóm lại, do sự chấp tướng cùng tác động của thức mà pháp giới Duyên khởi biến thành thế giới với muôn ngàn sự vật sai biệt, muôn ngàn pháp sai biệt. Do vạn pháp không lìa thức mà riêng có, nên kinh nói “Vạn pháp duy thức”. 

Tam tánh: là ba tánh Y tha khởi, Biến kế sở chấpViên thành thật.      

. Y tha khởi tánh: Nếu thấy pháp như huyễn là thấy tánh Y tha của pháp. Đây là cái thấy của hàng Bồ-tát Đại thừa.   

. Biến kế sở chấp tánh:  Do chấp tướngsắc tướng hiện ra. Thực tướng của sắc vẫn là như huyễn. Thực tánh của sắc vẫn là không. Nếu cho pháp là có, nghĩa là pháp có một tự tánh riêng xác định được, thì tánh này hoàn toàn không có, chỉ do tưởng mà thành, nên gọi là Biến kế sở chấp tánh. 

 . Viên thành thực tánh: Nếu nơi pháp mà lìa chấp có (lìa tánh Biến kế sở chấp) thì tánh Viên thành xuất hiện. Đây là thực tánh lìa có lìa không của pháp. 

Như vậy, tánh Y tha là thực tánh của Biến kế sở chấp. Tánh Viên thành là thực tánh của Y tha. Bồ-tát trước phải chứng tánh Viên thành thực, về sau mới thấy pháp như huyễn. 

Hai chấp: Nếu cho rằng pháp là có thì gọi là chấp có. Có hai hình thức chấp có

. Nếu cho rằng thân tâm (năm ấm) là có, tức ta là có, ngã là có, thì gọi là chấp ngã

. Nếu cho các pháp bên ngoài là có, gọi là chấp pháp

Hai chướng: là phiền não chướngsở tri chướng

. Sở tri chướng: Việc chấp pháp khiến tâm chịu sự chi phối của kiến chấp có. Do đó sự thấy biết phát ra từ tâm không còn phù hợp với thực tánh của pháp, nên gọi là vọng thấy. Chính cái vọng thấy này đã che đậy cái thấy biết pháp như thật (còn gọi là trí bồ-đề). Tóm lại, do chấp pháptâm không còn thấy được pháp trong thực tánh của nó, nên gọi là sở tri chướng

. Phiền não chướng: Việc chấp ngã làm phát sinh cái chướng thứ hai là phiền não chướng. Do phiền não chướngchúng sinh phải chịu sự trôi lăn trong sinh tử, luân hồi trong tam giới, bị tam giới trói buộc

Do phiền não chướng phải y nơi sở tri chướng mới thành lập, nên nếu có phiền não chướng thì cũng có sở tri chướng. Trong trường hợp ngược lại, nếu phiền não chướng hết thì không có nghĩa sở tri chướng cũng hết theo. 

Phàm phu có đủ hai chấp nên có đủ hai chướng. 

Hàng Nhị thừa lìa chấp ngã, nên không còn phiền não chướng. Do còn chấp pháp nên vẫn còn sở tri chướng

Lý Nhân duyên: Theo lý Nhân duyên, pháp do nội nhân và ngoại duyên mà thành. Tinh thần ấy được hiển bày đầy đủ hơn trong lý Duyên khởi, khi duyên là tất cả pháp trong pháp giới (Tất cả làm duyên cho một). 

Duyên khởi cũng chỉ ra rằng thực tướng của nhân duyênnhư huyễn, thực tánh của pháp nhân duyên là không. Trung luận nói: 

Pháp do nhân duyên sinh 

Ta nói tức là không 

Cũng chính là giả danh 

Cũng là nghĩa Trung đạo 

Pháp nhân duyên sinh thì thực thể là không. Các tên gọi không nói lên được cái thể vốn không có của pháp, nên nói là giả danh. Nhưng các tên gọi đó lại nói lên được cái dụng như huyễn của pháp. Vì thế pháp nhân duyên sinh không phải là có, không phải là không. Đây là nghĩa Trung đạo. 

Thức và trí:  Thấy có thấy không là cái thấy của tình thức phân biệt. Thấy biết lìa có lìa không là cái thấy biết phù hợp với thực tánh của pháp, nên gọi là trí. 

Tám thức và tứ trí: Khi chướng còn thì tâm là tám thức. Nếu hết sạch các chướng thì tâm là tứ trí

Chuyển tám thức thành tứ trícứu cánh của Đại thừa

Bồ-tát với tâm đại bi:Khi thấy được lý Duyên khởi, Bồ-tát nhận ra rằng ta và người không khác, ta và tất cả chúng sinh vốn không hai. Ta không thể hạnh phúc khi chúng sinh đang còn đau khổ. Ta không thể đứng ngoài nỗi đau khổ của chúng sinh. Giải thoát của ta không thể vẹn toàn khi chúng sinh chưa được giải thoát. Thấy như thế nên Bồ-tát phát tâm đại bi muốn cứu khổ cho tất cả chúng sinh, muốn độ tận hết thảy chúng sinh.                     

Trong kinh Lăng nghiêm, sau khi được đức Phật khai thị thấy rõ Bồ-đề cùng đại Niết-bàn của Phật, ngài Anan dù chưa trở về được nơi đó, song đã thấy rõ con đường quay về, nên đã phát nguyện: “Con tuy chưa được độ, song nguyện độ cho tất cả chúng đời mạt pháp”[4]. 

Vì xem sự mê lầm đau khổ của chúng sinh như sự mê lầm đau khổ của chính mình, nên kinh Duy- ma nói: “Vì chúng sinh bệnh nên Bồ-tát bệnh”. 

Vì không thể có sự giải thoát bên ngoài sự giải thoát của tất cả chúng sinh, nên trong kinh Pháp hoa, đức Phật đã chỉ ra rằng sự giải thoát của hàng Thanh văn, dù đã đưa chư vị vào dòng thánh, cũng mới chỉ là hóa thành chưa phải bảo sở

Khi nhận ra thực lý Duyên khởi, Bồ-tát biết rằng thế gian như mộng huyễn, thiên đường vốn như huyễn nên không sinh tâm tham đắm, địa ngục vốn như huyễn nên không sinh tâm ngán sợ. Không cần xa lìa tam giới để riêng tìm giải thoát an lạc cho chính mình. Nhìn lại chúng sinh, do mê lầm nên thấy tam giới là thật, khổ đau là thật, có những khổ đau khó nhẫn chịu, nên Bồ-tát phát nguyện ra vào trong tam giới không kể thời gian kiếp số, giúp chúng sinh thoát khỏi mọi khổ đau. 

Khi nhận ra bản tâm, thấy thể tánh nhiệm mầu vốn sẵn đủ nơi mình, Bồ-tát được sự an vui vô bờ. Nhìn lại chúng sinh, đồng cùng một thể tánh, lại phải chịu nổi trôi trong sinh tử luân hồi, phải nhận vô vàn đắng cay... Do đó, Bồ-tát phát nguyện: “Nếu còn một chúng sinh chưa thành Phật, tôi sẽ không thành Phật”. 

Trong kinh Lăng-già tâm ấn, Bồ-tát Đại Huệ đã tán thán đức Phật qua bài kệ

Thế gian lìa sinh tử 

Như hoa đốm hư không 

Trí chẳng thấy có không 

khởi tâm đại bi 

Tất cả pháp như huyễn 

Xa lìa nơi tâm thức 

Trí chẳng thấy có không 

khởi tâm đại bi 

Xa lìa chấp đoạn thường 

Thế gian hằng như mộng 

Trí chẳng thấy có không 

khởi tâm đại bi 

Pháp vốn không sinh không diệt, nhưng chúng sinh do mê mà thấy pháp có sinh có diệt, nên bị pháp trói buộc, thấy tam giới thực có, xoay vần trong tam giới, chịu nhiều khổ nạn. Tâm thức Phật siêu việt nhị biên, không còn dấu vết của các kiến chấp sinh diệt, thấy tam giới như hoa đốm trong hư không, tự tại trong tam giới. Tâm thức ấy thấy pháp y như thật, không rơi vào có - không, nên khởi tâm đại bi, muốn cứu khổ cho tất cả chúng sinh

Pháp vốn như huyễn, nhưng chúng sinh do mê mà thấy tất cả như thực, dính mắc với các pháp, chịu nhiều đau khổ. Phật thông đạt thực tướng như huyễn của pháp, không còn mê lầm, không còn chấp tướng, ly lìa mọi chấp trước, thấy rõ pháp mà không rơi vào có - không, nên khởi tâm đại bi, muốn giải thoát cho tất cả chúng sinh

Khi tâm không còn các kiến chấp đoạn thường, nhìn lại thế gian chỉ như giấc mộng, chúng sinh do lấy mộng làm thực, nên bị thế gian trói buộc, sinh tử luân hồi không có lúc dừng, lại nắm bắt cảnh mộng này, xa lìa cảnh mộng kia. Không biết rằng cảnh trong mộng không có trước sau, không có hơn kém, không có đoạn thường, chỉ do mê mà thấy như thế. Do đó, Phật khởi tâm đại bi, muốn đánh thức chúng sinh khỏi cơn trường mộng thế gian

Thế gian như không hoa, tất cả pháp như huyễn, thế gian hằng như mộng, khổ ở thế gian cũng như thế, chỉ như bóng lòa thoáng hiện liền mất, đâu thực có thế gian khổ để phải lìa? Thực  lý vốn như thế, thực tế vốn như thế, nhưng chúng sinh đang khi mê chẳng thể thấy là không. Vì cái chẳng thể thấy là không đó mà đức Phật phải thị hiện trong đời, giáo pháp ba thừa xuất hiện với vô vàn kinh luậnvô lượng các pháp môn, nhưng tất cả đều không ra ngoài thực lý Duyên khởi mà lập.     

Kết luận  

Trên đây chỉ là một sự khai triển đơn giản về lý Duyên khởi, nhằm giúp bạn đọc nhận ra được sự nhất quán của giáo lý nhà Phật, cũng như hiểu hơn về một số khái niệm căn bản của Phật pháp. Một sự khai triển sâu rộng hơn sẽ giúp chúng ta thấy rõ việc hình thành các pháp môn, sự chi phối của giáo lý Duyên khởi đối với các pháp thế gian, đối với khoa học và triết học. Giúp chúng ta có cái nhìn đối với tự thân cũng như thế giới bên ngoài được thông thoáng hơn, việc học Phật càng rõ ràng hơn. 

 


 

[1] Nhị biên phân biệt: Có - không, thiện - ác, tốt - xấu v.v…

[2] Nếu nói về thực tánh bằng một mệnh đề khẳng định, thì tánh ấy đã nằm trong ngôn từ. Không còn là thực tánh của tất cả pháp.

[3] Chúng ta đang khai triển trên tinh thần lý sự vô ngại pháp giới. Nếu đứng trên tinh thần Sư sự vô ngại pháp giới thì phải nói “Một trong tất cả, tất cả trong một”.

[4] Kinh Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ, chương III “Rộng để lại khuôn phép tu hành” - Thiền sư Hàm Thị trực giải - HT Thích Phước Hảo dịch.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13199)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19355)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24603)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15738)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37815)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13470)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13087)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17165)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13200)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17380)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21615)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13214)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14386)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12808)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13650)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28590)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23382)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34366)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28858)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32174)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11325)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12002)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26276)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17359)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14521)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34468)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13111)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12275)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13399)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40505)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26920)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14454)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13250)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13450)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12521)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13140)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12305)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11782)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12561)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17657)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12202)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12747)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18432)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14289)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12988)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11318)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12147)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13458)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10832)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11069)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10280)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28874)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25254)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26843)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25746)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18663)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 23004)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34524)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32151)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 30369)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant