Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hoa Nghiêm Tánh Khởi

07 Tháng Giêng 201519:31(Xem: 7873)
Hoa Nghiêm Tánh Khởi

HOA NGHIÊM TÁNH KHỞI


Nguyễn Thế Đăng

Theo kinh Hoa Nghiêm, được xem là kinh cao rộng nhất của Đại thừa, thì vũ trụ này là Báo thânHóa thân của Phật bổn nguyên Tỳ Lô Giá Na. Phật Tỳ Lô Giá Napháp thân của Đức Phật Thích Ca và tất cả chư Phật.
Báo thânHóa thân khởi sanh từ Pháp thân hay pháp giới tánh. Do đó vũ trụ hay pháp giới sanh khởi từ Pháp thân hay pháp giới tánh. Phẩm Bảo Vương Như Lai tánh khởi thứ 32 của Kinh Hoa Nghiêm 60 cuốn là phẩm đặc biệt nói về chủ đề tánh khởi này.
Pháp giới hay thân Phật thì cùng khắp nhưng vẫn thanh tịnhtịch diệt:
Thân Phật thanh tịnh thường tịch diệt
Quang minh chiếu sáng khắp thế gian
Không tướng không hành không hình bóng
Ví như mây nổi giữa không gian
Thân Phật như vậy cảnh giới định
Tất cả chúng sanh không thể lường
Thị hiện phương tiện khó nghĩ bàn
Thiên vương Huệ Quang đã ngộ được.
Thân Phật vô tận như hư không
Vô tướng vô ngại khắp mười phương
Như huyễn như hóa khắp ứng hiện
Biến Hóa Âm Vương đã ngộ được.
Thân Phật cùng khắp đồng pháp giới
Khắp ứng chúng sanh đều hiện tiền
Các thứ giáo môn thường dạy trao
Nơi pháp tự tại hay khai ngộ.
(Thế Chủ Diệu Nghiêm, thứ 1)
Phẩm Thập địa nói: “Toàn cả ba cõi chỉ là Nhất Tâm”.
Phật bổn nguyên Tỳ Lô Giá NaNhất Tâm hay pháp giới tánh, từ đó vũ trụ hay pháp giới xuất sanh và hiện hữu trong đó:
Nếu người muốn rõ biết
Tất cả Phật ba đời
Phải quán pháp giới tánh
Tất cả duy tâm tạo.
(Duy Ma cung kệ tán, thứ 20)
Tâm, Phật, và chúng sanh vốn là một, như kinh nói:
Như tâm, Phật cũng vậy
Như Phật, chúng sanh đồng
Tâm, Phật, và chúng sanh
Cả ba không sai khác.
(Duy Ma cung kệ tán, thứ 20)
Sở dĩ chúng ta không thấy được Phật hay pháp giới tánh vì những phiền não chướngsở tri chướng, là những “nghiệp chướng xấu ác” của mình che chướng tâm và mắt:
Chúng sanh nghiệp chướng xấu sâu dày
Trăm ngàn kiếp qua chẳng thấy Phật.
(Thế Chủ Diệu Nghiêm, thứ 1)
Vũ trụ này, pháp giới này xuất sanh từ pháp giới tánh, hiện hữu trong pháp giới tánhtiêu tan vào pháp giới tánh, đây là điều các kinh điển Đại thừa nói là Chân Như duyên khởi, Như Lai tạng duyên khởi…. Trong Kinh Hoa Nghiêm, tương đương với phẩm Bảo Vương Như Lai tánh khởi của bộ 60 cuốn là phẩm Như Lai xuất hiện thứ 37, bộ 80 cuốn. Trong phẩm này, Bồ tát Như Lai Tánh Khởi Diệu Đức thưa hỏi Bồ tát Phổ Hiền về sự xuất hiện của Như Lai, mà thân Như Lai thì “khắp đồng pháp giới”. Như vậy, pháp giới đồng với thân Phật này xuất hiện từ đâu, hiện hữu như thế nào. Đây là vấn đề tánh khởi. Hiểu rõ được tánh khởi hay Như Lai xuất hiện, chúng ta sẽ thấy được Như Lai, thấy Phật.
Đại Bồ tát Phổ Hiền dạy phải quán sát tâm, vì “tâm, Phật, chúng sanh, cả ba không sai khác”:
Như tâm cảnh giới vô biên lượng
Chư Phật cảnh giới cũng như vậy
Như tâm cảnh giới từ ý sanh
Phật cảnh như vậy phải quán sát.
(Như Lai xuất hiện, thứ 37)
Quán Phật là quán Chân Như, quán pháp giới:
“Chư Phật tử! Như Chân Như: tiền tế bất sanh, hậu tế bất động, hiện tại bất khởi. Như Lai hạnh cũng vậy: chẳng sanh, chẳng động, chẳng khởi.
Như pháp giới: chẳng phải hữu lượng, chẳng phải vô lượng, vì vô hình vô tướng. Cũng vậy Như Lai hạnh chẳng phải hữu lượng, chẳng phải vô lượng, vì vô hình vô tướng.”
Muốn thấy Như Lai phải có tâm và mắt mở rộng khắp tất cả vì Như Lai ở khắp:
“Đại Bồ tát phải ở vô lượng nơi chốn mà thấy thân Như Lai. Phải khắp tất cả nơi thấy Như Lai. Ví  như hư không đến khắp tất cả chỗ sắc và phi sắc mà chẳng phải đến, chẳng phải chẳng đến, vì hư không chẳng có thân. Cũng vậy, thân Như Lai khắp tất cả chỗ, khắp tất cả chúng sanh, khắp tất cả pháp, khắp tất cả quốc độ, mà chẳng phải đến chẳng phải chẳng đến. Vì thân Như Lai là không có thân. Vì chúng sanhthị hiện thân Phật”. (Như Lai xuất hiện, thứ 37)
Muốn thấy biết cảnh giới Phật, tâm phải không chỗ trụ:
Có người muốn biết Phật cảnh giới
Phải tịnh ý mình như hư không
Xa lìa vọng tưởng rời bám chấp
Nơi tâm hướng đến đều vô ngại
……
Quang minh Như Lai cũng như vậy 
Hiện khắp trong tâm của trời người
Chư Phật hiện thân cũng như vậy
Tất cả mười phương đều khắp cả.
(Như Lai xuất hiện, thứ 37)
“Pháp thân Như Lai tạng, vào khắp trong thế gian, dầu ở tại thế gian, mà không nhiễm thế pháp” (Phẩm Phổ Hiền, thứ 36).
Thân Phật có trong thế gian, không chỉ ở cấp độ vĩ mô, mà còn trong cấp độ vi mô, trong mỗi vi trần, trong mỗi sát na:
Thân Phật tất cả tướng
Đều hiện vô lượng Phật
Vào khắp mười phương cõi
Trong mỗi mỗi vi trần
Mười phương những quốc độ
Vô lượng vô biên Phật
Đều ở trong mỗi niệm
Đều riêng hiện thần thông.
(Phẩm Như Lai hiện tướng, thứ 2)
Không gian nhỏ nhất là một vi trần, thời gian ngắn nhất là một sát na, một niệm, thì dung chứa, bao hàm cái lớn nhất của không gian và của thời gian, hiện bày pháp giới sự sự vô ngại, đặc trưng của kinh Hoa Nghiêm.
Trong mỗi trần đều có
Pháp mười phương ba đời
Trong mỗi trần đều có
Vô lượng những cõi Phật
……
Vô lượng vô số kiếp
Hiểu đó tức một niệm
Biết niệm cũng vô niệm
Như vậy thấy thế gian
(Phẩm Phổ Hiền hạnh, thứ 36)
Để thấy ở mức vi tế như vậy, tâm chúng ta phải thanh tịnh đến mức vi tế. Thiền định, thiền quán và định quán đồng thời đi liền với hạnh giúp chúng ta có được tâm vi tế. Tâm vi tế mở rộng, dung chứa và nhìn thấy pháp giới ở mức độ vi tế. Khi tâm được tịnh hóa để tương ưng với pháp giới thì gọi là “tâm đầy đủ Phật pháp”.
“Thâm tâm chẳng nhiễm tất cả pháp thế gian. Thâm tâm đầy đủ tất cả trí vi tế. Thâm tâm đầy đủ tất cả Phật pháp” (Ly thế gian, thứ 38).
Tánh là tánh Không, tánh Như, tánh Phật, tánh giác… Tánh khởi là mọi hiện hữu đều xuất sanh từ đó. Bồ tát Văn Thù hỏi Bồ tát Đại Thủ: “Chỗ giác ngộ của Như Lai chỉ là một pháp duy nhất, sao lại bảo rằng vô lượng pháp, hiện vô lượng cõi, diễn vô lượng âm, hiển thị vô biên các thứ cảnh giới, nhưng trong pháp tánh thì các tướng sai biệt này đều bất khả đắc”.
Bồ tát Đại Thủ nói kệ đáp:
……
Như đất chỉ một tánh
Mọi loài ở riêng chỗ
Đất không nghĩ đồng khác
Pháp chư Phật như vậy.
Cũng như một đại dương
Ngàn vạn lượng sóng khởi
Nước biển vẫn duy nhất
Pháp chư Phật như vậy…
Cũng như mặt đất kia
Mọc lên nhiều mầm mộng
Mặt đất chỉ là một
Pháp chư Phật như vậy.
(Bồ tát Vấn Minh, thứ 10)
Bồ tát Văn Thù hỏi Bồ tát Mục Thủ: “Phước điền Như Lai đồng một không sai khác, sao lại thấy quả báo chúng sanh chẳng đồng? Có nhiều loại sắc, có nhiều loại thân, nhiều loại căn, nhiều loại nhà, nhiều loại quyến thuộc, nhiều loại quan chức, nhiều loại công đức, nhiều loại trí huệ, nhưng tâm Phật thường bình đẳng, không có quan niệm riêng khác”. Bồ tát Mục Thủ đáp:
Tất cả vẫn là một
Theo giống mọc mầm khác
Đất không ý thân sơ
Phật phước điền cũng vậy.
Lại như nước một vị
Nhân đồ chứa có khác
Phật phước điền vẫn một
Do tâm người thành khác.
Như mặt gương sáng sạch
Theo hình mà hiện bóng
Phật phước điền cũng vậy
Tùy tâm được báo khác.
Bồ tát Hiền Thủ nói:
Thân của tất cả Phật
Chỉ là một Pháp thân
Nhất tâm, nhất trí huệ
Lực vô úy cũng vậy.
Tất cả các cõi Phật
Trang nghiêm đều viên mãn
Tùy chúng sanh thấy khác
Thấy chẳng đồng như vậy.
Tâm ý đã thanh tịnh
Hạnh nguyện đều đầy đủ
Người sáng suốt như vậy
Mới thấy được nơi đây.
(Bồ tát Vấn Minh, thứ 10)
Tất cả vẫn là một, một tánh, mà thấy có các hình tướng khác nhau, các hoàn cảnh khác nhau, sanh ra phân biệt ta người, của ta của người, tạo thành một thế giới xung đột giữa những khác biệt. Đó là cái gọi là thế giới sanh tử của chúng ta. Còn người tâm ý đã thanh tịnh thì thấy “ba cõi chỉ là Nhất Tâm”. Cho nên tu hành là đưa tất cả các sự khác nhau do tâm chúng ta phân biệt tạo ra trở về bản tánh của chúng là Một. Đưa tướng trở lại thật tướng của nó là tánh, đưa thức trở lại thật tướng của nó là trí. Phật là cái Một này, Một Thân này, cho nên thấy cái một trong tất cả, tất cả là một, đó là thấy Phật.
Nếu dùng oai đức, sắc, chủng tộc
Để thấy bậc Điều Ngự thế gian
Đây là mắt bệnh thấy điên đảo
Người này chẳng biết pháp tối thượng.
Như Lai chẳng lấy tướng làm thể
Mà là pháp vô tướng tịch diệt
Nhưng thân tướng oai nghi đầy đủ
Thế gian tùy thích đều được thấy.
……
Một thân là vô lượng
Vô lượng lại là một
Rõ biết các thế gian
Hiện hình khắp tất cả.
Thân này không từ đâu
Không tích tụ cái gì
chúng sanh phân biệt
Thấy Phật có nhiều thân.
Tâm phân biệt thế gian
Tâm ấy không chỗ có
Bậc giác biết điều này
Thấy thân Phật như vậy.
(Quang Minh Giác, thứ 9)
Khi thấy được “thật tướng của tất cả các pháp”, thấy được các pháp không sanh không diệt, đó là thấy Phật:
Tất cả pháp vô sanh
Tất cả pháp vô diệt
Nếu thấu rõ như vậy
Người này thấy được Phật.
(Tu Di đảnh kệ tán, thứ 14)
Như vậy tánh khởi là không khởi: đó là giải thoátgiác ngộ.
Phật thân khắp pháp giới
Khắp rưới những mưa pháp
Vô sanh, vô sai biệt
Thế gian hiện tất cả.
(Như Lai hiện tướng, thứ 2)
Thấy Như Lai là thấy Chân Như, và Chân Như thì vô sanh, không động, không khởi.
“Đại Bồ tát phải biết vô ngại hạnh là Như Lai hạnh, phải biết Chân Như hạnh là Như Lai hạnh. Như Chân Như, tiền tế bất sanh, hậu tế bất động, hiện tại bất khởi. Như Lai hạnh cũng vậy, chẳng sanh, chẳng động, chẳng khởi” (Như Lai xuất hiện, thứ 37).
Phật thì không sanh không diệt. Nhưng tâm và chúng sanh không khác với Phật nên ngay cả sự khởi niệm của tâm chúng sanh cũng là không khởi, không sanh, không diệt. Nếu như không sanh không diệt là giải thoátgiác ngộ của Phật thì không sanh không diệt của niệm khởi là con đường giải thoát cho chúng sanh. Thấy được niệm khởi chính thật là không khởi, đang khi sanh mà chính thật là không sanh, đó là con đường giải thoát cho chúng sanh.
“Đại Bồ tát phải biết tâm mình, niệm niệm thường có Phật thành Chánh giác, vì chư Phật Thế Tôn chẳng rời tâm này mà thành Chánh giác. Như tâm mình, tâm của tất cả chúng sanh cũng đều như vậy, đều thường có Như Lai thành Chánh giác, rộng lớn khắp cả, không chỗ nào chẳng có, chẳng lìa chẳng dứt, chẳng ngừng, đang nhập pháp môn phương tiện chẳng thể nghĩ bàn” (Như Lai xuất hiện, thứ 37).
Niệm khởi mà thấy thật tướng của niệm khởi ấy, đây là pháp môn phương tiện chẳng thể nghĩ bàn và cũng là một ứng dụng quan trọng của tánh khởi.
Danh hiệu của Bồ tát Như Lai Tánh Khởi Diệu Đức cho thấy những diệu đức của bậc giác ngộ đều từ tánh khởi. Những diệu đức đó chính là Diệu Đức của “tâm, Phật, chúng sanh, cả ba không sai khác”. Diệu Hữu từ tánh khởi, hay nói cách khác, từ tánh Không mà khởi, từ Chân Không mà khởi. Ở đây chúng ta thấy Kinh Hoa Nghiêm nói đến một chủ đề thuộc loại quan trọng nhất của Đại thừa, đó là Chân Không Diệu Hữu. Và nếu Kinh Hoa Nghiêm được cho là cao rộng nhất, vi diệu nhất của Đại thừa, thì Chân Không Diệu Hữu của kinh cũng ở mức cao rộng nhất, vi diệu nhất.
Thế giới là một Diệu Hữu sanh khởi từ tánh Không, thế nên thậm chí trong mỗi hạt bụi của thế giới đều chứa tất cả bí mật vi diệu của toàn thể vũ trụ:
“Ví như có cuốn sách lớn bằng Đại thiên thế giới ghi chép tất cả những sự trong Đại thiên thế giới… Cuốn sách lớn này dầu lượng bằng Đại thiên thế giới mà ở trọn trong một vi trần. Như một vi trần, tất cả vi trần cũng đều như vậy.
Bấy giờ có người trí huệ sáng suốt thành tựu thiên nhãn thanh tịnh thấy cuốn sách ở trong vi trần thì không lợi ích gì cho chúng sanh, bèn nghĩ nên dùng sức tinh tấn phá vỡ vi trần đó để đem cuốn sách lớn ra làm cho chúng sanh được lợi ích. Người ấy liền dùng phương tiện phá vỡ vi trần đem cuốn sách lớn ra, làm cho chúng sanh đều được lợi ích. Như nơi một vi trần, tất cả vi trần cũng đều như vậy”. (Như Lai hiện tướng, thứ 37).
Tất cả đều là Diệu Hữu:
Tất cả pháp đều Như
Cảnh giới Phật cũng vậy.
(Đâu Suất kệ tán, thứ 24)
Tất cả vũ trụ hiện bày cái tối hậu:
“Dùng nhất thiết trí biết tất cả pháp giới chính là tướng Niết bàn” (Thập Địa, thứ 26).
Tất cả như vậy vì do tánh khởi. Vì từ tánh Phật khởi cho nên tất cả đều là Phật pháp. Kinh nhắc lại nhiều lần:
“Tất cả pháp đều là Phật pháp” (Ly thế gian, thứ 38).
Đi vào pháp giới Hoa Nghiêm thì tất cả những cái được thấy, nghe, chạm, biết đều là Phật:
“Đại Bồ tát dùng trí huệ vô ngại biết tất cả cảnh giới thế gianNhư Lai cảnh giới. Biết tất cả cảnh giới, tất cả pháp cảnh giới, tất cả chúng sanh cảnh giới, chân như vô sai biệt cảnh giới, pháp giớichướng ngại cảnh giới, thật tế vô biên tế cảnh giới, hư không vô phần lượng cảnh giới, cảnh giới không cảnh giới, đều là Như Lai cảnh giới.
“Như tất cả thế gian cảnh giới vô lượng, Như Lai cảnh giới cũng vô lượng. Như cảnh giới ba đời vô lượng, Như Lai cảnh giới cũng vô lượng. Cho đến như cảnh giới không cảnh giới vô lượng, Như Lai cảnh giới cũng vô lượng. Như cảnh giới không cảnh giới không có ở tất cả nơi chốn, Như Lai cảnh giới cũng vậy, không có ở tất cả nơi chốn” (Như Lai hiện tướng, thứ 37).
Tất cả Diệu Hữu khởi từ Chân Không, nên Diệu Hữu khởi mà đồng thời không khởi, vì tánh khởi thì vô sanh. Diệu Hữu khởi nhưng đồng thời chính là Chân Không, nên Diệu Hữuvô sanh.
Diệu Hữu là tánh khởi, nghĩa là Diệu Hữu đồng thời, đồng hiện với Chân Không và sẵn có như Chân Không. Như thế Diệu Hữu cũng chính là giải thoátgiác ngộ.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 130)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 191)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 215)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 281)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 193)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 241)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 239)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 257)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 289)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 367)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 602)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 459)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 477)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 569)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 752)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 820)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 851)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 836)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 729)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 708)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 711)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 812)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 832)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 935)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 714)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 609)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 705)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 822)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 707)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 706)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 821)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 847)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 823)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 863)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 893)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 884)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1077)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 951)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1652)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1065)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1210)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 954)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1210)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1115)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1122)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1276)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1544)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2024)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1093)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1352)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1095)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 944)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1062)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1092)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1517)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1277)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1287)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1022)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1181)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant