Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần 1: Hướng dẫn về sự chết và lâm chung

25 Tháng Hai 201520:16(Xem: 7529)
Phần 1: Hướng dẫn về sự chết và lâm chung
QUÁN CHIẾU VỀ SỰ TIẾP CẬN PHẬT GIÁO THỰC TIỂN 

Reflections on the Realistic Approach of Buddhism:
Talks to Former Dharamsala Residents from the West
His Holiness the Fourteenth Dalai Lama 
Dharamsala, India, November 2 – 3, 2010 
Ghi lại:  Sean Jones và Michael Richards 
Hiệu đính: Luke Roberts và Alexander Berzin
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển



PHẦN 1: HƯỚNG DẪN VỀ SỰ CHẾT VÀ LÂM CHUNG


Hướng Đến Một Đời Sống Đầy Đủ Ý Nghĩa
Trước nhất tôi xin chào mừng tất cả. Nhiều người trong quý vị là những người bạn rất, rất cũ, những người bạn lâu năm, và những người bạn không thay đổi. Cho nên điều ấy rất tốt.

Ba mươi, bốn mươi năm đã qua từ khi quý sinh sống và học tập ở chốn này. Thân thể chúng ta đã thay đổi. Nói một cách tổng quát, ngay của phép mầu hay thiền tập cũng không thể làm cho nó dừng lại. Chúng tavô thường, luôn luôn thay đổi, thay đổi từ thời khắc này sang thời khắc khác và đấy là một bộ phận của tự nhiên. Thời gian luôn luôn chuyển dịch; không năng lực nào có thể làm nó dừng lại. Vì thế câu hỏi thật sự là chúng tasử dụng thời gian một cách thích đáng hay không. Chúng tasử dụng thời gian để tạo nên nhiều rắc rối hơn cho người khác hay không, là điều mà một cách căn bản cũng làm chính ta cảm thấy khổ sở sâu xa bên trong? Tôi nghĩ rằng đấy là một cách sử dụng thời gian một cách sai lầm.

Một cách tốt hơncố gắng để xây dựng tâm thức chúng ta mỗi ngày với một động cơ thích đáng và rồi thì giữ gìn nó cho suốt cả ngày còn lại với loại động cơ ấy. Và nó có nghĩa là, nếu có thể, phục vụ người khác; và nếu không, thì tối thiểu kềm chế trong việc làm tổn hại người khác. Trong sự quan tâm ấy, thì không có sự khác biệt giữa những tôn giáo khác nhau. Bất cứ ở vị trí nào, quý vị có thể có môt động cơ tích cực. Nếu thời gian của chúng ta được sử dụng trong cách ấy hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng, hàng năm - hàng thập niên, không chỉ trong năm năm - thế thì đời sống của chúng ta trở nên đầy đủ ý nghĩa. Tối thiểu, chúng ta đang làm nên một loại sống hiến đối với thể trạng hạnh phúc tinh thần của cá nhân chúng ta. Chẳng chóng thì chầy ngày cuối cùng của chúng ta sẽ đến, và ngày ấy chúng ta sẽ không cảm thấy hối tiếc gì cả; chúng ta biết là chúng ta đã sử dụng thời gian của chúng ta một cách hữu ích.

Tôi nghĩ nhiều người trong quý vị đã sử dụng thời gian trong một cách thích đáng, đầy đủ ý nghĩa. Điều ấy là quan trọng.

Có Một Thái Độ Thực Tiển Đối Với Sự Chết

Tuy nhiên, đời sống hiện tại của chúng ta, là không mãi mãi. Nhưng nghĩ: "Chết là kẻ thù" thì hoàn toàn sai. Chết là một bộ phận trong sự sống của chúng ta. Dĩ nhiên, theo quan điểm của Phật Giáo, thân thể này trong một ý nghĩa nào đó là một kẻ thù. Nhằm để phát triển lòng tham muốn chân thành thành cho moksha - giải thoát - thế thì chúng ta thật sự cần một loại thái độ: rằng chính sự sinh này, thân thể này, chính bản chất của nó là khổ đau và vì thế chúng ta muốn chấm dứt điều ấy. Nhưng thái độ này có thể tạo ra nhiều rắc rối. Nếu quý vị xem chết như kẻ thù, thế thì thân thể này cũng là kẻ thù, và toàn bộ đời sốngkẻ thù. Như vậy là đi hơi quá xa.

Dĩ nhiên, chết có nghĩa là không còn tồn tại nữa, tối thiểu là đối với thân thể này. Chúng ta phải tách rời khỏi mọi thứ mà chúng ta phát triển một loại nối kết gần gũi trong kiếp sống này. Thú vật cũng không thích chết, cho nên một cách tự nhiên chúng là giống với con người. Nhưng chúng ta là một bộ phận của tự nhiên, và vì thế chết là một bộ phần trong đời sống của chúng ta. Một cách hợp lý, sự sống có một sự bắt đầu và kết thúc - có sự sinh và chết. Vì thế không có gì bất thường. Nhưng tôi nghĩ những sự tiếp cận và quan điểm không thực tiển của chúng ta về sự chết làm cho chúng ta lo lắng và băn khoăn bội phần.

Cho nên như những hành giả Phật Giáo, thật vô cùng hữu ích để nhắc nhở chính chúng ta hằng ngày nhớ về sự chết và vô thường. Có hai cấp độ của vô thường: một cấp độ thô [rằng mọi hiện tượng sinh ra sẽ đi đến hoại diệt] và một cấp độ vi tế [rằng tất cả mọi hiện tượng bị ảnh hưởng của nhân và duyên thì thay đổi từ thời khắc này sang thời khắc khác]. Thật ra, cấp độ vi tế của vô thườnggiáo huấn thật sự của Phật Giáo; nhưng một cách tổng quát, cấp độ thô của vô thường cũng là một bộ phận quan trọng của thực hành bởi vì nó làm giảm thiểu một số cảm xúc tàn phá căn cứ trên cảm nhận rằng chúng ta sẽ tồn tại mãi mãi.

Hãy nhìn những vị vua vĩ đại - ở phương Tây cũng thế - với những lâu đài và pháo đài to lớn. Những vị hoàng đế xem họ như bất tử. Nhưng bây giờ khi chúng ta nhìn những kiến trúc ấy, thật là ngớ ngẫn. Hãy nhìn Vạn Lý Trường Thành của Trung Hoa. Nó được tạo nên bởi vô vàn khổ đau của những người xây dựng nên nó. Nhưng những công trình này được hình thành với cảm giác: "Quyền lực và đế quốc của ta sẽ tồn tại mãi mãi" và "Hoàng đế của ta sẽ tồn tại mãi mãi." Như Bức tường Bá Linh - một lãnh tụ Cộng Sản Đông Đức nào đó đã nói rằng nó sẽ tồn tại hàng nghìn năm. Những cảm nhận như vậy đến từ sự chấp thủ vào chính họ và đảng phái hay niềm tin của họ và từ suy nghĩ rằng họ sẽ tồn tại mãi mãi.

Bây giờ sự thậtchúng ta cần một lòng tham muốn tích cực như một bộ phận của động của chúng ta - không có sự tham muốn thì sẽ không có chuyển động. Nhưng lòng tham muốn cộng với si mê là nguy hiểm. Thí dụ, có một loại cảm nhận về sự thường hằng và nó thường tạo nên loại quan điểm "Tôi sẽ tồn tại mãi mãi." Điều ấy là không thực tại. Đấy là si mê. Và khi quý vị phối hợp nó với tham dục - muốn điều gì đó hơn nữa,v.v… - nó thậm chí nó thêm nhiều rắc rối và khó khăn. Nhưng tham muốn với tuệ trí là rất tích cực, và vì thế chúng ta cần nó.

Chúng ta cũng thấy [nhắc nhở về vô thường] trong sự thực hành mật tông, với những cái sọ người và những thứ loại này, và trong một số mạn đà la chúng ta quán tưởng những nghĩa trang [vùng của sự chết chóc]. Những thứ này là các biểu tượng để nhắc nhở chúng ta về vô thường. Một ngày nọ, xe của tôi đi ngang qua một nghĩa địa, và thật mới mẻ trong tâm thức tôi khi tôi để cập sau đó trong một bài diễn thuyết công cộng. "Tôi vừa đi ngang một nghĩa địa. Đấy là nơi chốn sau cùng của chúng ta. Chúng ta phải đến đấy." Chúa Giê-su trên thánh giá chỉ cho môn đồ của ngài rằng cuối cùng sự chết sẽ đến. Và Đức Phật cũng nói tương tự. Allah, thì tôi không biết - Allah không có hình sắc - nhưng dĩ nhiên Mô-ha-mét cũng chứng tỏ điều đó.

Cho nên chúng ta cần thực tế rằng sự chết sẽ đến không chóng thì chầy. Nếu quý vị phát triên môt loại thái độ đúng ngay từ lúc đầu rằng sự chết sẽ đến; rồi thì khi sự chết thật sự đến, chúng ta sẽ ít băn khoăn hơn. Vì thế đối với một hành giả Phật tử, thật quan trọng để tự nhắc nhở mình về điều này trên căn bản hàng ngày.

Phải Làm Gì Khi Sự Chết Đến

Khi ngày cuối cùng của ta đến chúng ta cần chấp nhận nó và không nên thấy nó như điều gì đó kỳ lạ. Không có cách nào khác. Vào lúc ấy, những người có niềm tin tôn giáo trong tôn giáo hữu thần nên nghĩ, "Đời sống này được Thượng đế tạo nên, vì thế sự kết thúc phải tùy thuộc vào dự tính của Thượng đế. Mặc dù tôi không thích sự chết, Thượng đế đã tạo nó, và vì thế phải có một ý nghĩa nào với nó." Những người thật sự tin tưởng trong một Thượng đế tạo hóa nên nghĩ theo những dòng này.

Những người nào theo những truyền thống Ấn Độ giáotin tưởng vào tái sanh nên nghĩ về kiếp sống tương lai và thực hiện một nổ lực nào đó để tạo những nguyên nhân đúng đắn cho một kiếp sống tương lai tốt đẹp, thay vì lo lắng, lo lắnglo lắng. Thì dụ, vào lúc lâm chung, quý vị có thể hồi hướng tất cả đạo đức của quý vị để cho kiếp sống tới sẽ là một kiếp sống tốt đẹp. Và rồi thì [cho dù niềm tin của quý vị là gì ] vào lúc sắp chết, thể trạng tinh thần phải tĩnh lặng. Giận dữ, nhiều sợ hãi - những thứ này là không tốt.

Nếu có thể những hành già Phật tử nên sử dụng thời gian của họ bây giờ để nhìn về phía trước đến những kiếp sống tới. Những sự thực hành tâm bồ đề và những sự thực hành mật tông nào đó là rất tốt cho điều này. Theo giáo huấn mật tông, vào lúc lâm chung có tám sự chấm dứt của các yếu tố - những cấp độ thô của yếu tố thân thể tan rả và rồi thì những cấp độ vi tế hơn cũng tan ra. Những hành giả mật tông cần bao gồm điều này trong thiền quán hàng ngày. Mỗi ngày, tôi quán chiếu về sự chết - trong những sự thực hành mạn đà la khác nhau - tối thiểu 5 lần, nhưng tôi vẫn sống! Sáng nay tôi đã đi qua 3 sự chết.

Có nhiều phương pháp để tạo nên một sự bảo đảm cho một kiếp sống tương lai tốt đẹp, giống như thế. Và đối với những người không tín ngưỡng, như tôi đã đề cập trước đó, thật quan trọng để thực tế rõ ràng về sự kiện vô thường.

Giúp Những Người Sắp Chết Như Thế Nào

Với những người thật sự sắp chết, thật là tốt lành nếu những người chung quan có một kiến thức nào đó [về vấn đề giúp đở như thế nào]. Như tôi đã đề cập trước đây, với những người sắp chết tin tưởng vào Thượng đế tạo hóa, quý vị có thể nhắc nhở họ về Thượng ddeess. Một niềm tin nhất quán vào Thượng đế tối thiểu cũng có một lợi lạc nào đó, với quan điểm Phật Giáo cũng vậy. Với những người nào không có tín ngưỡng, không tôn giáo, thế thì như tôi đã đề cập, hãy thực tế, và thật quan trọng để giữ tâm tư của họ tĩnh lặng.

Có những người thân khóc lóc bên cạnh người lâm chung có thể làm thương tổn đến việc giữ gìn tâm tư tĩnh lặng - quá nhiều dính mắc. và cũng do bởi quá nhiều dính mắc với người thân của họ, có thể có việc làm lớn mạnh giận hờn và thấy sự chết như một kẻ thù. Vì thế thật quan trọng để giữ thể trạng tinh thần của họ tĩnh lặng. Điều ấy là quan trọng.

Trong nhiều trường hợp [tôi dược yêu cầu đến một nhà từ thiện của Phật Giáo]. Như ở Úc Đại Lợi, có một ni viện, nơi mà các nữ tu hoàn toàn cống hiến đời sống cho việc chăm sóc những người sắp chêt và với những người với những căn bệnh trầm kha. Đây là một cách rất tốt trong việc đưa vảo sự thực tập hàng ngày của chúng ts về bi mẫn vào trong hành động. Điều ấy rất quan trọng.

Ẩn Tâm Lộ - Tuesday, December 16, 2014



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1620)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1544)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1487)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1071)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1458)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1405)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1314)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1362)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1703)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1919)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1429)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1087)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1420)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 1986)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1453)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1544)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1379)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2846)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1367)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1401)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1709)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1664)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1622)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1459)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2619)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1599)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1598)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1397)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1418)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1600)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1537)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1437)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1420)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1507)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2183)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1532)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1476)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1600)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1818)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1506)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1375)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1646)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1385)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1672)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2358)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1448)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1933)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1658)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1730)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1599)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1925)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1661)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1421)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1716)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1567)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1525)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1316)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1244)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1286)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1515)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant