Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 2: Điểm gặp nhau của Đông Tây

25 Tháng Hai 201520:16(Xem: 7311)
Phần 2: Điểm gặp nhau của Đông Tây
QUÁN CHIẾU VỀ SỰ TIẾP CẬN PHẬT GIÁO THỰC TIỂN 

Reflections on the Realistic Approach of Buddhism:
Talks to Former Dharamsala Residents from the West
His Holiness the Fourteenth Dalai Lama 
Dharamsala, India, November 2 – 3, 2010 
Ghi lại:  Sean Jones và Michael Richards 
Hiệu đính: Luke Roberts và Alexander Berzin
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển



PHẦN HAI: ĐIỂM GẶP NHAU CỦA ĐÔNG TÂY

Tri thức phương Đông và  khoa học  phương Tây

Những điểm gặp nhau giữa Đông và Tây là gì, tôi nghĩ 30 hay 40 năm trước tôi đã đề cập rằng tri thức phương Đông, chính yếuẤn Độ đây - một cách đặc biệt tri thức về những cảm xúctâm thức - là rất chi tiết; và đây là bởi vì có sự thực tập về tập trung [chỉ] và phân tích [quán]. Những thứ này không căn cứ trên tín ngưỡng hay ngoan đạo; chúng là để cho việc rèn luyện tâm thức.  Một cách tự nhiên, bất cứ giáo huấn nào với sự thực hành tập trung và phân tích sẽ có một sự giải thích về tâm thức: tâm thức hoạt động như thế nào, các cảm xúc hoạt động như thế nào.

Rồi thì Phật Giáo cũng có bát nhã hay tuệ [tỉnh thức phân biệt], và cũng trong Phật Giáo quan điểm then chốt là giáo thuyết vô ngã hay anatma. Cho nên nhằm để tranh luận về thuyết vô ngã, tự nhiên quý vị cần một sự thấu hiểu chi tiết hơn về si mê và những quan điểm bị bóp méo hay vọng tưởng. Và đối với những quan điểm vọng tưởng, năng lượng đối kháng duy nhất là cái thấy đúng đắn hay chánh kiến, không phải cầu nguyện, không phải chỉ sự thiền tập mà thôi. Rồi thì trong Mật thừa cũng có thảo luận về những cấp độ khác nhau của các thể trạng tinh thần - thể trạng tỉnh thức, thể trạng giấc mộng, thể trạng ngũ, hay thể trạng vào những lúc ngất xỉu. [đây là tất cả những thí dụ của tri thức phương Đông về tâm thức].

Dĩ nhiên, khoa học đến từ phương Tây. Những nhà khoa học, trong hầu hết mọi trường hợp, đến từ quá khứ Do Thái - Ki Tô giáo, thế nên một cách tự nhiên họ không để ý nhiều đến tâm thứccảm xúc và những thứ loại này. Trong truyền thống Do Thái - Ki Tô giáo, trình độ thực tập là giống [như những truyền thống tôn giáo phương Đông] - sự thực hành về bi mẫn, tha thứ, bao dung, cũng như toại nguyện và kỷ luật tự giác. Điều này là giống nhau trong tất cả những tôn giáo quan trọng. Nơi mà những tôn giáo này khác nhau là trong những cung cách thúc đẩy những giá trị nhân tính căn bản.

Có những tôn giáo căn cứ trên niềm tin vào một đấng tạo hóa, kể cả những truyền thống Ấn giáo [chấp nhận một đấng tạo hóa]; và bởi vì một cách tối hậu tùy thuộc vào đấng tạo hóa, chỉ niềm tin thôi là đã đầy đủ. Nhằm để giảm thiểu tự ngã của quý vị, thái độ vị kỷ, quý vị cần một niềm tin mãnh liệt vào Thượng đế tạo hóa. Quý vị hoàn toàn quy phục Thượng đế. Như vậy sẽ làm giảm thiểu thái độ vị kỷ của quý vị. Trái lại Phật Giáo không có khái niệm về Thượng đế - cũng như Kỳ Na giáo và một một bộ phận của phái Số Luận [kể cả Lão giáo] không có đấng tạo hóa - do thế tự quý vị phải thực hiện một nổ lực để thay đổi tâm thức quý vị. Không thể thay đổi những thứ này qua cầu nguyện.

Loài người đã phát triển niềm tin tôn giáo tối thiểu hơn ba hay bốn nghìn năm qua. Bất cứ khi nào người ta gặp khó khăn, họ sẽ cầu nguyện và đặt niềm hy vọng của họ vào đấng tạo hóa hay Thượng đế hay đặt niềm tin của họ vào Đức Phật. Giống như người Tây Tạng - chúng tôi chỉ đặt niềm tin vào Đức Phật, nhưng thiếu sót về những hành động ở trình độ con người, vì thế đó là tại sao chúng tôi đã đánh mất quê hương, có phải không?

Vậy thì trong vài nghìn năm lại đây - tôi nghĩ tối thiểu là bốn hay năm nghìn năm - con người đã đặt hy vọngniềm tin tột cùng của họ vào Thượng đế. Nhưng bây giờ, hai thế kỷ qua, khoa học và kỷ thuật đã phát triền và bắt đầu thỏa mãn nhiều hy vọng của con người. Trong vài nghìn năm trở lại đây, chúng ta hoàn toàn dựa vào niềm tin; nhưng bây giờ, không có niềm tin, những kết quả rõ ràng đang được sản sinh bởi khoa học và kỷ thuật. Con người, kể của phương Đông, đang dựa vào khoa học và kỷ thuật, và đúng là nhiều thứ đã hấp dẫn họ.

Nhưng càng về sau của thế kỷ hai mươi, càng nhiều người nhiều người đang trải nghiệm những giới hạn của việc chỉ có những giá trị vật chất mà thôi. Những sản phẩm vật chất cung cấp cho chúng ta sự thoải mái vật chất và thật sự cho chúng ta một loại hài lòng nào đó về cấp độ cảm giảc, nhưng không phải ở trình độ tinh thần thật sự. Nếu quý vị  so sánh kinh nghiệm trình độ tinh thầntrình độ cảm giác, kinh nghiệm trình độ tinh thần là quan trọng hơn nhiều. Tất cả chúng ta kinh nghiệm rằng khi thể trạng tinh thần của chúng ta hạnh phúc và tĩnh lặng, sự đau đớn vật lý có thể bị chinh phục. Nhưng sự thoải mãi vật chất không thể khuất phục thể trạng tinh thần của chúng ta khi chúng ta có quá nhiều đau đớn tinh thần, quá nhiều lo lắng. Thế nên rõ ràng thể trạng tinh thần của chúng ta là thiết yếu hơn.

Ngày càng nhiều nhà khoa học và bác sĩ nhận ra thể trạng tinh thần là rất rất quan trọng cho sức khỏe của chúng ta. Một tâm thức khỏe mạnh liên hệ rất nhiều đến một thân thể khỏe mạnh. Nhưng một tâm thức khỏe mạnh không thể được phát sinh từ thuốc men hay bia rượu hay ma túy. Một tâm thức khỏe mạnh không thể được ban cho qua tiêm thuốc hay mua từ siêu thị. Một tâm thức khỏe mạnh phải được phát triển từ trong chính tâm thức - từ niềm tin đến một sự mở rộng nào đóp nhưng không, không thực tế. Một niềm tin vững vàng chân thành có thể chỉ đến qua sự nghiên cứu và khảo sát.

Cho nên tôi cảm thấy điểm mà Đông và Tây gặp nhau không phải vì những lý do tôn giáo, mà chỉ đơn giản là vì khoa học về tâm thức.

Những Khía Cạnh Khoa Học Của Truyền Thống Na Lan Đà

Tôi đã từng tham dự những buổi gặp gở với các nhà khoa học trong 30 năm qua. Vào lúc đầu - tôi nghĩ là 40 năm trước đây - tôi đã phát biểu tới một số người bạn của tôi rằng tôi muốn có một cuộc đối thoại với các nhà khoa học. Một phụ nữ Mỹ đã nói với tôi, "Khoa học là kẻ giết tôn giáo. Hãy cẩn thận." Nhưng rồi thì tôi đã nghĩ về truyền thống Na Lan Đà. Họ có thể khảo sát và thể nghiệm với giáo lý, và nếu họ tìm thấy bất cứ sự mâu thuẩn nào họ sẽ phủ nhận một cách chính xác những lời của chính Đức Phật. Chính Đức Phật cũng nói một cách rõ ràng: "Không môn đệ nào của tôi phải chấp nhận giáo huấn của tôi vì niềm tin, do lòng sùng mộ, mà đúng hơn là qua một sự khảo sát và thể nghiệm toàn diện." Các vị đạo sư có tự do để tiến hành sự khảo sát thậm chí chính lời của Đức Phật. Và cũng thế những người Tây Tạng chúng tôitừ ngữ drangdon và ngedon - giáo lý nhất thời [bất liễu nghĩa] và giáo lý tuyệt hảo [liễu nghĩa]. Vì thế cho nên tôi nhận ra tầm quan trọng của truyền thống Na Lan Đà là trên sự khảo sát hơn là niềm tin.

Toàn bộ hệ thống của Phật Giáo là căn cứ trên thực tại, thực tế ngày nay. Hai chân lý [chân đếtục đế] là những giải thích về thực tại. Rồi thì căn cứ trên thực tại ấy, chúng ta có thể thực hiện sự phân biệt về chánh kiếntà kiến [thấy đúng và thấy sai]. Cho nên nhằm để chứng minh đây là những cái thấy sai, chúng ta phải khảo sát thực tại của chúng. Luôn luôn có một lổ hổng giữa những hiện tướngthực tại. Nhiều cái thấy sai căn cứ trên các hiện tướng, và hầu hết những cảm xúc tàn phá đến từ những cái thấy sai - dính mắc , chấp ngã. Thế nên trên căn bản ấy, chúng taý tưởng về Bốn Chân Lý Cao Quý. Chỉ dựa vào lời của Đức Phật nói. "Ô, Đức Phật tuyên bố về Bốn Chân Lý Cao Quý," là sai. Chúng ta phải chứng minh Bốn Chân Lý Cao Quý. Chúng ta phải biết hệ thống thật sự hay cấu trúc của Bốn Chân Lý Cao Quý.

[Xem: giới thiệu vắn tắt về Bốn Chân Lý Cao Quý]

Vì thế tôi nhận ra rằng khoa học cũng cố gắng để tìm ra thực tại, sự thật - chân lý, nhưng dĩ nhiên ở một lãnh vực khác. Người Phật tử cũng đang cố gắng để tìm ra thực tại. Tôi  nghĩ cả hai thật sự là sự bổ sung cho nhau, tuyên bố nổi tiếng của Đặng Tiểu Bình: "Hãy tìm sự thật từ những sự  kiện." Cả hai truyền thống qua khảo sát cố gắng đẻ tìm sự thật, những sự kiện. Vì thế cho nên tôi nhận thức rõ rằng không có sự mâu thuẩn. Cung cách của khoa học về tiếp cận, khảo sát, là để giữ một thái độ hoài nghi. Phật Giáo giống y như vậy.

Thực Hiện Một Sự Phân Biệt Giữa Khoa Học Phật Giáo, Triết Học Phật Giáo, Và Tín Ngưỡng Phật Giáo

Vì cuộc gặp gở và hội nghị của chúng ta với những nhà khoa học, một số người đã dùng những chữ: "Cuộc gặp gở của khoa học và Phật Giáo," nhưng điều này là sai lầm. Chúng ta không thảo luận với các nhà khoa học về Phật Giáo, mà chỉ về khoa học Phật Giáo. Vì thế tôi đã thực hiện một sự phân biệt giữa khoa học Phật Giáo [khoa học đến từ kinh luận Phật Giáo], triết lý đến từ kinh luận Phật Giáo, và Phật Giáo. Vì thế Phật Giáo là cho những người Phật tử; nhưng khoa học Phật Giáotriết học Phật Giáophổ thông.

Tôi cảm thấy rằng đã từng có một loại gặp gở nào đó của Đông và Tây. Những nhà khoa học hàng đầu của phương Tây bây giờ đang thật sự chú ý nhiều đến giá trị của việc rèn luyện tâm thức, bởi vì điều này rất quan trọng và rất liên hệ đến sức khỏe của chúng ta, cho dù cho xã hội, gia đình hay cá nhân. Giống như Đại học Wisconsin, dưới sự lãnh đạo của Richard Davidson. Ông đã tiến hành một số chương trình về rèn luyện tâm thức, những thứ như thế này; và cũng như Đại học Stanford, vài năm gần đây. Tôi vừa thăm viếng họ. Tất cả những sự thí nghiệm của họ là sự nghiên cứu thật tuyệt vời. Và rồi thì Đại học Emory. Vì vậy, giống như thế, những thứ này không liên hệ gì với tôn giáo. Nó chỉ đơn giản rút ra những thông tin từ kinh luận Phật Giáo để sử dụng như một phương pháp khoa học để rèn luyện tâm thức, để làm lớn mạnh những phẩm chất tốt đẹp của tâm thức chúng ta [như bi mẫn và tình cảm] đến từ những bà mẹ của chúng ta.

Cho nên, giống như thế, tôi nghĩ rằng đấy là vị trí thích đáng cho Đông và Tây gặp gở. Đấy là cảm nhận của tôi. Không có tôn giáo, chỉ khoa học.

Ẩn Tâm Lộ Wednesday, December 17, 2014

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7975)
Thiều Chửu và Đoàn Trung Còn đều không giải thích được lý do tại sao chữ VẠN quay theo chiều này thì cát tường, quay theo chiều ngược lại thì nguy hại... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 7670)
Một trong những nền tảng quan trọng của đạo đức Phật giáotuân theo tinh thần bất bạo động... Tác giả: Charles K. Fink; Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 8780)
Đức Phật đã thuyết giảng như thế nào về sự đau đớn? Ngài bảo rằng sự bất an của chúng ta gồm có hai thể dạng khác nhau... Ajahn Brahmavamso, Hoang Phong dịch
(Xem: 7070)
Không là một khái niệm xuất hiện khá sớm trong thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy, trải dài đến Phật giáo Đại thừa... Thích Nữ Nhuận Bình
(Xem: 9297)
Tác phẩm “Tuệ Sanh Định” là một trong số ít tác phẩm được viết bởi Bậc Thầy Maha Boowa (Bhikkhu Ñanasampanno)... Nhất Như dịch Việt
(Xem: 8733)
Nguyên tác tiếng Anh của Darwinism, Buddhism and Christanity được đăng trong tạp chí The Maha Bodhi, Sri Lanka, Tập 82 Dec 1974 Thích Nữ Liên Hòa dịch
(Xem: 10187)
Trong Kinh Duy-Ma-Cật, khi Phật bảo Ngài Duy-Ma-Cật thị hiện cõi nước Diệu-Hỷ có Vô-Động Như-Lai, các Bồ-Tát, và đại chúng nước ấy cho đại chúng xem... Toàn Không
(Xem: 8167)
Chân Nguyên kết luận: “Đức Phật Thích Ca đã tự chính mình đem thánh hiệu mà dạy cho hai người già, điều đó không còn có thể nghi ngờ gì nữa”... Thích Phước An
(Xem: 9509)
Một sự kết hợp thú vị giữa đạo đức chính trực, sự phục tùng, lòng khoan dung, cầu nguyện, khả năng tự lực, tự thanh lọc và tình yêu... Mai Thục
(Xem: 6912)
Mũi tên biểu trưng cho một sự đau đớn trên thân xác, nhưng cũng có thể là nguyên nhân gây ra một sự hoảng sợ trong tâm thần... Hoang Phong
(Xem: 7955)
Yết-ma, được phiên âm từ karmam[1] của tiếng Phạn. Hán dịch là “biện sự tác pháp”, được định nghĩa: “Vạn sự do tư thành biện cố”... Thích Minh Cảnh
(Xem: 8337)
Quảng bản kinh được Pháp Nguyệt dịch năm 732, rồi đến Bát NhãLợi Ngôn tái dịch năm 790. Cho đến Thi Hộ đời nhà Tống dịch lần chót là có tất cả 7 bản... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 8618)
Bồ tát hành đạo bắt đầu từ giữa lòng xã hội nên sự tiếp cận với mọi thống khổ nhân sinh là lẽ tất nhiên... Thích Tuệ Sỹ
(Xem: 8365)
Thiền sư Vĩnh Bình Đạo Nguyên, hoặc Đạo Nguyên Hy Huyền (1200-1253), là vị tổ sáng lập ra dòng Tào ĐộngNhật Bản... Ngọc Bảo dịch
(Xem: 8481)
Một cách vắn tắt, đó là vị trí của nữ giới trong Phật Giáo. Người phụ nữ xứng đáng có một chỗ đứng danh dự ngang hàng với nam giới... Piyadassi Mahathera; Dịch giả: Phạm Kim Khánh
(Xem: 11223)
Người vợ cần quán chiếu tâm mình thật cẩn thận trong một thời gian và từ đó đi đến quyết định đúng cho cuộc đời của mình... Mithra Wettimuny; Diệu Liên Lý Thu Linh chuyển ngữ
(Xem: 8533)
Đức Thế Tôn là người đầu tiên đòi quyền lợi cho giới nữ, đưa vị trí giới nữ ngang bằng nam giới... Thích Hạnh Bình
(Xem: 10663)
Hội Phật giáo Trung Quốc ước tính rằng hiện có khoảng 180,000 tăng niTrung Quốc... Nguyên tác: Tịnh Nhân; Thích Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 9431)
Ngài đã gọi dứt khoát, rõ ràng “tự phá thai mình” là một tội, phải chịu quả báo hết sức nặng nề và kéo dài... Chân Minh
(Xem: 9212)
Làm thế nào để những cha mẹ Phật tử có thể dạy tốt lời dạy của Phật giáo cho con em của họ?... Helmuth Kalr; Thích Minh Diệu
(Xem: 9532)
Rồi lần lượt không bao lâu, khi Ðức Phật đúng 80 tuổi đời, 45 tuổi đạo, Ngài cũng giã từ Tứ chúng để an hưởng quả vị Vô Dư Niết-bàn... Thích Thiện Minh
(Xem: 10299)
Con người không bao giờ ngưng tìm kiếm trong thiên nhiên để mong thâu thập được nhiều thứ hơn nữa nhằm chất đầy cái nhà kho mãi mãi thiếu thốn của mình... Tuệ Sỹ
(Xem: 16151)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19115)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 8638)
Long Thọ (Nagarjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán mà ngài còn được coi là vị Phật thứ hai sau đức Thế Tôn trong lịch sử phát triển Phật giáo.... Vũ Thế Ngọc
(Xem: 7998)
Như thế giải thoát cho vô số vô biên chúng sinh, nhưng thực ra không có chúng sinh nào được giải thoát... Vũ Thế Ngọc
(Xem: 24106)
Cúng dườngbố thí vốn cùng một nghĩa "cho". Cái gì của mình mà có thể đem ra "cho" người khác, thì gọi là "cho"... TT Thích Nhất Chân
(Xem: 9359)
Lịch Sử Văn Học Phật Giáo Tiếng Sanskrit (Literary History of Sanskrit Buddhism - Nguyên tác: J. K. Nariman; Thích Nhuận Châu dịch Việt
(Xem: 7607)
Yết-ma là phiên âm từ karman của tiếng Phạn. Hán dịch là «biện sự tác pháp», và thường được các luật sư Trung quốc giải thích rằng «Vạn sự do tư thành biện cố.»... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 10505)
Chúng ta có thể thấy được đức tính của những khóm tre cây trúc, của những dòng sông, của cây mai, của đất, của áng mây... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17632)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 6917)
Giáo dục Phật giáo – nền giáo dục minh triết, vốn ở cao, ở trên triết học... Minh Đức Triều Tâm Ảnh
(Xem: 8839)
Đọc công trình của Francois Jullien những độc giả "Tây giả" (Á và Âu) có thể thấy được rằng người bà con nghèo của triết học có những sở đắc... Nguyên Ngọc dịch
(Xem: 12308)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 7653)
Chúng ta thường nghĩ là mình đã hiểu nhưng thật ra có lẽ ta chưa hiểu rõ thế nào là quy y Tam Bảo... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 14541)
Tăng đoànhình ảnh của Đức Phật, mang trọng trách thừa Như Lai sứ, hành Như Lai sự... Thích Phước Sơn
(Xem: 8195)
Ðại Tạng Kinh là một công trình tập thành tâm huyết của bao nhiêu thế hệ Tổ Sư, cổ đức Ấn Ðộ, Trung Hoa, Nhật Bản, Cao Ly... Liên Hương kính ghi
(Xem: 7765)
Trong Phật giáo đại thừa nói rất rõ: Phiền não tức bồ đề, Niết bànsinh tử. Niết bànsinh tử là một cặp bài trùng, không có cái này thì không có cái kia...
(Xem: 8810)
Có thể nói “tâm” là cơ sở và động lực giải nghiệp, giải hạn khổ ách đối với con người trong mọi không giannăng lực chuyển nghiệp.
(Xem: 14768)
Tổ tiên ta đã Phật hóa gia đình, giáo dục con cháu phải biết chia sẻ hạnh phúc, ban rải tình thương đến mọi người, mọi loài... TT Thích Lệ Trang
(Xem: 9234)
"Khi cúng dường tứ sự đến cho một vị tỳ-khưu, hai vị tỳ-khưu, cận sự nam nữ đừng nghĩ đến cá nhân vị ấy mà cứ khởi tâm cúng dường Tăng..." Tâm Tịnh
(Xem: 12287)
Từ Trạch Pháp này rất quen thuộc trong Phật Giáo, nhưng đã có mấy người Phật tử chịu tìm hiểu tận tường... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 8470)
Theo Phật giáo, con người sinh ra từ vô thủy (thỉ) đến giờ đã trải qua vô lượng đời, và sẽ còn tiếp nối vô số đời nữa ở tương lai cho đến vô chung... Toàn Không
(Xem: 14462)
Hoa dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền-Trang; Việt dịch: HT Thích Trí-Quang; Anh dịch: Buddhist Text Translation Society
(Xem: 12425)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 8369)
Chúng tôi xin bàn về một số điểm liên hệ, nhất là làm rõ về niên đại Hán dịch của tác phẩm, từ đó chúng tôi xin ghi nhận một số từ ngữ, thuật ngữ Phật học đã được Hán dịch vào thời ấy... Đào Nguyên
(Xem: 10110)
Dù tâm mộ đạo, nhưng Phật tử còn theo nghi lễ xa xưa và kinh điển cổ ngữ, nên việc tu tập không còn phù hợp với nhu cầu của thời đại mới... Johan Galtung, Đỗ Kim Thêm
(Xem: 7728)
Trong việc quảng bá sự hiểu biết, vai trò của người Thầy thật hết sức cần thiết, thế nhưng người Thầy thì cũng phải có đầy đủ khả năng... Hoang Phong
(Xem: 15988)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý. ... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 8179)
Nói đến văn hóa tức là nói đến tổ chức đời sống của một dân tộc, trong đó bao gồm các mặt kinh tế, xã hội, luật lệ, văn chương, mỹ thuật, tôn giáo, v.v... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 8237)
Chân: chân thật, không hư vọng. Như: như thường, không biến đổi, không sai chạy. Chân Như tức là Phật Tánh, cái tánh chân thật, không biến đổi, như nhiên, không thiện, không ác, không sanh không diệt... Lâm Như Tạng
(Xem: 7827)
Thủy Giác: mới tỉnh giác. Cái bổn tánh của hết thảy chúng sanh sẳn có lòng thanh tịnh tự tánh, đủ cái đức vốn chiếu sáng tự thuở nay, đó kêu là Bổn Giác... Lâm Như Tạng
(Xem: 11138)
“Bản Giác : Tâm thể của chúng sinh tự tánh thanh tịnh, lìa mọi vọng tưởng, sáng tỏ vằng vặc, có đức giác tri. Đó chẳng phải do tu thành mà như thế, mà chính là tính đức tự nhiên bản hửu, nên gọi là Bản Giác... Lâm Như Tạng
(Xem: 9097)
Thượng tọa Thích Thuyền Ấn trình bày tại Viện Đại Học Vạn Hạnh vào ngày 9-4-1967. Sau đó, bài diễn thuyết này được in trong tập Diễn Đàn Vạn Hạnh, số 1, do Ban Tu thư Đại Học Vạn Hạnh ấn hành năm 1967.
(Xem: 9234)
Bản Chất Của Tâm Thức - Tác giả: His Holiness the Fourteenth Dalai Lama, Anh dịch: Alexander Berzin, Tuệ Uyển chuyển ngữ
(Xem: 8370)
Niết bàn, nirvana (S), nibbana (P), trong Sanskrit và Pali có nghĩa bóng là, một "thể trạng dập tắt". Hình ảnh của một ngọn lửa đã bị dập tắt qua việc không còn nhiên liệu nữa... Tác giả Alexander Berzin; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 7513)
Long Thọ nói, giáo pháp của Chư Phật y trên hai chân lý, tương đối hay thế tục đế, và tuyệt đối hay thắng nghĩa đế. Những ai không phân biệt được hai chân lý này, không thể hiểu thấu giáo pháp thâm sâu... Thích Tuệ Sỹ
(Xem: 7969)
Kinh Hoa nghiêm, nói một cách đơn giản, là bộ kinh nghiên cứu về Pháp giới và cách phát khởi trí tuệ để thể nhập Pháp giới. Trong Pháp giớilý sự vô ngạisự sự vô ngại... Hồng Dương
(Xem: 8774)
Các nhà khảo cổ phát hiện ra bằng chứng về 1 ngôi chùa Phật giáo cổ nhất chưa từng được khám phá, niên đại khoảng năm 550 TCN... National Geographic
(Xem: 9273)
Học Phật Nên Biết - Tác Giả: Pháp Sư Thánh Nghiêm, Pháp Sư Ấn Thuận, Pháp Sư Kim Minh và Phương Khắc Minh; Dịch Việt: Thích Nguyên Thành
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant