Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 2: Điểm gặp nhau của Đông Tây

25 Tháng Hai 201520:16(Xem: 7309)
Phần 2: Điểm gặp nhau của Đông Tây
QUÁN CHIẾU VỀ SỰ TIẾP CẬN PHẬT GIÁO THỰC TIỂN 

Reflections on the Realistic Approach of Buddhism:
Talks to Former Dharamsala Residents from the West
His Holiness the Fourteenth Dalai Lama 
Dharamsala, India, November 2 – 3, 2010 
Ghi lại:  Sean Jones và Michael Richards 
Hiệu đính: Luke Roberts và Alexander Berzin
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển



PHẦN HAI: ĐIỂM GẶP NHAU CỦA ĐÔNG TÂY

Tri thức phương Đông và  khoa học  phương Tây

Những điểm gặp nhau giữa Đông và Tây là gì, tôi nghĩ 30 hay 40 năm trước tôi đã đề cập rằng tri thức phương Đông, chính yếuẤn Độ đây - một cách đặc biệt tri thức về những cảm xúctâm thức - là rất chi tiết; và đây là bởi vì có sự thực tập về tập trung [chỉ] và phân tích [quán]. Những thứ này không căn cứ trên tín ngưỡng hay ngoan đạo; chúng là để cho việc rèn luyện tâm thức.  Một cách tự nhiên, bất cứ giáo huấn nào với sự thực hành tập trung và phân tích sẽ có một sự giải thích về tâm thức: tâm thức hoạt động như thế nào, các cảm xúc hoạt động như thế nào.

Rồi thì Phật Giáo cũng có bát nhã hay tuệ [tỉnh thức phân biệt], và cũng trong Phật Giáo quan điểm then chốt là giáo thuyết vô ngã hay anatma. Cho nên nhằm để tranh luận về thuyết vô ngã, tự nhiên quý vị cần một sự thấu hiểu chi tiết hơn về si mê và những quan điểm bị bóp méo hay vọng tưởng. Và đối với những quan điểm vọng tưởng, năng lượng đối kháng duy nhất là cái thấy đúng đắn hay chánh kiến, không phải cầu nguyện, không phải chỉ sự thiền tập mà thôi. Rồi thì trong Mật thừa cũng có thảo luận về những cấp độ khác nhau của các thể trạng tinh thần - thể trạng tỉnh thức, thể trạng giấc mộng, thể trạng ngũ, hay thể trạng vào những lúc ngất xỉu. [đây là tất cả những thí dụ của tri thức phương Đông về tâm thức].

Dĩ nhiên, khoa học đến từ phương Tây. Những nhà khoa học, trong hầu hết mọi trường hợp, đến từ quá khứ Do Thái - Ki Tô giáo, thế nên một cách tự nhiên họ không để ý nhiều đến tâm thứccảm xúc và những thứ loại này. Trong truyền thống Do Thái - Ki Tô giáo, trình độ thực tập là giống [như những truyền thống tôn giáo phương Đông] - sự thực hành về bi mẫn, tha thứ, bao dung, cũng như toại nguyện và kỷ luật tự giác. Điều này là giống nhau trong tất cả những tôn giáo quan trọng. Nơi mà những tôn giáo này khác nhau là trong những cung cách thúc đẩy những giá trị nhân tính căn bản.

Có những tôn giáo căn cứ trên niềm tin vào một đấng tạo hóa, kể cả những truyền thống Ấn giáo [chấp nhận một đấng tạo hóa]; và bởi vì một cách tối hậu tùy thuộc vào đấng tạo hóa, chỉ niềm tin thôi là đã đầy đủ. Nhằm để giảm thiểu tự ngã của quý vị, thái độ vị kỷ, quý vị cần một niềm tin mãnh liệt vào Thượng đế tạo hóa. Quý vị hoàn toàn quy phục Thượng đế. Như vậy sẽ làm giảm thiểu thái độ vị kỷ của quý vị. Trái lại Phật Giáo không có khái niệm về Thượng đế - cũng như Kỳ Na giáo và một một bộ phận của phái Số Luận [kể cả Lão giáo] không có đấng tạo hóa - do thế tự quý vị phải thực hiện một nổ lực để thay đổi tâm thức quý vị. Không thể thay đổi những thứ này qua cầu nguyện.

Loài người đã phát triển niềm tin tôn giáo tối thiểu hơn ba hay bốn nghìn năm qua. Bất cứ khi nào người ta gặp khó khăn, họ sẽ cầu nguyện và đặt niềm hy vọng của họ vào đấng tạo hóa hay Thượng đế hay đặt niềm tin của họ vào Đức Phật. Giống như người Tây Tạng - chúng tôi chỉ đặt niềm tin vào Đức Phật, nhưng thiếu sót về những hành động ở trình độ con người, vì thế đó là tại sao chúng tôi đã đánh mất quê hương, có phải không?

Vậy thì trong vài nghìn năm lại đây - tôi nghĩ tối thiểu là bốn hay năm nghìn năm - con người đã đặt hy vọngniềm tin tột cùng của họ vào Thượng đế. Nhưng bây giờ, hai thế kỷ qua, khoa học và kỷ thuật đã phát triền và bắt đầu thỏa mãn nhiều hy vọng của con người. Trong vài nghìn năm trở lại đây, chúng ta hoàn toàn dựa vào niềm tin; nhưng bây giờ, không có niềm tin, những kết quả rõ ràng đang được sản sinh bởi khoa học và kỷ thuật. Con người, kể của phương Đông, đang dựa vào khoa học và kỷ thuật, và đúng là nhiều thứ đã hấp dẫn họ.

Nhưng càng về sau của thế kỷ hai mươi, càng nhiều người nhiều người đang trải nghiệm những giới hạn của việc chỉ có những giá trị vật chất mà thôi. Những sản phẩm vật chất cung cấp cho chúng ta sự thoải mái vật chất và thật sự cho chúng ta một loại hài lòng nào đó về cấp độ cảm giảc, nhưng không phải ở trình độ tinh thần thật sự. Nếu quý vị  so sánh kinh nghiệm trình độ tinh thầntrình độ cảm giác, kinh nghiệm trình độ tinh thần là quan trọng hơn nhiều. Tất cả chúng ta kinh nghiệm rằng khi thể trạng tinh thần của chúng ta hạnh phúc và tĩnh lặng, sự đau đớn vật lý có thể bị chinh phục. Nhưng sự thoải mãi vật chất không thể khuất phục thể trạng tinh thần của chúng ta khi chúng ta có quá nhiều đau đớn tinh thần, quá nhiều lo lắng. Thế nên rõ ràng thể trạng tinh thần của chúng ta là thiết yếu hơn.

Ngày càng nhiều nhà khoa học và bác sĩ nhận ra thể trạng tinh thần là rất rất quan trọng cho sức khỏe của chúng ta. Một tâm thức khỏe mạnh liên hệ rất nhiều đến một thân thể khỏe mạnh. Nhưng một tâm thức khỏe mạnh không thể được phát sinh từ thuốc men hay bia rượu hay ma túy. Một tâm thức khỏe mạnh không thể được ban cho qua tiêm thuốc hay mua từ siêu thị. Một tâm thức khỏe mạnh phải được phát triển từ trong chính tâm thức - từ niềm tin đến một sự mở rộng nào đóp nhưng không, không thực tế. Một niềm tin vững vàng chân thành có thể chỉ đến qua sự nghiên cứu và khảo sát.

Cho nên tôi cảm thấy điểm mà Đông và Tây gặp nhau không phải vì những lý do tôn giáo, mà chỉ đơn giản là vì khoa học về tâm thức.

Những Khía Cạnh Khoa Học Của Truyền Thống Na Lan Đà

Tôi đã từng tham dự những buổi gặp gở với các nhà khoa học trong 30 năm qua. Vào lúc đầu - tôi nghĩ là 40 năm trước đây - tôi đã phát biểu tới một số người bạn của tôi rằng tôi muốn có một cuộc đối thoại với các nhà khoa học. Một phụ nữ Mỹ đã nói với tôi, "Khoa học là kẻ giết tôn giáo. Hãy cẩn thận." Nhưng rồi thì tôi đã nghĩ về truyền thống Na Lan Đà. Họ có thể khảo sát và thể nghiệm với giáo lý, và nếu họ tìm thấy bất cứ sự mâu thuẩn nào họ sẽ phủ nhận một cách chính xác những lời của chính Đức Phật. Chính Đức Phật cũng nói một cách rõ ràng: "Không môn đệ nào của tôi phải chấp nhận giáo huấn của tôi vì niềm tin, do lòng sùng mộ, mà đúng hơn là qua một sự khảo sát và thể nghiệm toàn diện." Các vị đạo sư có tự do để tiến hành sự khảo sát thậm chí chính lời của Đức Phật. Và cũng thế những người Tây Tạng chúng tôitừ ngữ drangdon và ngedon - giáo lý nhất thời [bất liễu nghĩa] và giáo lý tuyệt hảo [liễu nghĩa]. Vì thế cho nên tôi nhận ra tầm quan trọng của truyền thống Na Lan Đà là trên sự khảo sát hơn là niềm tin.

Toàn bộ hệ thống của Phật Giáo là căn cứ trên thực tại, thực tế ngày nay. Hai chân lý [chân đếtục đế] là những giải thích về thực tại. Rồi thì căn cứ trên thực tại ấy, chúng ta có thể thực hiện sự phân biệt về chánh kiếntà kiến [thấy đúng và thấy sai]. Cho nên nhằm để chứng minh đây là những cái thấy sai, chúng ta phải khảo sát thực tại của chúng. Luôn luôn có một lổ hổng giữa những hiện tướngthực tại. Nhiều cái thấy sai căn cứ trên các hiện tướng, và hầu hết những cảm xúc tàn phá đến từ những cái thấy sai - dính mắc , chấp ngã. Thế nên trên căn bản ấy, chúng taý tưởng về Bốn Chân Lý Cao Quý. Chỉ dựa vào lời của Đức Phật nói. "Ô, Đức Phật tuyên bố về Bốn Chân Lý Cao Quý," là sai. Chúng ta phải chứng minh Bốn Chân Lý Cao Quý. Chúng ta phải biết hệ thống thật sự hay cấu trúc của Bốn Chân Lý Cao Quý.

[Xem: giới thiệu vắn tắt về Bốn Chân Lý Cao Quý]

Vì thế tôi nhận ra rằng khoa học cũng cố gắng để tìm ra thực tại, sự thật - chân lý, nhưng dĩ nhiên ở một lãnh vực khác. Người Phật tử cũng đang cố gắng để tìm ra thực tại. Tôi  nghĩ cả hai thật sự là sự bổ sung cho nhau, tuyên bố nổi tiếng của Đặng Tiểu Bình: "Hãy tìm sự thật từ những sự  kiện." Cả hai truyền thống qua khảo sát cố gắng đẻ tìm sự thật, những sự kiện. Vì thế cho nên tôi nhận thức rõ rằng không có sự mâu thuẩn. Cung cách của khoa học về tiếp cận, khảo sát, là để giữ một thái độ hoài nghi. Phật Giáo giống y như vậy.

Thực Hiện Một Sự Phân Biệt Giữa Khoa Học Phật Giáo, Triết Học Phật Giáo, Và Tín Ngưỡng Phật Giáo

Vì cuộc gặp gở và hội nghị của chúng ta với những nhà khoa học, một số người đã dùng những chữ: "Cuộc gặp gở của khoa học và Phật Giáo," nhưng điều này là sai lầm. Chúng ta không thảo luận với các nhà khoa học về Phật Giáo, mà chỉ về khoa học Phật Giáo. Vì thế tôi đã thực hiện một sự phân biệt giữa khoa học Phật Giáo [khoa học đến từ kinh luận Phật Giáo], triết lý đến từ kinh luận Phật Giáo, và Phật Giáo. Vì thế Phật Giáo là cho những người Phật tử; nhưng khoa học Phật Giáotriết học Phật Giáophổ thông.

Tôi cảm thấy rằng đã từng có một loại gặp gở nào đó của Đông và Tây. Những nhà khoa học hàng đầu của phương Tây bây giờ đang thật sự chú ý nhiều đến giá trị của việc rèn luyện tâm thức, bởi vì điều này rất quan trọng và rất liên hệ đến sức khỏe của chúng ta, cho dù cho xã hội, gia đình hay cá nhân. Giống như Đại học Wisconsin, dưới sự lãnh đạo của Richard Davidson. Ông đã tiến hành một số chương trình về rèn luyện tâm thức, những thứ như thế này; và cũng như Đại học Stanford, vài năm gần đây. Tôi vừa thăm viếng họ. Tất cả những sự thí nghiệm của họ là sự nghiên cứu thật tuyệt vời. Và rồi thì Đại học Emory. Vì vậy, giống như thế, những thứ này không liên hệ gì với tôn giáo. Nó chỉ đơn giản rút ra những thông tin từ kinh luận Phật Giáo để sử dụng như một phương pháp khoa học để rèn luyện tâm thức, để làm lớn mạnh những phẩm chất tốt đẹp của tâm thức chúng ta [như bi mẫn và tình cảm] đến từ những bà mẹ của chúng ta.

Cho nên, giống như thế, tôi nghĩ rằng đấy là vị trí thích đáng cho Đông và Tây gặp gở. Đấy là cảm nhận của tôi. Không có tôn giáo, chỉ khoa học.

Ẩn Tâm Lộ Wednesday, December 17, 2014

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2022)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 3023)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2638)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3547)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3374)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4209)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3722)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
(Xem: 4266)
Khi chúng ta mới học lần đầu rằng cứu cánh của sự tu tập đạo Phật có tên gọi là Nibbana (Nirvana, Niết-bàn),
(Xem: 2354)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
(Xem: 3517)
Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn.
(Xem: 4195)
Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác.
(Xem: 3977)
“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.
(Xem: 2917)
Trong các kinh thường ví chân tâm là viên ngọc, như viên ngọc như ý, viên ngọc ma ni, lưới Trời Đế Thích…Bài kệ này chỉ thẳng Viên Ngọc Tâm
(Xem: 3397)
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
(Xem: 3520)
Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào?
(Xem: 4581)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 3917)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”
(Xem: 4804)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 4070)
Mất 11 năm khổ công tầm đạo, Đức Phật Thích Ca đã đạt đại giác ngộ sau 49 ngày quyết tâm thiền định dưới cội cây bồ đề.
(Xem: 3057)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”...
(Xem: 3797)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao?
(Xem: 3946)
Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ, tánh tướng tịch nhiên, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt.
(Xem: 3115)
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phậtdi giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.”
(Xem: 3636)
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN).
(Xem: 4485)
Đức Phật, một nhân vật lịch sử 3000 năm về trước, ra đời tại Bắc Ấn, là bậc giác ngộ toàn triệt, là bậc đạo sư với nghi biểu đặc biệt xuất hiện ở đời.
(Xem: 3750)
Con người sanh ra để hưởng thụ qua lục dục như tài, sắc, danh, thực, thùy (Ngủ nghỉ), .v.v. Con người trải qua một chu kỳ già, bệnh và cuối cùng là chết.
(Xem: 2286)
Nguyên bản: Teachings On The Eight Verses On Training The Mind. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Anh dịch: Thupten Jinpa. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 2653)
Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được.
(Xem: 3065)
Kinh Tiểu Duyên (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp.....
(Xem: 2753)
Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất.
(Xem: 4622)
“Thiên đường có lối sao chẳng đi Địa ngục không cửa dấn thân vào”
(Xem: 4969)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 2862)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê,
(Xem: 5355)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 2889)
Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật.
(Xem: 3323)
Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất.
(Xem: 4416)
Nguyên tử giải phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
(Xem: 4972)
Luân hồinhân quả là hai sự kiện tương quan. Bởi chúng sanh còn nghiệp trái của nhân quả thiện ác nên mới bị luân hồi.
(Xem: 4734)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 3281)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa...
(Xem: 4586)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 4310)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 6172)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(Xem: 3534)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(Xem: 4067)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(Xem: 6048)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(Xem: 5440)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(Xem: 4097)
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
(Xem: 33266)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 3202)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(Xem: 4193)
Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này
(Xem: 4763)
Kinh Biệt Giải Thoát Giới - tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya
(Xem: 3115)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(Xem: 3844)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(Xem: 3581)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(Xem: 6587)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 2803)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
(Xem: 3255)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
(Xem: 4618)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
(Xem: 3485)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant