Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Thấu Hiểu Sự ThậtCần Thiết

28 Tháng Ba 201517:06(Xem: 7875)
Thấu Hiểu Sự Thật Là Cần Thiết
Thấu Hiểu Sự ThậtCần Thiết

Đức Đạt Lai Lạt Ma 
Tuệ Uyển chuyển ngữ


Phần nhiều dự định của chúng ta giống như chờ đợi để bơi lội 
trong một khe núi khô
Nhiều hành vi của chúng ta giống như công việc quản lý trong một giấc mơ
Mê sảng với cơn sốt, người ta không nhận biết cơn sốt.
-Những Từ Ngữ Thánh Thiện của Patrul Rinpoche-

How to See Yourself as You Really AreNếu quý vị không có tuệ giác trong cung cách chính mình và mọi thứ thật sự là, quý vị không thể nhận ra và xa lánh những chướng ngại của giải thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi, và ngay cả quan trọng hơn, những chướng ngại để giúp đở người khác.  Không có tuệ giác quý vị không thể đối phó với bất cứ vấn đề nào ngay gốc rể của nó hay loại trừ những hạt giống có thể sinh sản nó trong tương lai.

Đề chiến thắng nhận thức sai lầm rằng mọi vậtcon người tồn tại   như những thực thể tự tồn, tâm thức độc lập, thật cần yếu để quán chiếu tâm thức của chính mình để khám phá sai lầm này đang bị lừa dối như thế nào, và làm thế nào những cảm xúc tàn phá khác sinh khởi với si mê thế ấy như sự hổ trợ của chúng.   Căn cứ vào việc tham dục, thù ghét, tự hào, ghen tỵ, và sân hận xuất phát từ sự phóng đại tầm quan trọng của những phẩm chất như xinh đẹpxấu xí, thì điều chủ yếu là phải thấu hiểu con ngườimọi vật thật sự tồn tại như thế nào, mà không có sự phóng đại.

Cách duy nhất để đạt đến sự thông hiểu này là thuộc nội tại. Quý vị cần từ bỏ những sự tin tưởng sai lầm, quý vị đang chồng thêm vào cung cách mọi vật thật sự là, không có phương tiện ngoại tại để loại trừ tham dục và thù hận. Nếu quý vị bị đâm bởi một cây gai, quý vị có thể lấy nó ra vĩnh viễn với một cây kim, nhưng để xa rời một thái độ nội tâm, quý vị phải thấy một cách rõ ràng những sự tin tưởng sai lầm mà nó căn cứ trên ấy.  Điều này kêu gọi cho việc sử dụng lý trí để khám phá tính bản nhiên của mọi hiện tượng và rồi thì tập trung trên những gì đã được thấu hiểu.  Đây là con đường đưa đến giải thoáttoàn giácNhư Pháp Xứng nói:

Không có sự đánh mất niềm tin [có tự tính] trong đối tượng

của một cảm xúc phiền não

Nó không thể bị từ bỏ

Sự từ bỏ tham dục, thù hận, và v.v…

Là những điều liên hệ đến sự nhận thức sai lầm những thuận lợibất lợi.

Qua việc không thấy những thứ ấy trong những đối tượng.

[Thì] không phải qua những phương pháp ngoại tại.

Khi quý vị thấy rằng tất cả những cảm xúc rắc rối – và quả thực tất cả những vấn đề - sinh khởi từ căn bản của một sự thấu hiểu sai lầm, quý vị sẽ muốn từ bỏ sự si mê như vậy.  Ý nghĩa để hoàn tất điều này là để phản chiếu trên lý luận đã có thể cho thấy sự thêm thắt [do vọng tưởng] về niềm tin trong sự tồn tại tự tínhhoàn toàn không thể tìm thấy được, và rồi thì tập trung trên tính không của tự tính qua thiền quán.  Như Nguyệt Xứng, một môn đồ của Long ThọThánh Thiên nói:

Thấy với tâm thức của họ rằng

tất cả những cảm xúc phiền não và những sự bất toàn

Sinh khởi từ chính sự quán sát của một người

 như là tồn tại một cách cố hữu (có tự tính)

Và sự biết rằng tự ngã là đối tượng của điều này,

Hành giả du già bác bỏ chính sự tồn tại tự tính của họ.

Thánh Thiên đã nói tương tự rằng sự thể chứng vô ngãcon đường để chấm dứt vòng sinh tử luân hồi:

Khi vô ngã được thấy trong những đối tượng,

Hạt giống của sinh tử luân hồi bị phá nát.

Khi gốc rể của cây cối bị cắt đứt, tất cả những cành to, nhánh nhỏ, và lá bị khô héo.  Trong cùng cách ấy, tất cả những rắc rối của sinh tử luân hồi bị tiêu mòn bằng việc xóa bỏ sự thấu hiểu sai lầmnguyên nhân của chúng.

Những học giả - hành giả quan trọng nhất của Ấn Độ - Long Thọ, Thánh Thiên, Nguyệt Xứng, và Pháp Xứng – đã thấu hiểu rằng chân lý không thể thân chứng được mà không có việc thấy rằng chúng ta chồng thêm [do vọng tưởng] lên con người và sự vật một thể trạng cứng nhắc và thường còn mà nó thật sự không có ở đấy.  Tính không của sự thêm thắt ấy phải được thấu hiểu, và để làm điều này người ta đã phân tích những hiện tượng qua kinh điển và qua lý luận.

LÀM THẾ NÀO ĐỂ THIỀN QUÁN ĐẦY ĐỦ Ý NGHĨA

Thật thiết yếu để thấu hiểu tiến trình này,  bởi vì nếu quý vị không thiền quán trên sự vắng bóng của sai lầm thì đấy là sự phá sản, việc thiền quán của quý vị sẽ hoàn toàn không đả động gì tới vấn đề, cho dù quý vị có thể nghĩ rằng sự thiền quán của quý vị là thâm sâu như thế nào.  Mặc dù quý vị có thể thành công trong việc rút lui tâm thức quý vị khỏi những đối tượng phiền não, nhưng điều này không hình thành việc hòa nhập vào chân lý.  Quý vị phải thể nhận một cách sinh động rằng những đối tượng đơn giản không tồn tại theo cách mà si mê dẫn dắt chúng hiện hữu.

Nếu ai đấy đang khổ đau vì hoảng sợ do người ấy tin tưởng một cách sai lầm rằng có một con rắn ở ngay ngoài cửa, thì chằng lợi ích gì nếu chỉ rằng có một cây xanh ở phía bên kia của ngôi nhà; thay vì thế quý vị cần chỉ cho người ấy rằng thật sự không có con rắn bên ngoài cửa.  Trong cùng cách này, quý vị cần thấu hiểu rằng chính những đối tượng mà quý vị tưởng tượng tồn tại trong chính chúng và của chính chúng không thật sự tồn tại bằng cách ấy nhằm để vượt thắng những vấn đề do nhận thức sai lầm này tạo nên.  Chỉ rút lui tâm thức quý vị khỏi suy nghĩ về bất cứ vấn đề gì hay suy nghĩ một cách đơn thuần về điều gì khác sẽ không chạm đến gốc rể của vấn đề.

Quý vị phải suy nghĩ  đồng thời rằng nếu những đối tượng thật sự tồn tại trong cách mà chúng dường như thế, kết quả hợp lý sẽ không thể được, và trên căn bản này quý vị có thể hoàn toàn cảm ơn rằng những hiện tượng không tồn tại trong cách này.  Con người và sự vật có thể vẫn dường như tồn tại một cách cụ thểđộc lập từ chính phía của chúng, nhưng quý vị biết rằng chúng không như thế.  Dần dần, sự tỉnh thức này sẽ làm yếu dần những nhận thức sai lầm của quý vị và giảm bớt những rắc rối mà chúng gây nên.  Vì sự thừa nhận hiện tướng như thật sự là căn bản của vấn đề, nên sự đối trị là đi đến thân chứng sự lừa dối của những hiện tướng qua lý luận.

BA CÁCH CỦA VIỆC THẤY NHỮNG ĐỐI TƯỢNG

Có ba kiểu mẫu của thao tác tinh thần trên một đối tượng:

1-    Tưởng tượng đối tượng với sự tồn tại một cách cố hữu, mà đấy là điều mà si mê đã làm

2-    Nhận thức đối tượng không tồn tại tự tính, và đấy là tuệ giác hành động

3-    Nghĩ đối tượng không có phẩm chất hoặc là tồn tại cố hữu hay sự vắng mặt của tự tính, giống như khi thấy điều gì đấy một cách thông thường, như một cái nhà.

Ngay cả khi quý vị không thấy một đối tượng như tồn tại một cách cố hữu, cách mà si mê làm, quý vị không nhất thiết thấy nó như không tồn tại một cách cố hữu, cách mà tuệ giác hành hoạt, vì có những tư tưởng không hoạt động trong cả hai cách ấy, nó rơi vào trường hợp thứ ba.  Đây là tại sao quý vị cần phác họa một cách đặc thù những hiện tượng đó, những thứ mà quý vị đang làm thành lỗi lẫm nền tảng này.  Chỉ nghĩ về những thứ khác sẽ không thủ tiêu được si mê.  Sẽ giống như tìm kiếm một kẻ cướp trong thành phố sau khi kẻ đó đã chạy vào rừng.

Khi si mê được vượt thắng, quý vị sẽ nhổ gốc những tin tưởng sai lầm đã chồng thêm lên đối tượng những phẩm chất như xinh đẹpxấu xí vượt hơn những gì chúng thật có.  Rồi thì tất cả những cảm xúc phiền não khác – tham dục, thù hận, ghen tỵ, hung hăng, và v.v…có si mê như gốc rể sẽ được chiến thắng.  Khi những cảm xúc phiền não được loại trừ, chúng sẽ không thể xúi giục những hành động [nghiệp báo] của quý vị nữa.  Rồi thì sự sinh và tái sinh không thể kiểm soát trong vòng sinh tử luân hồi bị dẫn lối bởi những khuynh hướng được hình thành bởi những hành vi của quý vị (khía cạnh khác của nghiệp báo) được vượt thắng, và giải thoát được đạt đến.

Quý vị cần quán chiếu sự tiến triển này vì thế nó sẽ rõ ràng cho quý vị, và rồi thì tìm kiếm chân lý không sai phạm lỗi lầm.  Khi quý vị thấu hiểu hoàn toàn việc quý vị thâm nhập và tháo gở khỏi vòng khổ đau như thế nào, quý vị sẽ nhận thức sâu sắc và đánh giá đúng sự hiểu biết cung cách mà con người và sự vật thật sự là.  Nếu quý vị không đi đến thấu hiểu rằng những thái độ tàn phá có thể bị đập tan hoàn toàn, thì sự hiện hữu giải thoát sẽ không rõ ràng đối với quý vị.  Nhưng khi quý vị thấu hiểu rằng những nhận thức sai lầm thực tế có thể bị xóa bỏ, khuynh hướng của quý vị để đạt đến giải thoát sẽ trở nên mạnh mẽ.  Đây là tại sao tuệ giác là rất quan trọng.

Phản chiếu thiền quán

Quan tâm điều này:

1-    Si mê đưa đến việc phóng đại (hay tự ý thêm vào) tầm quan trọng của xinh đẹp, xấu xí, và những phẩm chất khác.

2-    Sự phóng đại những phẩm chất này đưa đến tham dục, thù hận, ghen tỵ, hung hăng, và v.v…

3-    Những cảm xúc tàn phá này đưa đến những hành vi bị nhiễm ô bởi nhận thức sai lầm.

4-    Những hành vi [nghiệp báo] này đưa đến sự sinh và tái sinh không thể kiểm soát trong vòng sinh tử luân hồi và lập lại sự vướng mắc trong rắc rối khó khăn.

5-    Xóa bỏ si mê làm tiêu mòn sự phóng đại những phẩm chất tích cựctiêu cực; điểu này cắt đứt tham dục, thù hận, ghen tỵ, hung hăng, v.v… và đưa đến sự chấm dứt những hành vi bị nhiễm ô bởi nhận thức sai lầm, do thế kết thúc  sự sinh và tái sinh không thể kiểm soát trong vòng sinh tử luân hồi.

6-    Tuệ giác là lối thoát.

Trích từ quyển How to See Yourself as You Really Are của Đức Đạt Lai Lạt Ma 
Tuệ Uyển chuyển ngữ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 162)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 215)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 409)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 308)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 337)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 619)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 677)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 636)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 685)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 599)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 540)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 685)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 701)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 491)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 574)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 667)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 588)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 590)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 709)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 702)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 768)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 790)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 767)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 958)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 826)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1382)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 911)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1074)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1059)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 990)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 980)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1120)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1397)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1740)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1156)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 965)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 816)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 944)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 970)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1394)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1138)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1171)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 924)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1068)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1516)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1394)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1384)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 979)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1372)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1288)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1249)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant