Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Thực Tại Nền Tảng Của Thế Giới Hoa Nghiêm

13 Tháng Tư 201521:34(Xem: 8339)
Thực Tại Nền Tảng Của Thế Giới Hoa Nghiêm


THỰC TẠI NỀN TẢNG CỦA THẾ GIỚI HOA NGHIÊM


Nguyễn Thế Đăng


 I. Ba yếu tố nền tảng

amitabhaThực tại nền tảng của thế giới Hoa Nghiêm là Phật Tỳ-lô-giá-na (Vairocana). Đây là Pháp thân của Đức Phật Thích-ca và cũng là Pháp thân của tất cả chư Phật. Tỳ-lô-giá-na nghĩa là Đại Nhật, Phổ Quang Minh, Quang Minh Biến Chiếu, Đại Quang Minh Tạng. Thế giới chúng ta đang sống nằm trong thế giới Hoa Nghiêm, và là một phần nhỏ của nó. Thế giới Hoa Nghiêm xuất sanh và hiện hữu trong thực tại nền tảng ấy. Hay nói cách khác, thế giớiPháp thân, Báo thânHóa thân của Phật Tỳ-lô-giá-na.

Thực tại nền tảng ấy cũng là tâm của mỗi chúng sanh, “Tâm, Phật, chúng sanh. Cả ba không sai khác”. (Phẩm Dạ-ma cung kệ tán).

Mọi pháp môn thực hành của kinh Hoa Nghiêm là để ngộ nhập thế giới ấy. Thế giới ấy được kinh gọi là pháp giới, thế giới của pháp. Để thực hành tương ưng với pháp giới Hoa Nghiêm, chúng ta cần biết những phương diện, những đặc tính của nó. Sau đây, chúng ta nghiên cứu ba trong những đặc tính của pháp giới hay thân Phật Tỳ-lô-giá-na. Thiền định, thiền quán về ba phương diện này sẽ đưa chúng ta dần dần đến cái thấy pháp giới Hoa Nghiêm.

  1. Tánh Không:

Ngay trong chương đầu tiên, Thế Chủ Diệu Nghiêm, trong bài kệ đầu

tiên, tánh Không được nói đến như sau:

              Thân Phật phổ biến các đại hội

              Đầy khắp pháp giới không cùng tận

              Tịch diệt, vô tánh, không thể nắm

              Vì cứu thế gian mà xuất hiện

              ….

              Sắc thân tịnh diệu của Như Lai

              Hiện khắp mười phương không gì sánh

              Thân Phật vô tánh, không chỗ y

              Thiện Tư thiên vương quan sát được.

              Âm thanh của Phật vô hạn ngại

              Kẻ đáng được độ thì được nghe

              Nhưng Phật vắng lặng thường bất động

              Nhạo Trí thiên vương chứng môn này.

              Như Lai tịch tịnh vốn giải thoát

              Hiện khắp mười phương không chỗ sót

              Quang minh soi sáng khắp thế gian

              Nghiêm Tràng thiên vương đã được thấy.

Pháp thân Phật Tỳ-lô-giá-na là tánh Không: “tịch diệt, vô tự tánh, không thể nắm, không chỗ y, vắng lặng, bất động, tịch tịnh, vốn giải thoát, quang minh”. Chính vì Pháp thân tánh Không vô tự tánh, vô hạn, không chỗ y như vậy, mà Báo thânHóa thân có thể “phổ biến các đại hội, hiện khắp mười phương không chỗ sót”.

“Vô tánh” tức là vô tự tánh, không có tự tánh, không có hiện hữu nội tại riêng biệt độc lập. Đây chính là tánh Không. “Tịch diệt”, vĩnh viễn tịch diệt, vì không có sự sanh ra, chưa từng sanh ra, hay vô sanh. Tánh Không thì “vô tướng, vô ngại” và do đó hiện hữu khắp mười phương.

Nhưng tánh Không không phải là không có gì hết. Từ nó lưu xuất ra các tướng, hiện hữu trong nó, tiêu tan trong nó. Các tướng, kể các tướng bị định hình bới nghiệp, đều từ tánh Không lưu xuất, nên chúng cũng không có tự tánh, vô tự tánh như tánh Không. Tâm Kinh Bát Nhã nói: “Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác sắc. Sắc tức là Không, Không tức là sắc. Thọ tưởng hành thức cũng là như vậy”.

Các tướng chính là tánh Không, vô ngại, vô hạn. Chính vì các tướng vô ngại, vô hạn, cho nên các tướng mới có thể vô ngại với nhau, khiến có một thế giới tướng tướng vô ngại hay sự sự vô ngại, đây là cảnh giới và cái thấy đặc biệt và cao cấp nhất so với tất cả các kinh khác.

Thật ra các kinh khác cũng có nói đến pháp pháp sự sự vô ngại, nhưng đặc biệtkinh Hoa Nghiêm được tập trung và khai triển sâu rộng nhất, cùng với tất cả các pháp môn để đưa chúng ta đến cái thấy pháp giới sự sự vô ngạicảnh giới cao nhất của tất cả những con đường Phật giáo.

Cảnh giới chư Phật vô lượng môn

Tất cả chúng sanh chẳng vào được

Phật tánh thanh tịnh như hư không

Vì khắp thế gian khai chánh đạo.

Mỗi mỗi chân lông của Như Lai

Đầy đủ công đức như biển cả

Tất cả thế gian đều an vui

Thọ Quang vương đây đã thấy được.

Tánh Không ấy cũng chính là Phật tánh: “Phật tánh thanh tịnh như hư không”. Nhưng tánh Không ấy cũng là tánh Như (Kinh Đại Bát Nhã), Chân KhôngDiệu Hữu: “Mỗi mỗi chân lông của Như Lai, đầy đủ công đức như biển cả”.

Thấy trực tiếp được tánh Không là thấy pháp tánh, thấy Pháp thân Phật, đó gọi là ngộ nhập:

              Rõ biết Pháp tánhvô ngại

              Hiện khắp mười phương vô lượng cõi

              Nơi cảnh giới Phật chẳng nghĩ bàn

              Khiến chúng đồng quy biển giải thoát.

              Như Lai ở đời không chỗ y

              Hiện trong các cõi như vang, bóng

              Pháp tánh rốt ráo không khởi sanh

              Thắng Kiến thiên vương được ngộ nhập.

Pháp thân tánh Không ấy không chỗ nào không có, nên bình đẳng hiện diện trước mặt tất cả chúng sanh. Pháp thân ấy là chỗ quy về của mọi pháp môn, mọi tông phái.

              Phật thân cùng khắp đồng pháp giới

              Khắp ứng chúng sanh đều hiện tiền

              Các thứ pháp môn thường dạy trao

              Nơi pháp tự tại hay khai ngộ.

Thấy trực tiếp tánh Không ấy gọi là ngộ, và tiếp tục đi sâu và rộng bằng Bồ-tát hạnh thì gọi là nhập, hay “Nhập pháp giới”.

 

  1. Quang minh:

Phương diện thứ hai để người ta có thể tiếp xúc được với pháp giớiquang minh hay ánh sáng. Cũng trong phẩm thứ nhất Thế Chủ Diệu Nghiêm này, trang nào cũng có vài chữ quang minh. Chúng ta thấy: “Thần lực của Phật làm cho đạo tràng ảnh hiện tất cả sự trang nghiêm”, “tuôn ánh sáng như mây”, “quang minh của chư Phật”, “tất cả cảnh giới đều hiện trong lưới báu, tất cả chúng sanh nhà cửa đều hiện bóng trong đó”.

Như vậy, bản tánh của thế giới Hoa Tạng này là quang minh hay ánh sáng. Ở đây chúng ta trích ra một số đoạn trong chương thứ nhất, nói về thế giới như là thân Phật Tỳ Lô Giá Na, và thân Phật Tỳ Lô Giá Na như là quang minh. Quang minh với tánh Không là một, bất khả phân.

              Thân Phật thanh tịnh thường tịch diệt

              Quang minh chiếu sáng khắp thế gian

              Không tướng, không hành, không hình bóng

              Ví như mây nổi giữa không gian.

              ………

Pháp vương an trụ cung Diệu Pháp

Pháp thân quang minh soi tất cả

Pháp tánh vô tướng không gì sánh

Hải Âm phạm vương được giải thoát.

Pháp giới là một trường phô diễn của quang minh:

              Như Lai thường phóng đại quang minh

              Trong mỗi quang minh vô lượng Phật

              Đều hiện Phật sự dạy chúng sanh

              Diệu Âm thiên vương đã chứng nhập.

Các đại Bồ tát thì thấy:

Có vị thấy được Phật pháp thân

Vô đẳng vô ngại ở khắp cả

Tánh của hết thảy vô biên pháp

Ở trọn tất cả trong thân ấy.

Có vị thấy Phật sắc thân diệu

Quang minh sắc tướng đều vô biên

Tùy các chúng sanh hiểu chẳng đồng

Trong mười phương cõi đều hiện khắp.

Hoặc thấy Như Lai phóng quang minh

Sáng soi mọi nơi khắp thế gian

Có vị ở trong Phật quang minh

Lại thấy chư Phật hiện thần biến

Có vị thấy Phật phóng quang minh

Từ nơi chân lông tuôn ánh sáng

Thị hiện thuở xưa tu hành đạo

Khiến sanh tin sâu vào Phật trí.

  1. Như huyễn:

Có sự “thị hiện”, “hiện Phật sự”, “hiện khắp”, “hiện trong các

cõi như vang, bóng”, “đều hiện Phật sự hóa chúng sanh”… bởi vì tất cả mọi thị hiện ấy đều là hóa hiện, trên nền tảng như huyễn. Thị hiện mà vẫn “không tướng, không hành, không hình bóng” cho nên hiện mà vẫn giải thoát, vẫn ở trong “cảnh giới định”.

              Phật thân vô tận như hư không

              Vô tướng vô ngại khắp mười phương

              Như huyễn như hóa khắp ứng hiện

              Biến Hóa Âm vương đã ngộ được.

Do vậy, quán như huyễn là một cách để ngộ nhập pháp giới:

              Các môn quán Phật vô sở hữu

              Mười phương tìm cầu bất khả đắc

              Pháp thân thị hiện không chân thật  

              Tịch Âm thiên vương thấy pháp này.

Tính cách như huyễn này cùng với tánh Khôngquang minh khiến có được thế giới sự sự vô ngại, một đặc thù của kinh Hoa Nghiêm:

              Tất cả chúng sanh đều sai khác

              Một chân lông Phật thị hiện đủ

              Bao nhiêu phước đức của chúng sanh

              Trong chân lông Phật đều hiển hiện

              …

              Quang minh chiếu khắp đồng hư không

              Trước các chúng sanh đều khắp hiện

              Trăm ngàn muôn kiếp, các quốc độ

              Trong một sát-na đều hiện rõ.

Đại Bồ tát Phổ Hiền nói trong chương thứ nhất:

Như Lai trang nghiêm cõi rộng lớn

Đồng với tất cả vi trần số

Phật tử thanh tịnh đều khắp đầy

Mưa bất tư nghì pháp vi diệu.

Như trong hội này thấy Phật ngồi

Tất cả vi trần đều như vậy

Phật thân không đến cũng không đi

Bao nhiêu quốc độ đều hiện rõ

………..

Phật ở trong tất cả các vi trần

Thị hiện vô biên đại thần lực

Ba đời vô biên kiếp rộng lớn

Phật trong mỗi niệm đều thị hiện

Ngay chương thứ nhất Thế Chủ Diệu Nghiêm, qua cái thấy của các Thiên vương, các Thần vương, các Thần chủ và các đại Bồ tát, có ba yếu tố, ba đặc tính của Phật Tỳ Lô Giá Na hay Phật thân hay Pháp giới được nhìn thấy. Đó là tánh Không, Quang minhNhư huyễn. Dĩ nhiên đây chỉ là ba yếu tố chính trong rất nhiều yếu tố khác mà kinh sẽ nói đến.

 

  1. II.               Ba phương diện của pháp giới ở mức độ rốt ráo

Một khi thấy được, ngộ được pháp giới, người ta thực hành đầy đủ Bồ-đề tâm, nguyện, Bồ-tát hạnh, thiền định, thiền quán, trí huệ, từ bi… đến mức sâu rộng đến độ những phẩm tính ấy thành biển, biển Bồ-đề tâm, biển đại nguyện, biển đại hạnh, biển đại định, biển đại bi… Những biển đức tính ấy, một khi đã tròn đủ, cũng chính là biển pháp giới.

Quá trình đi sâu và mở rộng sự chứng ngộ pháp giới như vậy được kinh gọi là Nhập pháp giới. Ở đỉnh cao của việc nhập pháp giới và cũng là đỉnh cao của con đường Phật giáo, chúng ta vẫn thấy ba phương diện tánh Không, quang minhnhư huyễn. Ba phương diện, ba đặc tính ấy trở nên sâu, rộng, và vi tế không cùng.

Phẩm Nhập pháp giới, phẩm cuối của kinh, diễn tả sự hành hương tham học và sự chuyển hóa tâm thức của Đồng tử Thiện Tài. Thiện Tài đã theo lời dạy của đức Văn-thù-sư-lợi để bắt đầu cuộc hành trình từ phương Nam. Để bắt đầu con đường trở về Phật tánh của mình. Cuối con đường, Thiện Tài đã gặp đức Di-lặc, gặp lại đức Văn-thù, và cuối cùng gặp đức Phổ Hiền, mà thân ngài biểu lộ trọn vẹn pháp giới.

Đức Di-lặc cho đồng tử Thiện Tài vào lầu gác Tỳ-lô-giá-na Trang Nghiêm. Lầu gác này biểu lộ đầy đủ pháp giới ở mức độ cái thấy biết của một Bồ-tát Nhất sanh bổ xứ là đức Di-lặc.

Chúng ta lại thấy ba phương diện tánh Không, quang minhnhư huyễn biểu lộ ở mức độ sâu rộngvi tế nhất.

“Thiện Tài thấy trong lầu gác rộng vô lượng đồng như hư không. Vô số thứ báu làm đất; vô số cung điện, thềm bực, lan can, đường sá, vô số lưới báu chuỗi báu, tất cả đều bằng bảy báu… Thiện Tài ở một chỗ thấy tất cả chỗ. Nơi tất cả chỗ đều thấy như vậy. Thiện Tài chứng nhập môn vô ngại giải thoát, tâm vô ngại cùng khắp, thấy cùng khắp, kính lễ cùng khắp, tự thấy thân mình ở khắp trong tất cả lầu gác… Vì trụ trong trí huệ Bồ-tát, vì Bồ-tát Di-lặc gia trì, nên trong chút ít thời gianThiện Tài cho là vô lượng kiếp”.

Khi Thiện Tài hỏi những sự trang nghiêm này từ đâu đến, Bồ-tát Di-lặc nói:

“Từ trong trí huệ thần lực của Bồ-tát mà đến, y nơi thần lực Bồ-tát mà an trụ, không có chỗ đi, cũng không có chỗ trụ, chẳng phải tích tập, chẳng phải thường hằng, xa lìa tất cả. Như Long vương làm mưa, chẳng từ thân ra, chẳng từ tâm ra, chẳng có tích tập, mà chẳng phải là chẳng thấy.

Như nơi biển lớn, tất cả các sắc tượng của thế giới đều hiện trong đó. Pháp tánh như vậy. Đây là những tướng của trí biết các pháp của Bồ-tát làm nhân duyên tụ tậphiện ra. Tự tánh như vậy, như huyễn, như mộng, như ảnh, như tượng, đều chẳng thành tựu.

Này thiện nam tử! Như nhà huyễn thuật làm những huyễn sự: không từ đâu đến, không đi đến đâu. Dầu không đến không đi nhưng do huyễn lực mà thấy rõ ràng. Cũng vậy, sự trang nghiêm này không từ đâu đến, cũng không đi đâu. Dầu không đến không đi, nhưng do học tập sức huyễn trí chẳng thể nghĩ bàn và do sức đại nguyện xưa kiahiển hiện như vậy”.

Tất cả những sự trang nghiêm trong lầu gác Di-lặc, cũng là pháp giới được các bậc chứng ngộ rốt ráo thấy biết, đều hiển hiện trên nền tảng quang minh.

“Thấy chuỗi lưu ly phóng trăm ngàn quang minh đồng thời chiếu sáng”, “Phóng lưới quang minh đại ma-ni vương, hoặc xanh vàng đỏ trắng, hoặc làm thành màu tất cả quang minh”, “Phóng những quang minh nhiều màu”…

Hợp nhất trọn vẹn với cội nguồn pháp tánh tánh Không, quang minh, như huyễn như vậy, Bồ-tát Di-lặc nói với Thiện Tài sự hợp nhất với tất cả pháp giớichúng sanh:

“Thân ta sanh khắp tất cả pháp giới, đồng sắc tướng sai biệt với tất cả chúng sanh, đồng tiếng lời sai khác với tất cả chúng sanh, đồng những danh hiệu với tất cả chúng sanh, đồng những cử chỉ sở thích của tất cả chúng sanh, để tùy thuận thế gian giáo hóa điều phục, thị hiện thọ sanh đồng với tất cả chúng sanh thanh tịnh, những sự nghiệp làm ra đồng với tất cả chúng sanh phàm phu. Đồng với tâm tưởng của tất cả chúng sanh, đồng thệ nguyện với tất cả Bồ-tát mà hiện thân đầy khắp pháp giới”.

 

  1. III.           Pháp giới sự sự vô ngại

Trên nền tảng tánh Không, quang minhnhư huyễn mà có pháp giới sự sự vô ngại. Pháp giới ấy càng lúc càng hiển lộ trên con đường cầu học của đồng tử Thiện Tài. Cuối cùng, gặp đức Phổ Hiền, Thiện Tài chứng đắc rốt ráo pháp giới sự sự vô ngại ở mức độ của một vị Phật.

Nền tảng hay bản tánh của pháp giớitánh Không, quang minhnhư huyễn. Nền tảng hay bản tánh ấy tự thân là vô ngại: tánh Không vô ngại với tánh Không và với hai phẩm tính kia, quang minh vô ngại với quang minh và với hai phẩm tính kia… Bản tánhvô ngại, thế nên các tướng sanh khởi từ bản tánh ấy, hiện hữu trong bản tánh ấy, tan biến trong bản tánh ấy cũng là vô ngại. Các tướng vô ngại với nhau, đó là tướng tướng vô ngại hay sự sự vô ngại.

Sự sự vô ngại bởi vì sự là tánh Không, mà tánh Không thì vô ngại, nên sự này vô ngại với các sự khác trong tánh Không. Sự là ảnh hiện của quang minh, mà quang minh thì vô ngại, nên sự này, ảnh hiện này, vô ngại với các sự khác, các ảnh hiện khác. Sự là như huyễn, mà như huyễn thì vô ngại, nên sự như huyễn này vô ngại với các sự như huyễn khác.

Một mẩu nhỏ của không gian (vi trần) vô ngại, tương tức tương nhập, tương dung tương nhiếp với tất cả các mẩu nhỏ của không gian khác. Một mẩu nhỏ của thời gian (sát-na, khoảnh khắc, một niệm) vô ngại, tương tức tương nhập, tương dung tương nhiếp với tất cả các mẩu nhỏ của thời gian khác. Một mẩu nhỏ của không gian vô ngại, nhiếp nhập với một mẩu nhỏ của thời gian và với tất cả mẩu nhỏ thời gian. Cứ như thế, nhiếp nhập là trùng trùng vô tận.

Do sức đồng thiện căn với Bồ-tát Phổ Hiền, Thiện Tài thấy mười thứ tướng tốt lành, mười thứ quang minh như:

“Thấy bao nhiêu vi trần của tất cả thế giới, trong mỗi vi trần xuất sanh tất cả vi trần số lưới mây thế giới Phật quang minh chiếu sáng khắp nơi.

Thấy thân Phổ Hiền mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả mây thế giới vi trần số quang minh, khắp pháp giới hư không giới tất cả thế giới, trừ diệt tất cả khổ não chúng sanh, khiến các Bồ-tát sanh đại hoan hỷ. Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả mây vi trần số cõi Phật ba đời…”.

Nơi mỗi lỗ lông, nơi một vi trần chứa tất cả cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh, và chứa bất khả thuyết kiếp:

 

              Hoặc xem thấy nơi một lỗ lông

              Đầy đủ cõi trang nghiêm rộng lớn

              Vô lượng Như Lai đều ở trong         

              Phật tử thanh tịnh đều đồng thấy.

              Hoặc thấy trong mỗi một vi trần       

          Có đủ hằng sa quốc độ Phật

          Vô lượng Bồ-tát đều đầy đủ

Bất khả thuyết kiếp tu các hạnh.

 

Pháp giới là đồng nhất (tương tức) và dung thông (tương dung), như nước là đồng nhất và dung thôngmọi nơi, mọi lúc. Phật thì vô ngại nên hiện ở mọi nơi, mọi lúc, như mặt trăng hiện ở khắp nơi có nước:

                   Ví như trăng sáng giữa hư không

                   Chúng sanh thế gian thấy tròn khuyết

                   Tất cả sông ao hiện bóng trăng

                   Tất cả tinh tú đều kém sáng

Một và tất cả tương nhập tương nhiếp:

                   Ở trong một cõi thành Chánh giác

                   Trong tất cả cõi cũng đều thành

                   Tất cả cõi vào một, một vào khắp

                   Tùy tâm chúng sanh đều thị hiện.

Pháp thân Phậttánh Không, quang minh, như huyễn. Khi đạt được pháp thân thì thế giới quanh ta trở thành pháp giới sự sự vô ngại. Pháp thân ấy, pháp giới ấy luôn luôn ở trước mắt chúng ta. Nhưng vì bám chấp tướng chúng ta không thấy tánh Không, vì chạy theo bóng ảnh hiệnchúng ta không thấy được tấm gương quang minh hằng sáng từ đó các bóng sanh khởi, và vì sống trong thế giới sanh tử danh tướng, cho đó là cứng chắc, là có tự tánh, là thật, mà chúng ta không thấy được tính như huyễn, như “mây” của các pháp.

Phật đã chứng đắc hoàn toàn Pháp thân, chứng đắc hoàn toàn tánh Không, quang minh, như huyễn, và do đó sống trong pháp giới sự sự vô ngại:

                   Như Lai thanh tịnh diệu Pháp thân

                   Tất cả ba cõi không gì sánh

                   Vì ngoài đường ngôn ngữ thế gian

Bởi vì tánh phi hữu phi vô vậy.

Dầu không chỗ y mà ở khắp

Dầu đến tất cả mà không đi

Như vẽ trong không, cảnh trong mộng

Phải quán thân Phật là như vậy.

Như thế, đi vào tánh Không, quang minh, như huyễn, tức là đi vào pháp giới Hoa Nghiêm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 115)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 143)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 214)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 147)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 194)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 176)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 203)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 229)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 313)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 557)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 419)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 431)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 524)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 709)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 765)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 784)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 785)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 691)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 668)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 678)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 789)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 809)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 905)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 671)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 580)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 673)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 796)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 682)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 686)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 784)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 795)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 789)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 835)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 861)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 850)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1038)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 912)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1570)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1019)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1169)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 911)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1172)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1083)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1072)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1226)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1502)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1933)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1045)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1311)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1053)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 912)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1038)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1068)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1493)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1225)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1249)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 986)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1139)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1604)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant