Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Căn Bản Giới Bồ Tát Của Phật Giáo Tây Tạng

02 Tháng Năm 201508:44(Xem: 8386)
Căn Bản Giới Bồ Tát Của Phật Giáo Tây Tạng

CĂN BẢN GIỚI BỒ TÁT CỦA PHẬT GIÁO TÂY TẠNG


Nguyên tác: Root Bodhisattva Vows
modified, March 2002, from

Berzin Alexander. Taking the Kalachakra Initiation
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển - Thursday, March 05, 2015

PG Tay TangGiới Thiệu

 

Giới là một hình thức vi tế không thấy trong sự tương tục tinh thần, là thứ hình thành thái độ. Một cách đặc biệt, nó là một sự kềm chế khỏi "một hành vi lỗi lầm", hoặc là một thứ tiêu cực một cách tự nhiên hay một việc mà Đức Phật ngăn cấm cho những cá nhân đặc thù đang tu tập để đạt đến những mục tiêu đặc biệt. Một thí dụ trước đây là việc lấy đi mạng sống của một người khác; một thí dụ sau này là ăn sau buổi trưa, là việc mà giới xuất gia tránh để tâm thức họ được trong sáng hơn cho việc hành thiền vào buổi tối và sáng hôm sau.

 

Trong 2 giai tầng của việc phát triển tâm giác ngộ nguyện vọng và dấn thân, chỉ với việc dấn thân chúng ta mới thọ giới Bồ tát.

 

Việc thọ giới Bồ tát chi tiết nguyện tránh hai bộ phận hành vi tiêu cựcĐức Phật ngăn cấm cho những ai tu tập như những vị Bồ tát để đạt đến Giác Ngộ và để có thể làm lợi ích cho những người khác tối đa như có thể:

 

1- mười tám hành vi, giới trọng, nếu vi phạm, cấu thành một căn bản trọng tội hay một sự sụp đổ gốc rể.

2- bốn mươi sáu loại thái độ lỗi lầm, hay giới khinh

 

Một sự sụp đổ gốc rể có nghĩa là một sự đánh mất hoàn toàn thệ nguyện Bồ tát. Nó là một "sự sụp đổ" trong ý nghĩa rằng nó đưa đến một sự suy tàn trong sự phát triển tâm linh và gây trở ngại cho việc tăng trưởng những phẩm chất tích cực. Chữ gốc rể báo hiệu một gốc rể đã bị loại bỏ. Để dễ dàng phát biểu, hai bộ phận này thường được gọi là gốc rể và thứ yếu của Bồ tát giới hay giới trọng và giới khinh. Chúng cống hiến những sự hướng dẫn tuyệt diệu cho những loại thái độ để tránh nếu chúng ta nguyện ước làm lợi ích cho người khác trong một cung cách thuần khiếttrọn vẹn như có thể.

 

Đạo sư Atisha của Ấn Độ vào cuối thế kỷ thứ 10 đã tiếp nhận phiên bản đặc thù này của thệ nguyện hay giới Bồ tát từ vị thầy ở Sumatra Indonesia là Dharmakirti (Dharmapala) của vùng Suvarnadvipa, mà sau này ngài đã truyền trao ở Tây Tạng. Phiên bản này xuất phát từ kinh Akashagarbha, như được trích trong Đại Thừa tập Bồ Tát Học Luận, được Tịch Thiên sáng tácẤn Độ vào thế kỷ thứ 8. Tất cả mọi truyền thống của Tây Tạng hiện tại đang theo đó, trong khi những truyền thống Phật Giáo ở Trung Hoa tuân theo những phiên bản biến thể khác của Bồ tát giới.

 

Việc hứa nguyện giữ gìn Bồ tát giới hay thệ nguyện Bồ tát áp dụng không chỉ cho kiếp sống này, mà cũng cho mỗi kiếp sống sau đó cho đến khi Giác Ngộ. Vì vậy, như những hình thức vi tế, những thệ nguyện này tiếp tục trong sự tương tục tinh thần của chúng ta trong những kiếp sống tương lai. Nếu chúng ta đã thọ giới Bồ tát trong một kiếp sống trước, thì chúng ta sẽ không mất chúng bởi việc vô tình vi phạm bây giờ, ngoại trừ chúng ta mới thọ giới trong kiếp sống này mà thôi. Thọ giới lại trong lần đầu tiên của kiếp sống này làm mạnh mẽ động lực của những nổ lực của chúng ta đối với việc Giác Ngộ đã không ngừng phát triển từ lần đầu tiên chúng ta đã tiếp nhận thệ nguyện Bồ tát. Do thế, những đạo sư Đại Thừa nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chết với thệ nguyện Bồ tát không thay đổi và mạnh mẽ. Sự hiện diện vĩnh cửu của những giới hay thệ nguyện Bồ tát tỏng sự tương tục tinh thần của chúng ta tiếp tục xây đắp những năng lực phước điền tích cực trong những kiếp sống tương lai, ngay cả trước khi chúng ta phục hồi những giới ấy bằng việc thọ giới lại [trong kiếp sống hiện tại].

 

Đi theo vị khai tổ của tông Gelugpa, luận giải của Tông Khách Ba về Bồ tát giới vào thế kỷ 15, Giải thích về giới luật Bồ tát: Con đường chính đến Giác Ngộ, chúng ta hãy thẩm tra về 18 hành vi tiêu cực cấu thành một sự sụp đổ gốc rể hay phạm trọng giới Bồ tát. Mỗi giới có vài quy định chúng ta cần biết.

 

Mười Tám Giới Trọng Của Bồ Tát Giới

 

(1) Tự ca tụng mình và/hay làm giảm giá trị của người khác

Giới này liên hệ đến việc nói những từ ngữ đến một người nào đó trong một vị thế thấp kém. Động cơ phải chứa đựng hoặc là muốn lợi lạc, ca tụng, yêu mến, tôn trọng, và v.v… từ người phát biểu, hay ganh tỵ với người bị làm giảm giá trị. Không có gì khác biệt cho dù những gì người nói đúng hay sai. Những nhà chuyên môn khuyến nghị rằng những người Phật tử cần chăm nom đến việc vi phạm giới này.

 

(2) Không chia sẻ giáo pháp hay tài sản

Ở đây động cơ phải là dính mắc một cách đặc biệt và tánh hà tiện. Hành động tiêu cực này bao gồm không chỉ là việc sở hữu tập vở hay máy thu thanh của chúng ta, mà cũng là việc bủn xỉn với thời gian và từ chối giúp đở khi cần đến.

 

(3) Không lắng nghe sự xin lỗi hay đánh đập người khác

Động cơ của những việc này phải là sân hận. Điều thứ nhất liên hệ đến một trường hợp thật sự khi la lối hay đánh đập người nào đó và hoặc là người nào cầu xin tha thứ, hay người nào khác van xin chúng ta dừng lại và chúng ta từ chối. Điều sau chỉ đơn giản là đánh đập người nào đó. Đôi khi, có thể cần thiết để cho một đứa trẻ cứng đầu hay những con thú một cái tát để chúng dừng lại không chạy nhảy trên đường nếu chúng không nghe, nhưng không thích đáng hay hữu ích để trừng phạt bằng sự nóng giận.

 

(4) Từ bỏ giáo pháp Đại Thừađề xuất những thứ tự chế ra

Điều này có nghĩa là chối bỏ giáo lý về một chủ đề nào đó liên quan đến những vị Bồ tát, chẳng hạn như thái độ đạo đức của họ, và tạo ra thứ thay thế có vẻ hợp lý có lợi cho họ tuy thế hướng dẫn sai lạc trong cùng chủ đề,  cho rằng nó là xác thật, và rồi giảng dạy nó cho người khác nhằm để có được những người ủng hộ. Một thí dụ cho giới trọng này là khi những giáo thọ háo hức không làm sợ hãi những học nhân tương lai bỏ qua thái độ đạo đức giải thoátgiải thích rằng bất cứ hành động nào cũng có thể chấp nhận nếu nó không làm tổn hại người khác. Chúng ta không cần một vị giáo thọ vị  phạm trọng giới này. Chúng ta có thể vi phạm nó ngay cả trong những lúc trao đổi với những người khác.

 

(5) Lấy đồ cúng dường được nhắm đến tam bảo

Trọng giới này là trộm cắp hay tham ô, hoặc là một cách cá nhân hay qua việc ủy thác người nào khác, bất cứ đồ cúng dường hay tài vật thuộc về Phật, Pháp và Tăng, và sau đó xem nó như của chúng ta. Tăng bảo, trong phạm vi này, liên hệ đến bất cứ nhóm nào có 4 tu sĩ xuất gia hay nhiều hơn. Những thí dụ bao gồm việc biển thủ tiền cúng dường cho việc xây dựng một công trình Phật giáo, cho việc in ấn kinh sách, hay cho việc nuôi dưỡng một nhóm tăng ni.

 

(6) Từ bỏ Thánh Pháp

Ở đây trọng giới này là phủ nhận hay, bằng việc phát biểu ý kiến của chúng ta, làm người khác phủ nhận những giáo lý trong kinh luận của Thanh văn, Duyên giác hay Bồ tát thừa là những lời của Đức Phật. Thanh văn là người nghe Đức Phật giảng dạy trong khi giáo pháp vẫn hiện còn, trong khi Duyên giác là những hành giả tự tiến triển, sống một cách chính yếu trong thời điểm tối tăm khi giáo pháp không còn hiện hữu một cách trực tiếp nữa. Để thực hiện một tiến trình tâm linh, họ dựa vào sự hiểu biết trực giác, đạt được từ việc học hỏithực hành đạo đức trong những kiếp sống trước. Giáo huấn của hai thừa này tập hợp cấu thành Tiểu thừa hay "cổ xe nhún nhường" cho việc đạt đến giải thoát cá nhân khỏi vòng sanh tử luân hồi. Đại Thừa nhấn mạnh đến những phương pháp cho việc đạt đến Giác Ngộ tròn vẹn. Việc phủ nhận tất cả hay chỉ những kinh điển nào đó của bất cứ thừa nào xuất phát từ Đức Phật là một trọng giới.

 

Việc duy trì giới này không có nghĩa là chối bỏ một tiên độ lịch sử. Giáo huấn của Đức Phật được truyền khẩu trong hàng thế kỷ trước khi được chuyển đến việc ghi chép và vì thế những sự sai lạc hay giả mạo không nghi ngờ gì đã xảy ra. Những đại sư biên tập tam tạng giáo điển Tây Tạng chắc chắn đã phủ nhận những văn bản mà họ xem là không xác thực. Tuy thế, thay vì căn cứ trên quyết định của các ngài một cách định kiến, thì các ngài đã sử dụng tiêu chuẩn của đại sư Pháp Xứng của Ấn Độ vào thế kỷ thứ 7 cho việc đánh giá giá trị của bất cứ tài liệu nào - khả năng về sự thực tập của nó cho việc đem đến những mục tiêu của Phật Giáo của việc tái sanh tốt đẹp hơn, giải thoát, hay Giác Ngộ. Những khác biệt về văn phong, tu từ trong những kinh điển, và ngay cả trong một văn bản đặc thù, thường biểu lộ những khác biệt trong thời gian khi những phần khác nhau của giáo lý được viết xuống hay chuyển dịch qua những ngôn ngữ khác nhau. Do thế, việc học hỏi nghiên cứu kinh điển qua những phương pháp phân tích nguyên văn hiện đại có thể thường có hiệu quả và không mâu thuẩn với trọng giới này.

 

(7) Cởi bỏ y áo hay phạm việc lấy cắp y áo của người khác

Trọng giới này liên hệ một cách đặc biệt đến việc làm việc gì đó tổn hại đến một, hai, hay ba tăng hay ni, bất chấp vị thế đạo đức hay trình độ học hỏithực hành của họ. Những hành vi như vậy cần được động viên bởi ý chí bệnh hoạn hay tính hiểm độc, và bao gồm cả việc đánh đập hay nói năng ngược đãi họ, tịch thu vật dụng của họ hay đuổi họ ra khỏi tu viện của họ. Tuy nhiên, việc tống xuất ra khỏi những tu viện không là một trọng giới nếu họ đã phạm 4 trọng giới: không giết hại, một cách đặc biệt là một người khác; không trộm cắp, một cách đặc thù là thứ gì đó thuộc về cộng đồng tu sĩ; không dối trá, một cách đặc biệt về thành tựu tâm linh; và duy trì việc hoàn toàn độc thân.

 

(8) Phạm bất cứ tội nào trong 5 tội cực ác

Năm tội cực ác là (a) giết cha, (b) giết mẹ, hay (c) một a la hán (một chúng sanh giải thoát), (d) với mục tiêu xấu làm thân Phật chảy máu, hay (e) làm chia rẻ trong cộng đồng xuất gia. Tội cực ác sau cùng liên hệ đến việc phủ nhận giáo huấn cuả Đức Phậtthể chế tu sĩ, đưa đẩy các tu sĩ ra khỏi Đức Phậtthể chế tu sĩ, và động viên họ vào một tôn giáotruyền thống tu sĩ mới thành lập. Nó không liên hệ đến việc rời khỏi một trung tâm hay tổ chức Phật Giáo - một cách đặc biệt do bởi việc biển thủ trong những tổ chức hay những giáo thọ tâm linh của nó - và việc thành lập một trung tâm khác vẫn tuân theo giáo lý của Đức Phật. Hơn thế nữa, thuật ngữ Tăng già hay Tăng đoàn trong tội cực ác này liên hệ một cách đặc biệt đến cộng đồng tu sĩ. Nó không liên hệ đến "tăng đoàn" trong cách sử dụng thông thường của thuật ngữ được đặt ra bởi những người Phật tử phương Tây như sự tương đương với giáo hội hay cộng đồng (congregation ) của một trung tâm hay một tổ chức Phật Giáo.

 

(9) Chấp giữ một quan điểm xuyên tạc, đối nghịch

Điều này có nghĩa là phủ nhận sự chân thậtgiá trị - chẳng hạn như luật nhân quả, một phương hướng an toàntích cực trong cuộc sống, tái sanh, và giải thoát từ nó - và đối nghịch với những ý tưởng như vậy và những ai thủ hộ chúng.

 

(10) Tàn phá những nơi chốn như thành thị,…

Trọng giới này bao gồm việc cố ý phá hủy, ném bom, hoặc làm suy thoái môi trường của một thị trấn hay thành phố, quận, huyện hoặc nông thôn, và làm cho nó không thích hợp, tổn hại, hay khó khăn cho con người hoặc thú vật sinh sống.

 

(11) Giảng dạy tánh không đến những người mà tâm thức chưa rèn luyện

Những đối tượng chính của trọng giới này là những người với động cơ tâm giác ngộ hay tâm bồ đề , những người chưa sẳn sàng để thấu hiểu tánh không. Những người như vậy trở thành sợ hãi hay rối rắm bởi giáo lý này và kết quả là từ bỏ con đường Bồ tát để đi con đường giải thoát cá nhân của thanh văn. Điều này có thể xảy ra như một kết quả của suy nghĩ rằng nếu mọi hiện tượng là trống rỗng sự tồn tại cố hữu, sự tồn tại có thể tìm thấy, thế thì không ai tồn tại cả, vậy thì tại sao uổng công để làm việc vì lợi ích của người khác? Hành động này cũng bao gồm việc giảng dạy tánh không đến những ai có thể hiểu sai nó và vì thế từ bỏ giáo Pháp một cách hoàn toàn, thí dụ bằng việc suy nghỉ rằng Phật Giáo dạy rằng không có gì tồn tại và vì thế tuyệt đối vô nghĩa. Không có một nhận thức ngoại hạng, thì thật khó khăn để biết tâm thức người khác là có được tu tập đầy đủ hay chưa để họ sẽ không hiểu sai giáo huấn tánh không của tất cả mọi hiện tượng. Do thế, thật quan trọng để hướng dẫn người khác đến những giáo lý này qua những giải thích một cách uyển chuyển từ trình độ một, và thẩm tra sự hiểu biết của họ một cách định kỳ.

 

(12) Hướng người khác ra khỏi sự Giác Ngộ tròn vẹn

Những đối tượng cho hành động này là những người đã phát triển động cơ tâm giác ngộ rồi và đang cố gắng hướng đến Giác Ngộ. Phạm trọng giới này là nói với họ rằng họ không thể hành động với bố thí, trì giới, v.v… trong mọi lúc - nói rằng họ không có khả năng để trở thành một Đức Phật và vì thế tốt nhất đối với  họ là chỉ đơn thuần cố gắng cho việc giải thoát của riêng họ mà thôi. Tuy nhiên, ngoại trừ họ thật sự từ bỏ mục tiêu Giác Ngộ thành Phật bằng không việc phạm trọng giới này sẽ không hoàn thành.

 

(13) Hướng người khác ra khỏi những giới luật ba la đề mộc xoa của họ

Ba la đề  mộc xoa hay giới giải thoát cá nhân kể cả những thứ của nam cư sĩ, nữ cư sĩ, tập sự ni, sa di, sa di ni, tỳ kheo, và tỳ kheo ni. Những đối tượng ở đây là những người đang giữ một trong những loại giới ba la đề mộc xoa này. Phạm trọng giới này là nói với họ rằng như một Bồ tát thì giữ giới ba la đề mộc xoa không ích gì, bởi vì đối với những Bồ tát tất cả mọi hành vi đều thuần khiết. Cho việc phạm trọng giới này hoàn tất, thì họ phải thật sự từ bỏ giới luật của họ.

 

(14) Làm giảm giá trị của Thanh văn thừa

Trọng giới thứ 6 là từ chối rằng những thừa Thanh vănDuyên giác là những từ ngữ chân thật của Đức Phật. Ở đây, chúng ta chấp nhận rằng chúng là như thế, nhưng phủ nhận hiệu quả của những giáo lý ấy và chấp giữ rằng thật không thể loại bỏ những cảm xúcthái độ phiền não bằng những phương tiện của những hướng dẫn ấy, thí dụ những ai quan tâm đến thiền quán (tuệ minh sát - vipassana).

 

(15) Tuyên bố sự thực chứng sai lầm về tánh không

Chúng ta phạm trọng giới này nếu chúng ta chưa hoàn toàn thực chứng tánh không, tuy thế giảng dạy hay viết lách về nó giả bộ rằng chúng ta đã chứng, do bởi ganh tỵ với những đại đạo sư. Không khác biệt gì cho dù có bất cứ học nhân hay độc giả nào bị lừa phỉnh bởi sự giả bộ của chúng taTuy thế, họ phải hiểu những gì chúng ta giải thích. Nếu họ không lãnh hội sự thảo luận của chúng ta, sự phạm giới không hoàn thành. Mặc dù giới này liên hệ đến việc tuyên bố sai lạc về những sự thực chứng một cách đặc biệt về tánh không, rõ ràng rằng chúng ta cần tránh những việc tương tự khi giảng dạy về tâm giác ngộ hay những điểm giáo pháp khác. Tuy nhiên, không có lỗi lầm gì trong việc giảng dạy tánh không trước khi thực chứnghoàn toàn, chừng nào chúng ta thừa nhận công khai thực tế này rằng chúng ta đang giải thích chỉ đơn thuần từ trình độ hiện tại của chúng ta, sự hiểu biết tạm thời của chúng ta mà thôi.

 

(16) Chấp nhận những gì bị trộm cắp từ tam bảo

Trọng giới này là chấp nhận như tặng phẩm, vật cúng dường, lương bổng, vật thưởng, phạt, hay hối lộ bất cứ điều gì mà người nào đấy đã trộm cắp hay biển thủ, hoặc là một cách cá nhân hay qua việc ủy nhiệm người nào khác, từ Phật, Pháp, Tăng, kể cả nếu nó thuộc chỉ một, hai, hoặc ba tăng hay ni.

 

(17) Thiết lập những chính sách không công bằng

Điều này có nghĩa là thiên vị chống lại những hành giả đứng đắn, do bởi sân hận hay thù địch họ, và quý mến những người ít thành tựu hơn, hay không thành tựu gì cả, do bởi luyến ái họ. Một thí dụ cho trọng giới này là dành nhiều thời gian như những vị giáo thọ đến những học nhân riêng tư ngẫu nhiên nào đó những người có thể trả tiền học phí cao và hờ hững với những học nhân nghiêm túc những không thể chi trả gì cả.

 

(18) Từ bỏ tâm giác ngộ hay tâm bồ đề hay bodhicitta

Điều này là từ bỏ nguyện vọng đạt đến Giác Ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sanh. Trong hai trình độ của tâm giác ngộ, nguyện vọng và dấn thân, điều này liên hệ một cách đặc biệt đến việc từ bỏ nguyện vọng tâm giác ngộ. Trong việc làm như vậy, chúng ta cũng bỏ luôn tâm giác ngộ dấn thân.

 

(19) Làm giảm giá trị của người khác bằng những từ ngữ hay thơ văn mĩa mai

Tuy nhiên điều này có thể bao gồm trong trọng giới căn bản thứ nhất.

 

Duy Trì Các Giới

 

Khi người ta học về những giới như thế này, đôi khi họ cảm thấy thật khó để giữ giới và lo sợ khi thọ giới. Tuy nhiên, chúng ta tránh loại đe dọa này, bằng việc biết một cách rõ ràng những giới là thế nào. Có hai cách để giải thích chúng. Thứ nhất là các giới là một thái độchúng ta tiếp nhận đối với cuộc sống để kềm chế chính chúng ta khỏi những hạnh kiểm đạo đức tiêu cực nào đó. Thứ hai là chúng là một cấu trúc hay một hình thức vi tếchúng ta dành cho cuộc sống của chúng ta. Trong cả hai trường hợp, việc giữ giới liên hệ đến chính niệm, cảnh giác, và tự kiểm soát. Với chính niệm, chúng ta giữ những giới của chúng ta trong tâm thức suốt mỗi ngày. Với cảnh giác, chúng ta duy trì việc xem xét thái độ của chúng ta để kiểm soát xem nó có phù hợp với các giới hay không. Nếu chúng ta khám phá chúng ta đang vượt quá,hay sắp vi phạm chúng, thì chúng ta thực tập tự kiểm soát . Trong cách này, chúng ta tinh luyệnduy trì một cấu trúc đạo đức cho đời sống của chúng ta.

 

Giữ giớiduy trì chính niệm về chúng là không quá xa lạ hay khó khăn để làm như thế. Nếu chúng ta lái một chiếc xe, chúng ta đồng ý tuân theo những luật lệ nào đó nhằm để giảm thiểu tối đa tai nạngia tăng tối đa an toàn. Những quy luật này định hướng cho sự lái xe của chúng ta - chúng ta tránh chạy quá tốc đọ và giữ phía chúng ta chạy - và đưa ra một cung cách thực tiển và an toàn nhất để đi đến nơi. Sau một vài kinh nghiệm, việc tuân theo những luật lệ trở thành rất tự nhiên và việc chính niệm về chúng là không mệt mõi và không bao giờ là gánh nặng. Cũng giống với việc duy trì giới Bồ tát hay bất cứ giới luật đạo đức nào khác.

 

Bốn Nhân Tố Thừa Nhận Cho Việc Đánh Mất Giới

 

Chúng ta đánh mất những giới của chúng ta khi chúng ta hoàn toàn bỏ mất sự thể hiện cụ thể của chúng từ cuộc sống của chúng ta, hay chấm dứt việc cố gắng để duy trì nó. Điều này gọi là sự rơi rụng gốc rể. Khi nó xảy ra, cách duy nhất để lấy lại khuôn mẫu này là tu sửa lại thái độ của chúng ta, cam kết làm một chương trình tịnh hóa chẳng hạn như hành thiền về từ ái và bi mẫn, và thọ lại giới. Trong 18 giới trọng của Bồ tát, ngay khi chúng ta phát triển một thể trạng của tâm thức về thứ 9 hay 18 - chấp giữ một quan điểm xuyên tạc đối nghịch hay từ bỏ tâm giác ngộ - thì chúng ta đánh mất, chính sự kiện thay đổi tâm thức chúng ta, sự thể hiện đạo đức cụ thể đối với đời sống của chúng ta được hình thành bởi những giới Bồ tát, và vì vậy chúng ta chấm dứt mọi nổ lực để duy trì nó. Kết quả, chúng ta lập tức đánh mất tất cả những giới Bồ tát, không chỉ một giới mà chúng ta từ bỏ một cách đặc biệt.

 

Việc vi phạm 16 giới kia không cấu thành một sự rơi rụng hay trọng tội ngoại trừ thái độ cùng với việc phối hợp hành động bao hàm 4 nhân tố ràng buộc. Những nhân tố này phải được giữ và duy trì  từ thời điểm tức thời sau khi phát triển một động cơ phá giới, cho đến thời điểm ngay sau khi hoàn toàn hành động phạm giới.

 

4 nhân tố ràng buộc là:

 

(1) Không xem hành động tiêu cực như thiệt hại, chỉ thấy những thuận lợi của nó, và quyết định thực hiện hành vi mà không hối hận.

 

(2) Đã từng có thói quen của việc liên lụy sự phạm giới trước đó, không có nguyện ước hay mục đích kềm chế bây giờ hay trong tương lai với việc lập lại nó.

 

(3) Vui thích trong hành vi tiêu cực và cam kết làm nó với sự vui sướng.

 

(4) Không có đạo đức tự trọng (không cảm nhận về danh dự) và không quan tâm đến vấn đề những hành vi của chúng ta phản xạ đối với người khác như thế nào (không cảm nhận sĩ diện), chẳng hạn như các vị thầy và cha mẹ của chúng ta, và vì vậy không có mục đích sửa chửa những tổn hạichúng ta ta đang làm cho chính mình.

 

Trong tất cả 4 thái độ không kèm theo một sự vi phạm bất cứ giới nào trong 16 giới, khuôn mẫu Bồ tát đối với đời sống của chúng ta vẫn ở đấy, như là nổ lực để duy trì nó, nhưng chúng đã trở thành yếu kém. Với 16 giới, có một sự khác biệt lớn lao giữa việc phạm giới và đánh mất chúng.

 

Thí dụ, giả sử chúng ta không cho ai đó mượn sách vở của chúng ta do bởi dính mắc với nó và bần tiện. Chúng ta thấy không có gì sai trái với điều này - xét cho cùng, người này có thể đổ cà phê trên nó hay không trả nó lại. Chúng ta chưa bao giờ cho mượn nó trước đây và không có ý định thay đổi chính sách này bây giờ hay trong tương lai. Hơn thế nữa, khi chúng ta từ chối, chúng ta vui mừng với quyết định của chúng ta. Không có đạo đức tự trọng, chúng ta không hổ thẹn với việc nói không. Chúng ta không quan tâm đến vấn đề sự từ chối của chúng ta phản ánh vào chính chúng ta như thế nào, mặc dù sự thật là người nào đấy đúng là nguyện ước đưa mọi người đến Giác Ngộ, tại sao chúng ta không muốn chia sẻ bất cứ nguồn gốc nào của tri thứcchúng ta có? Không bối rối, chúng ta không quan tâm đến vấn đề sự từ chối của chúng ta phản chiếu vào những vị thầy tâm linh của chúng ta hay vào Phật Giáo một cách phổ quát như thế nào. Và chúng ta không có xu hướng làm bất cứ việc gì để làm cân bằng hành vi ích kỷ của chúng ta.

 

Nếu chúng ta có tất cả  những thái độ này khi chúng ta từ chối cho mượn sách vở của chúng ta, thì chúng ta chắc chắn đã đánh mất sự thể hiện Bồ tát cụ thể trong đời sống của chúng ta. Chúng ta hoàn toàn rơi rụng trong sự rèn luyện của Đại Thừa và đánh mất tất cả những giới luật Bồ tát của chúng ta. Trái lại, nếu chúng ta thiếu một vài thái độ này và không cho mượn sách của chúng ta, thì chúng ta chỉ mới làm đình trệ những nổ lực của chúng ta để duy trì sự biểu hiện Bồ tát cụ thể trong đời sống của chúng ta. Chúng ta vẫn còn giới Bồ tát, nhưng trong một hình thức yếu kém.

 

Những Giới Yếu Kém

 

Việc vi  phạm một trong 16 giới mà không có 4 nhân tố ràng buộc hiện diện không thật sự làm yếu kém giới Bồ tát của chúng ta. Thí dụ, chúng ta không cho người khác mượn sách của chúng ta, nhưng chúng ta biết đó là sai một cách căn bản. Chúng ta không có ý định làm điều này như một chính sách, chúng ta không vui khi nói không, và chúng ta quan tâm đến vấn đề sự từ chối của chúng ta phản chiếu như thế nào đối với chúng ta và đối với những vị thầy của chúng ta. Chúng ta có một lý dogiá trị để từ chối việc cho mượn nó, chẳng hạn chúng ta đang cần nó hay chúng ta đã hứa cho người khác mượn. Động cơ của chúng ta không phải là dính mắc với quyển sách hay bủn xỉn. Chúng ta xin lỗi cho việc không thể cho mượn nó bây giờ và giải thích tại sao, bảo đảm với người ấy là chúng ta sẽ cho mượn nó ngay khi có thể. Để thu xếp sự mất mát, chúng tôi đề nghị chia sẻ ghi chú của chúng tôi. Trong cách này, chúng ta duy trì toàn bộ hình thức của Bồ tát trong đời sống của chúng ta.

 

Chúng ta bắt đầu làm yếu hình thức ấy và đánh mất sự giữ gìn những giới của chúng ta khi chúng ta đi đến gia tăng dưới sự ảnh hưởng của dính mắc và bần tiện. Xin hãy chú ý rằng việc duy trì giới Bồ tát để kềm chế từ việc không chia sẻ giáo pháp hay bất cứ nguồn gốc hiểu biết nào không giúp chúng ta giải thoát khỏi sự dính mắc và bần tiện với những cuốn sách của chúng ta. Nó chỉ giữ chúng ta khỏi việc hành động dưới sự ảnh hưởng của chúng. Chúng ta có thể cho mượn sách của chúng ta hay bởi vì một nhu cầu cấp thiết, không cho mượn nó bây giờ, nhưng vẫn có thể vẫn dính mắc với nó và một cách căn bản là một sự bần tiện. Tuy thế, những thệ nguyện hay giới Bồ tát giúp chúng ta trong việc đấu tranh tiêu diệt những cảm xúc phiền nãođạt đến giải thoát khỏi các vấn nạn và khổ đau mà chúng mang đến. Tuy nhiên, nếu những việc tạo rắc rối này càng mạnh hơn, thì thật khó khăn hơn để để thực tập tự kềm chế không để chúng khống chế thái độ của chúng ta.

 

Chúng ta ngày càng bị thống trị nhiều hơn bởi dính mắc và hà tiện - và những giới nguyện của chúng ta dần dần bị yếu kém hơn - khi không cho mượn sách của chúng ta, thì chúng ta biết rằng làm như vậy là sai, nhưng chúng ta chấp giữ một, hai, hay tất cả ba nhân tố ràng buộc. Những điều này cấu thành những mức độ nhỏ, vừa, và lớn của sự hư hỏng sơ bộ (zag-pa chung-ba) những giới nguyện của chúng ta. Thí dụ, chúng ta biết rằng không cho mượn sách là sai, nhưng đó là nguyên tắc của chúng tachúng ta không thực hiện một sự ngoại lệ nào. Nếu chúng ta cảm thấy tệ hại về điều ấy và hổ thẹn về vấn đề những phản chiếu khước từ của chúng ta về chúng ta và các vị thầy của chúng ta, khuôn mẫu Bồ tátchúng ta đang cố gắng để đem vào cuộc sống của chúng ta và vẫn chưa quá yếu kém. Thêm nữa, nhưng nếu chúng ta cảm thấy vui sướng với chính sách của chúng ta và thêm nữa sau đó, chúng ta không quan tâm đến những gì người khác nghĩ về chúng ta hay các vị thầy của chúng ta nữa, thì chúng ta đang ngày càng rơi thành nạn nhân của các dính mắc và bủn xỉn của chúng ta.

 

Và ngay cả một mức độ yếu kém hơn của việc duy trì khuôn thức này trong đời sống chúng ta và bắt đầu khi chúng ta không biết bất cứ điều gì sai sót trong việc từ chối cho mượn sách. Đây là mức độ nhỏ của sự  hư hỏng trung cấp (zag-pa 'bring). Khi chúng ta thêm một hay hai những nhân tố ràng buộc khác, thì chúng ta làm yếu kém khuôn thức này thậm chí xa hơn, với sự hư hỏng trung cấp lớn và sự hư hỏng  cấp độ lớn (zag-pa chen-po) một cách tương ứng. Khi tất cả bốn nhân tố ràng buộc hiện diện, chúng ta vi phạm một sự rơi rụng, một giới trọng, và hoàn toàn đánh mất những giới nguyện Bồ tát của chúng ta. Chúng ta bây giờ hoàn toàn ở dưới sự xoay chuyển của dính mắc và hà tiện, điều này có nghĩa chúng ta không dấn thân nữa trong việc vượt thắng chúng hay nhận ra những tiềm lực của chúng ta vì thế chúng ta có thể làm lợi ích cho người khác. Trong việc rời bỏ giai đoạn liên hệ của Bồ tát, chúng ta đánh mất những giới nguyện Bồ tát của chúng ta, là điều cấu thành mức độ ấy.

Làm Mạnh Mẽ Những Giới Nguyện Yếu Kém

 

Bước đầu tiên để sửa chửa những giới nguyện Bồ tát của chúng ta, nếu chúng ta đã làm yếu kém hay đánh mất chúng, là thú nhận rằng sự sai phạm của chúng ta là một lỗi lầm. Chúng ta có thể làm điều này với một nghi thức sám hối. Một nghi thức như vậy không chi tiết sự tỏ bày những lỗi làm của chúng ta đến một người nào khác hay tìm sự tha thứ từ những Đức Phật. Chúng ta cần trung thực với chính chúng ta và với sự vi phạm của chúng ta. Nếu chúng ta đã cảm thấy đấy là một sự sai sót khi chúng ta thật sự làm hỏng một giới nguyện đặc thù nào đó, thì tái xác nhận lỗi lầm của chúng ta. Sau đó chúng ta phát ra bốn nhân tố hoạt động như những năng lực đối kháng. Bốn nhân tố ấy là:

 

  1. - Cảm thấy hối hận về hành vi của chúng ta. Hối hận, cho dù vào lúc vi phạm một giới nguyện hay sau đó, không giống như một tội lỗi. Hối hận là nguyện ước rằng chúng ta đã không vi phạm với hành động mà chúng ta đang làm hay một hành động chúng ta đã làm. Đó là sự đối lập với việc vui sướng hay sau này hoan hỉ trong hành vi của chúng ta. Tội lỗi, trái lại, là một cảm giác mạnh mẽ rằng hành vị của chúng taxấu xa hay đã thật sự là xấu xa và rằng vì thế chúng ta thật sự là con người xấu xa thật sự. Xem những tính chất này như cố hữu và mãi mãi, chúng ta sống một cách chán chường và không buông bỏ. Tuy nhiên, tội lỗi không bao giờ là một sự đáp ứng thích đáng hay hữu ích với những sai sót của chúng ta. Thí dụ, nếu chúng ta ăn một thực  phẩm nào đó mà nó làm chúng ta bệnh, chúng ta hối hạn với hành động của chúng ta - đó là một sai sót. Tuy thế, sự kiện rằng chúng ta đã ăn thực phẩm đó, không làm chúng ta thành bản chất xấu xa. Chúng ta chịu trách nhiệm cho những hành vi của chúng ta và những hậu quả của chúng, nhưng không như có tội về chúng trong một cảm giác kết tội lấy đi bất cứ cảm giác về tự ái hay tự trọng của chúng ta.
  2. - Hứa nguyện để cố gắng tột bậc không lập lại lỗi lầm ấy. Ngay cả nếu chúng ta có một xu hướng như vậy khi vi phạm giới nguyện, thì chúng ta tái xác nhận một cách ý thức quyết định của chúng ta.
  3. - Trở lại căn bản của chúng ta. Điều này có nghĩa là tái khẳng định phương hướng an toàn của chúng ta trong đời sống và dâng hiến trái tim của chúng ta trong việc đạt đến Giác Ngộ vì lợi ích của tất cả - nói cách khác, tiếp sức mạnh và làm tinh thần phấn chấn sự quy ytrình độ nguyện vọng của tâm giác ngộ hay tâm bồ đề hay bodhicitta.
  4. - Quyết tâm thực hiện những biện pháp để cân bằng sự vi phạm của chúng ta. Những biện pháp kể cả việc thiền quán về từ ái, và bố thí, sám hối về những thái độ không tử tế của chúng ta, và dấn thân trong những hành vi tích cực khác. Vì việc làm một cách tàn phá đòi hỏi một cảm giác tự tôn nghiêm đạo đứcquan tâm đến vấn đề những hành vi của chúng ta phản ánh trên những người chúng ta tôn trọng như thế nào, nó đối lập đến việc thiếu vắng những điều này có thể đồng hành với hành vi tiêu cực của chúng ta. Ngay cả nếu chúng ta cảm thấy xấu hổ và thẹn thùng vào lúc vi phạm, những bước tích cực này làm mạnh sự tự trọng và quan tâm đến vấn đề người khác sẽ nghĩ như thế nào đến những vị thầy của chúng ta.

 

Kết Luận

 

Chúng ta có thể thấy rằng những giới nguyện Bồ tát trong thực tế thật khó khăn để bị mất hoàn toàn. Cho đến khi nào chúng ta chân thành tôn trọngcố gắng để giữ gìn các giới nguyện như sự hướng đạo, thì chúng ta không bao giờ thật sự đánh mất chúng. Đây là bởi vì bốn nhân tố ràng buộc là không bao giờ hoàn toàn ngay cả nếu những cảm xúc phiền não của chúng ta làm chúng ta vi phạm một giới nguyện. Và ngay cả trong trường hợp chấp thủ một thái độ bóp méo đối kháng  hay từ bỏ tâm giác ngộ hay tâm bồ đề, nếu chúng ta thừa nhận lỗi lầm của chúng ta, tập trung những năng lực đối trị của sám hối và v.v…, và tái thọ nhận giới nguyện lại, thì chúng ta có thể hồi phụctiếp tục con đường tâm linh của chúng ta.

 

Do thế, khi chúng ta cố gắng quyết định có nên thọ giới Bồ tát hay không, thật hợp lý hơn để căn cứ sự quyết định trên việc lượng định những năng lực của chúng ta để duy trì nổ lực trong việc cố giữ gìn chúng như sự hướng đạo, hơn là năng lực để chúng một cách toàn hảo. Tuy nhiên, tốt nhất, không bao giờ làm suy yếu hay đánh mất những giới nguyện của chúng ta. Mặc dù chúng ta có thể đi lại được sau khi bị gãy một chân, nhưng chúng ta có thể phải đi  khập khiểng.

 

Ẩn Tâm Lộ  ngày Friday, April 24, 2015

 

http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/practice_material/vows/bodhisattva/root_bodhisattva_pledges.html

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18570)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 12478)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 11691)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 13019)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 12044)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 12384)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 11543)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 11890)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 10522)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 10834)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 28161)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 11047)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 11277)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 13503)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 10962)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 11341)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 10804)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 11097)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 26177)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 12288)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 14792)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 10957)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 20195)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 12248)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 11384)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 10667)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 23779)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 11760)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 12189)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 12675)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 10951)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 38563)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 10440)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 12053)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 17566)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 24871)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 10423)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
(Xem: 10635)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
(Xem: 11929)
Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
(Xem: 11191)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
(Xem: 11515)
Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế...
(Xem: 14618)
Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
(Xem: 21338)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
(Xem: 9789)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
(Xem: 11157)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
(Xem: 27190)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 11085)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
(Xem: 11719)
Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống...
(Xem: 10892)
Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển...
(Xem: 14201)
Đàn tràng chẩn tế cũng gọi là Trai đàn vì lấy sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho cô hồn, ngạ quỷ được ân triêm công đức.
(Xem: 11374)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
(Xem: 12549)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12157)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 10936)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10809)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13233)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11668)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13555)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11794)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11048)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant